Những khuyến nghị nhằm phát triển bền vững hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Tóm tắt: Sau gần 30 năm hoạt động, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) được xem là một kênh dẫn vốn quan trọng đến với nông dân ở khu vực nông thôn và người dân nghèo ở thành thị, đóng góp quan trọng trong công tác xóa đói, giảm nghèo, hạn chế tệ nạn tín dụng đen.
aa


Cần tăng cường công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và tinh gọn bộ máy quản lý, nhân sự để nâng cao hiệu quả hoạt động của QTDND


Tóm tắt: Sau gần 30 năm hoạt động, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) được xem là một kênh dẫn vốn quan trọng đến với nông dân ở khu vực nông thôn và người dân nghèo ở thành thị, đóng góp quan trọng trong công tác xóa đói, giảm nghèo, hạn chế tệ nạn tín dụng đen. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công này, luôn tồn tại những rủi ro đe dọa sự an toàn của hệ thống như rủi ro nợ xấu, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý. Đánh giá thực trạng các loại rủi ro này để có những cảnh báo sớm và giải pháp thích hợp là cần thiết, nhằm phát triển hệ thống QTDND an toàn, bền vững và hiệu quả.

Từ khóa: QTDND, nợ xấu, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý.

RECOMMENDATIONS FOR THE SUSTAINABLE DEVELOPMENT

OF THE PEOPLE'S CREDIT FUND SYSTEM

Abstract: After nearly 30 years of operation, People's Credit Fund (PCF) system is considered a major channel of capital to farmers in rural areas and poor people in urban areas. PCF have made important contributions to poverty alleviation and decrease black credit. However, besides these successes, there are always risks that threaten the safety of the system such as bad debt risk, operational risk, legal risk. Assessing the status of these types of risks for early warnings and appropriate solutions is necessary, in order to develop a safe, sustainable and effective PCF system.

Keywords: PCF, bad debt, operational risk, legal risk.

1. Giới thiệu

Quản lý rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) là một trong những vấn đề được các cơ quan quản lý Nhà nước quan tâm hàng đầu. Rủi ro là nhân tố chính ảnh hưởng đến giá trị của TCTD và hiệu quả hoạt động của các TCTD. Mặc dù các QTDND đang hoạt động trong thị trường ngân hàng bán lẻ giống như các ngân hàng thông thường, nhưng các QTDND có sự khác biệt trong cấu trúc và hoạt động. Các thủ tục nội bộ về quản lý rủi ro trong các QTDND cũng không được chặt chẽ như ở các ngân hàng thương mại (NHTM). Bởi vì, các thành viên của QTDND đồng thời là chủ sở hữu của QTDND nên không tồn tại những phát sinh từ mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người quản lý. Chính vì vậy, ban lãnh đạo QTDND không quá chú trọng xây dựng các quy trình quản lý rủi ro và kiểm soát rủi ro trong hoạt động của QTDND. Trong một số trường hợp, việc quản lý rủi ro không đầy đủ có thể dẫn đến sự phá sản của các QTDND riêng lẻ hoặc gây ảnh hưởng toàn bộ hệ thống QTDND, có thể sẽ có ảnh hưởng dây chuyền đến hệ thống các TCTD. Với tầm quan trọng của vấn đề, bài viết sẽ đánh giá thực trạng rủi ro của hệ thống QTDND, đề xuất các khuyến nghị để phát triển an toàn hệ thống QTDND.

2. Thực trạng rủi ro của hệ thống QTDND

Rủi ro từ nợ xấu

Nợ xấu và nợ quá hạn quá lớn luôn là yếu tố chính đứng sau sự thất bại của các QTDND. Tỷ lệ nợ xấu hệ thống QTDND trong giai đoạn 2011 - 2017 tuy không cao nhưng có xu hướng tăng nhanh, năm sau cao hơn năm trước. Trong đó, nợ nhóm 5 (nợ ở mức độ cao và nghiêm trọng nhất) chiếm tỷ trọng cao (trung bình là 60,4%) và có xu hướng tăng qua các năm. Thực trạng này cho thấy, hoạt động cho vay của một số QTDND bộc lộ nhiều bất cập, tiềm ẩn rủi ro. Quản trị rủi ro tín dụng của nhiều QTDND còn yếu, quy trình thẩm định xét duyệt cho vay còn lỏng lẻo. Để hạn chế sự ảnh hưởng của nợ xấu đến nền kinh tế, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD. Sau 3 năm tích cực xử lý nợ xấu, đến năm 2020, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống QTDND đã giảm dưới mức 1%. Cụ thể, hệ thống QTDND tại tỉnh Nam Định từ năm 2017 đến năm 2020 đã xử lý 2.590,98 tỷ đồng nợ xấu, bằng các biện pháp thu hồi nợ từ khách hàng, phát mại tài sản thế chấp… Đến cuối năm 2020, tỷ lệ nợ xấu hệ thống QTDND Nam Định giảm còn 9,297 tỷ đồng, giảm 99,64%. Tại tỉnh Hòa Bình, đến hết năm 2020, hệ thống QTDND tỉnh Hòa Bình có nợ xấu 10,97 tỷ đồng, chiếm 2,59% tổng dư nợ; hệ thống QTDND tỉnh Phú Thọ tỷ lệ nợ xấu của cả hệ thống chỉ chiếm 0,48% tổng dư nợ cho vay; hệ thống QTDND tỉnh Sóc Trăng có tỷ lệ nợ xấu dưới 1,65%; tỷ lệ nợ xấu của hệ thống QTDND tỉnh Hưng Yên khoảng 1,3%; hệ thống QTDND tỉnh Khánh Hòa có tỷ lệ nợ xấu 0,27%... Tuy nhiên, với tình hình dịch Covid-19 kéo dài trong cả năm 2021, mà đối tượng bị ảnh hưởng mạnh là các hộ buôn bán nhỏ, thuộc các lĩnh vực ngành nông nghiệp và thủy sản, xây dựng, kinh doanh, dịch vụ… đây cũng là thành viên vay vốn QTDND. Thực tế này dự báo một tỷ lệ nợ xấu gia tăng mạnh ở hệ thống QTDND trong năm 2021. Trước tình hình này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có văn bản yêu cầu các TCTD xây dựng các kịch bản ứng phó trong trường hợp dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, ảnh hưởng hoạt động của các TCTD, đồng thời, có những dự báo về xu hướng nợ xấu gia tăng trong thời gian tới. Theo đó, tỷ lệ nợ xấu nội bảng và nợ xấu tiềm ẩn cuối năm 2021 ở mức 7,1 - 7,7%, xấp xỉ 8%. Với dự báo có cơ sở thực tiễn, xu hướng nợ xấu sẽ gia tăng ở hệ thống QTDND trong năm 2022. Tỷ lệ nợ xấu cao sẽ chứa đựng nhiều mối đe dọa cho sự an toàn của hệ thống QTDND nói riêng và các TCTD nói chung.

Rủi ro từ hoạt động

Từ năm 2018 đến năm 2021, số lượng QTDND rơi vào trạng thái kiểm soát đặc biệt có dấu hiệu tăng lên mỗi năm (Bảng 1). Hầu hết các QTDND bị kiểm soát đặc biệt là do yếu kém trong công tác quản trị đã dẫn đến các quyết định cho vay thiếu chính xác, nợ xấu gia tăng, hoạt động kinh doanh thua lỗ. Các QTDND rơi vào tình trạng kiểm soát đặc biệt đều có liên quan đến sai phạm của lãnh đạo và cán bộ như sai phạm của QTDND trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Thanh Hóa, Hưng Yên, Hậu Giang... Lãnh đạo QTDND lợi dụng chức vụ, quyền hạn tham ô, lừa đảo chiếm đoạt tài sản người khác hoặc lãnh đạo QTDND thiếu trách nhiệm, năng lực quản lý điều hành yếu kém dẫn đến bị lợi dụng làm thất thoát tài sản của quỹ. Bộ máy quản trị, điều hành, kiểm soát, kiểm toán nội bộ tại QTDND còn yếu; năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý QTDND còn hạn chế. Hoạt động của Ban Kiểm soát tại nhiều QTDND chưa đảm bảo tính độc lập trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động của Hội đồng Quản trị và Ban Điều hành. Tại một số QTDND, Ban Kiểm soát đã bị vô hiệu hóa và chỉ mang tính hình thức. Những vấn đề về quản lý này đã đưa một số QTDND rơi vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.


Nguồn: Tổng hợp từ NHNN

Với đặc điểm QTDND được sở hữu và quản lý bởi các thành viên, do đó, khi các QTDND rơi vào trạng thái kiểm soát đặc biệt, khiến các thành viên của QTDND mất đi nguồn tài trợ tín dụng là nguồn vốn chính tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này gia tăng khó khăn và nghèo đói cho các thành viên, gây cản trở mục tiêu phát triển kinh tế ở các vùng nghèo.

Rủi ro pháp lý

Môi trường pháp lý chưa đầy đủ cũng ảnh hưởng đến hoạt động của các QTDND. Chẳng hạn, trong công tác cho vay, sự bất cập và chồng chéo của các quy định pháp luật sẽ khiến các cơ quan hữu quan lúng túng trong việc xử lý tranh chấp về tài sản bảo đảm; các quy định về kế toán, kiểm toán chưa có chế tài mạnh mẽ sẽ khiến số liệu báo cáo có mức độ chính xác không cao, phản ánh không đúng kết quả hoạt động của quỹ. Những nội dung luật quy định còn chung chung sẽ khiến các đối tượng chịu tác động chi phối của pháp luật rất khó thực hiện. Chẳng hạn, Thông tư số 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 của Thống đốc NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ đối với các QTDND chưa cụ thể nên QTDND rất lúng túng khi triển khai thực hiện. Hoặc sự bất cập trong quy định như Thông tư số 44/2011/TT-NHNN quy định thành viên Ban Kiểm soát nội bộ do Hội đồng Quản trị bổ nhiệm, Ban Kiểm soát nội bộ chỉ có quyền đề nghị. Trong khi đó, Hội đồng Quản trị cũng là đối tượng thuộc phạm vi giám sát của kiểm soát nội bộ. Hoặc Thông tư số 21/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 của Thống đốc NHNN về sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư quy định về ngân hàng hợp tác xã, QTDND và Quỹ Bảo đảm an toàn hệ thống QTDND của NHNN vẫn còn bất cập về việc quy định công nhận tư cách thành viên. Theo quy định, QTDND hoạt động chịu sự chi phối bởi hai luật, Luật Hợp tác xã và Luật Các TCTD, để được vay vốn và gửi tiền tại QTDND thì khách hàng phải là thành viên của QTDND. Ngoài ra, để xác lập tư cách thành viên thì phải được đại hội thành viên thông qua ở mỗi kỳ thường niên sau khi kết thúc năm tài chính tối đa là 90 ngày theo quy định (ngoại trừ QTDND có lý do phải triệu tập đại hội bất thường). Như vậy, tại thời điểm cần vốn nhưng chưa được xác lập tư cách thành viên thì khách hàng không thể được vay vốn mà phải đợi đại hội thông qua, ít nhất là phải đợi 09 tháng… Những bất cập trong quy định pháp lý sẽ tạo ra rủi ro pháp lý cho QTDND, nó có thể làm gia tăng nợ xấu và giảm hiệu quả hoạt động của QTDND.


Hệ thống QTDND được xem là một kênh dẫn vốn quan trọng đến với nông dân ở khu vực nông thôn và người dân nghèo ở thành thị, đóng góp quan trọng trong công tác xóa đói, giảm nghèo, hạn chế tệ nạntín dụng đen.

3. Một số khuyến nghị nhằm hạn chế rủi ro của hệ thống QTDND

Phát triển an toàn, hiệu quả hệ thống QTDND là một trong những mục tiêu quan trọng của Nhà nước, điều này cũng được thể hiện trong “Đề án Củng cố và phát triển hệ thống QTDND đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”, ban hành kèm theo Quyết định số 209/QĐ-NHNN ngày 31/01/2019 của Thống đốc NHNN. Theo định hướng của Đề án và từ thực trạng phân tích ở trên, để hệ thống QTDND phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững, tác giả đề xuất những khuyến nghị sau:

Cần kiểm soát nợ xấu

Nợ xấu cao là yếu tố đẩy các QTDND nhanh chóng đi đến sự đổ vỡ. Do đó, để kiểm soát nợ xấu, yêu cầu các QTDND cần tuân thủ đúng các quy định về an toàn trong hoạt động, các quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện quy chế nội bộ về hoạt động cho vay, quản lý tiền vay, đảm bảo việc sử dụng tiền vay đúng mục đích; tăng cường thiết chế kiểm soát hoạt động tín dụng theo nguyên tắc phân định và bảo đảm tính độc lập giữa bộ phận thẩm định và bộ phận xét duyệt cho vay; tăng cường kiểm soát chất lượng tín dụng, chủ động quản lý và kiểm soát nợ xấu; tăng cường quản lý rủi ro để giảm chi phí dự phòng rủi ro. Trước mắt, để đối phó với tỷ lệ nợ xấu gia tăng do đại dịch Covid-19, các QTDND cần trung thực báo cáo và thực hiện nghiêm túc theo hướng dẫn của NHNN.

Nâng cao năng lực quản lý QTDND

Năng lực và trình độ quản lý của Hội đồng Quản trị, Ban Giám đốc QTDND là một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến sự thành công hay thất bại của tổ chức. Hiện nay, về cơ bản thì đội ngũ cán bộ chủ chốt của QTDND đã được đào tạo qua các lớp nghiệp vụ chuyên môn về QTDND ngắn ngày và trình độ tối thiểu là trung cấp trở lên. Hầu hết đội ngũ lãnh đạo đều đáp ứng các tiêu chuẩn trình độ theo quy định. Tuy nhiên, năng lực quản trị điều hành của Hội đồng Quản trị còn nhiều hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa theo kịp với xu thế. Một trong những lý do đó là một số thành viên lớn tuổi vẫn còn tham gia công tác, đặc biệt lại là nhân sự chủ chốt ở các QTDND. Điều này khiến khả năng tiếp cận ngoại ngữ, tin học, công nghệ tài chính hiện đại bị hạn chế, khiến QTDND hoạt động chưa phù hợp với sự phát triển của thị trường hiện tại. Do đó, trong Đề án Củng cố và phát triển QTDND nêu rõ “cần tăng cường công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và tinh gọn bộ máy quản lý, nhân sự để nâng cao hiệu quả hoạt động của QTDND, rà soát đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn của Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Giám đốc QTDND phù hợp với quy mô hoạt động của các QTDND; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, phần mềm đáp ứng yêu cầu quản trị, quản lý tài chính, hạch toán, kế toán của QTDND”. Nếu nội dung này được thực hiện tốt, sẽ góp phần mạnh mẽ trong việc phát triển hiệu quả hệ thống QTDND.

Cần tách riêng một hệ thống pháp luật cho QTDND

Mặc dù, hệ thống QTDND thời gian qua đã đạt được những thành quả nhất định, nhưng loại hình QTDND vẫn là những tổ chức dễ bị tổn thương khi thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội, đó là phục vụ những đối tượng yếu thế có hoàn cảnh khó khăn đa số ở vùng nông nghiệp, nông thôn, song, so với các TCTD khác, QTDND có quy mô tài sản nhỏ, năng lực tài chính yếu hơn. Thời gian qua, đã có nhiều thay đổi về mô hình và công tác quản lý Nhà nước đối với hệ thống QTDND, chủ trương của Đảng và Nhà nước là kiên trì phát triển loại hình kinh tế hợp tác hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng, cho nên phải không ngừng hoàn thiện các nội dung quy định trong công tác quản lý Nhà nước đối với riêng hệ thống QTDND. Hiện nay, một số nội dung quy định trong quản lý của hệ thống pháp luật đối với QTDND chưa hoàn toàn phù hợp như thực trạng đã nêu. Kinh nghiệm các nước có tồn tại hệ thống QTDND (Hệ thống Liên hiệp Tín dụng - Credit Unions), đều có ban hành một hệ thống luật riêng biệt cho loại hình, đó là Luật Các liên hiệp Tín dụng (Credit Union Law). Với quy mô tổng tài sản, quy mô số lượng và các đặc thù riêng của QTDND Việt Nam, việc tách riêng một hệ thống luật cho hệ thống QTDND là cần thiết, như vậy, sẽ thuận lợi trong việc điều hành, giám sát hoạt động hệ thống QTDND, giảm thiểu rủi ro pháp lý cho QTDND.

Tăng cường giám sát hoạt động của QTDND

Cơ quan thanh tra, giám sát các TCTD cần tăng cường hơn nữa thanh tra, giám sát, phân tích và đánh giá chất lượng tài sản của các QTDND, các yếu tố liên quan đến tính thanh khoản, khả năng thanh toán, các khoản dự trữ... các chỉ số này có thể đưa ra cảnh báo sớm về tình trạng khó khăn của QTDND. Từ đó, phối hợp với QTDND đưa ra các giải pháp chấn chỉnh kịp thời, trước khi QTDND thật sự rơi vào tình trạng kiểm soát đặc biệt hoặc phá sản. Kinh nghiệm ở các nước cho thấy, nếu quốc gia xây dựng đầy đủ hệ thống cảnh báo sớm để xác định các vấn đề tiêu cực sẽ phát sinh; xây dựng hệ thống can thiệp sớm để giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng và linh hoạt, thì hệ thống QTDND sẽ hoạt động an toàn, ổn định và hiệu quả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Báo cáo Ngân hàng Hợp tác xã về tình hình hoạt động QTDND.

2. Đề án Củng cố và phát triển hệ thống QTDND đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, ban hành kèm theo Quyết định số 209/QĐ-NHNN ngày 31/01/2019 của Thống đốc NHNN.

3. Thông tư số 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 của Thống đốc NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

4. Thông tư số 42/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN về quy định xếp hạng QTDND.

5. Thông tư số 21/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư quy định về Ngân hàng Hợp tác xã, QTDND và Quỹ Bảo đảm an toàn hệ thống QTDND.

6. https://viettimes.vn/pho-thong-doc-nhnn-ty-le-no-xau-toan-he-thong-co-the-dat-gan-8-vao-cuoi-nam-2021-post150848.html, truy cập ngày 5/12/2021.

7. http://baonamdinh.com.vn/channel/5085/202009/hieu-qua-buoc-dau-thi-diem-xu-ly-no-xau-cua-cac-quy-tin-dung-nhan-dan-2539862/, truy cập ngày 6/12/2021.

8. http://www.baohoabinh.com.vn/12/151530/Hieu-qua-hoat-dong-cua-he-thong-quy-tin-dung-nhan-dan.htm, truy cập ngày 6/12/2021.


TS. Lê Hà Diễm Chi, Trịnh Thị Thu Dung

Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Xem thêm
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng, tài sản bảo đảm được hiểu là tài sản do bên vay cung cấp nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với khoản vay. Tài sản bảo đảm đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro tín dụng cho tổ chức tín dụng, đặc biệt trong trường hợp bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Việc yêu cầu tài sản bảo đảm không chỉ là một biện pháp quản lý rủi ro hiệu quả, mà còn góp phần bảo đảm sự an toàn, ổn định và phát triển bền vững của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách xã hội

Nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách xã hội

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Quyết định số 1560/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 30/10/2024 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới.
Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Sáng 18/7/2025, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Hội nghị Trung ương 12) đã khai mạc trọng thể. Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì và phát biểu khai mạc Hội nghị. Tạp chí Ngân hàng trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng