Ngân hàng hợp kênh - Xu hướng phát triển của ngân hàng thương mại trong kỷ nguyên số và một số khuyến nghị

Công nghệ & ngân hàng số
Ngành Ngân hàng đang trải qua những thay đổi nhanh chóng và rộng khắp do những tiến bộ về khoa học kỹ thuật dẫn đến kết quả là những nhu cầu của khách hàng gia tăng, có tính cá nhân hoá và trải nghiệ...
aa

Ngành Ngân hàng đang trải qua những thay đổi nhanh chóng và rộng khắp do những tiến bộ về khoa học kỹ thuật dẫn đến kết quả là những nhu cầu của khách hàng gia tăng, có tính cá nhân hoá và trải nghiệm dịch vụ ngân hàng liền mạch. Cùng với những tiến triển trên, định hướng ngân hàng đa kênh trở thành đặc điểm phải có của các dịch vụ ngân hàng. Tuy nhiên, vai trò của nó chưa được hiểu thấu đáo, nhất là trong bối cảnh này. Bài viết cung cấp thêm những ý kiến về ngân hàng hợp kênh dưới góc nhìn khoa học kỹ thuật cũng như những hiểu biết về khách hàng trong bối cảnh mới. Từ đó đưa ra những khuyến nghị về việc phát triển của ngân hàng thương mại để đón đầu và chuẩn bị cho xu hướng ngân hàng hợp kênh.

1. Giới thiệu


Ngành Ngân hàng đang trải qua những thay đổi mạnh mẽ và nhanh chóng nhờ vào những tiến bộ về khoa học kỹ thuật như cơ sở hạ tầng cho hoạt động thanh toán ngay lập tức, xác nhận trên điện thoại di động, công nghệ chuỗi khối (Block chain), và Internet kết nối vạn vật (Internet of Things) (Light et al., 2016). Hệ quả là, khách hàng ngày càng có nhu cầu cao hơn về những trải nghiệm ngân hàng liền mạch, cá nhân hoá liên tục mọi lúc mọi nơi. Cùng với sự phát triển của hoa học kỹ thuật và việc sử dụng ngày càng nhiều điện thoại thông minh và máy tính bảng, xu hướng hợp kênh (omni-channel) đã dần trở nên quan trọng đối với các tập hợp dịch vụ ngân hàng đa dạng. Hoạt động ngân hàng hợp kênh (omni-channel banking) cung cấp đường dẫn đến các dịch vụ tài chính ngân hàng thông qua nhiều kênh khác nhau (như chi nhánh ngân hàng, ATM, tổng đài điện thoại, ngân hàng điện tử/ngân hàng internet và ngân hàng qua điện thoại di động) một cách hợp nhất dựa trên ý tưởng “mọi thứ đều có thể được làm trên mọi kênh” (Rosman, 2015). Để làm được điều này, cần có ba nguyên tắc cơ bản của hợp kênh là sự liền mạch, tối ưu hoá và gắn kết chặt chẽ (McKinney, 2014); (Rosman, 2015). Saghiri và các cộng sự (2017) còn mô tả kỹ hơn về hợp kênh như là những hệ thống phức tạp có khả năng thích nghi bao gồm những đại lý (hay những thực thể), sự kết nối, sự khẩn cấp và sự tự động/kiểm soát (Saghiri et al., 2017). (Carroll and Guzmán, 2015) thì cho rằng, hợp kênh được hiểu một cách tổng quát là một định hướng cung cấp một trải nghiệm đơn lẻ, liền mạch, thống nhất cho khách hàng giữa tất cả các kênh.


Mặc dù hiện tại, xu hướng ngân hàng đa kênh (multi-channels) vẫn đang là lựa chọn ưu tiên của các ngân hàng thương mại trên toàn cầu, định hướng hợp kênh cũng là một khái niệm đang dần trở nên phổ biến trong ngành Ngân hàng và một số nhà nghiên cứu cho rằng để tăng cường năng lực cạnh tranh, các ngân hàng nên thích nghi với định hướng này (Jörgen Ericsson, 2012).

Trong phạm vi bài nghiên cứu này, nhóm tác giả chỉ tập trung vào việc tìm hiểu rõ hơn về định hướng hợp kênh cũng như những trở ngại mà các ngân hàng gặp phải khi chuyển qua hệ thống hợp kênh để từ đó đưa ra những gợi ý cho việc áp dụng hợp kênh vào ngành Ngân hàng như thế nào để mang lại lợi ích tốt nhất.

2. Sự cần thiết của hoạt động ngân hàng hợp kênh

Thực tiễn cho thấy, ngày nay, số lượng các thiết bị sở hữu bởi khách hàng và được cung cấp bởi ngân hàng để thực hiện các dịch vụ ngân hàng ngày càng nhiều. Các khách hàng chấp nhận việc sử dụng nhiều thiết bị để truy cập vào tài khoản của họ và thông tin ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào. Một số phát minh trong lĩnh vực ngân hàng trong những thập niên vừa qua góp phần không nhỏ cho những thay đổi trên. Kể từ khi những chiếc máy ATM đầu tiên được ngân hàng tiên phong đưa vào sử dụng (ADabholkar, 1996) đã thay đổi cách mà tiền được trao tay cho khách hàng. Khách hàng có thể rút và gửi tiền bất cứ khi nào họ muốn mà không bị giới hạn bởi thời gian làm việc của nhân viên ngân hàng. Tiếp theo đó là các hoạt động ngân hàng trực tuyến đã giúp khách hàng có thể quản lý phần lớn các hoạt động tài chính ở nhà. Thời gian gần đây, nhiều ngân hàng đã đưa ra ứng dụng di động mà qua đó khách hàng thực hiện các nghiệp vụ tài chính theo cách dễ dàng nhất như kiểm tra số dư hay chuyển tiền giữa các tài khoản và mới nhất là việc giúp khách hàng hoàn thành những hoạt động phức tạp hơn như mua và bán chứng khoán (My, 2018). Sự bùng nổ của những điểm tương tác với khách hàng đã xoá mờ những ranh giới giữa những kênh phân phối được gọi là truyền thống.

Các ngân hàng nhận ra rằng, họ phải thay đổi cách mà các kênh phân phối được hình thành và quản lý. Ngày nay, các hoạt động ngân hàng đa kênh kể trên chỉ là tấm vé, tức là điều kiện cần để cạnh tranh, chứ khó có thể là lợi thế cạnh tranh. Vì nhìn chung, các kênh mới đã được xây dựng như những phần độc lập, có ít hoặc không có sự kết nối với những kênh khác. Chưa kể đến áp lực từ làn sóng gia tăng của công nghệ kỹ thuật số được ứng dụng ngày càng nhiều vào ngành Ngân hàng khiến cho các ngân hàng đều chạy đua để tạo ra những ứng dụng ngân hàng cho các thiết bị với những kích thước và chức năng khác nhau trong khi các kênh truyền thống vẫn tập trung nhiều vào việc thực hiện giao dịch, một phần nhỏ trong tổng thể những gì khách hàng cần được đáp ứng. Hệ quả không mong đợi từ việc nhanh chóng cho ra những ứng dụng này là những cản trở trong kênh và sự chia cắt lớn về trải nghiệm của khách hàng. Điều đó cho thấy các ngân hàng cần có sự tiến hoá, đổi mới chứ không thể chỉ dừng ở việc cung cấp nhiều kênh phân phối riêng lẻ cho khách hàng.

Một nghiên cứu của Google với 1.455 người tham gia cho thấy, 46% những người tham gia đã bắt đầu quản lý các hoạt động tài chính của họ trên một thiết bị và sau đó tiếp tục hoặc hoàn tất hoạt động đó trên một thiết bị khác (Google, 2012). Các thiết bị được dùng trong nghiên cứu này gồm có máy tính để bàn, điện thoại di động và máy tính bảng. Mặc dù nghiên cứu không chỉ rõ những hoạt động quản lý tài chính nào được khách hàng thực hiện nhưng có thể dễ dàng hiểu rằng, những kết quả thống kê này là một minh chứng cho thấy xu hướng hợp kênh và những tương tác liền mạch là nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ nói rằng những người dùng chuyển từ thiết bị này sang thiết bị khác khi thực hiện các hoạt động tài chính mà không cho biết được họ làm điều đó thường xuyên như thế nào, tại sao họ làm, và nếu họ muốn làm thì loại hoạt động tài chính nào họ sẽ thực hiện. Sự hiểu biết về những động cơ và ý định của người dùng đối với các kênh giao dịch ngân hàng số chưa thật đầy đủ. Theo nghiên cứu của Mckinney (McKinney, 2014) thì hầu hết các khách hàng của ngân hàng thích thực hiện càng nhiều giao dịch càng tốt thông qua một kênh đơn lẻ, hoặc có thể hai và họ chỉ chuyển qua một kênh khác khi kênh ưa thích thất bại. Những dữ liệu đối lập nhau cho thấy còn nhiều câu hỏi về cách người dùng nhìn nhận và sử dụng nhiều kênh giao dịch của ngân hàng cần được nghiên cứu tiếp.

3. Một số khó khăn, thách thức khi vận hành mô hình kinh doanh hợp kênh đối với các ngân hàng thương mại

Một là, các vấn đề về tổ chức và điều hành. Có thể nói đây là thách thức lớn nhất vì không ai có thể sở hữu được hệ thống hợp kênh. Đối với nhiều ngân hàng hiện nay, hệ thống chi nhánh vẫn là đơn vị bán hàng chủ đạo, tổng đài điện thoại chủ yếu để chăm sóc khách hàng và các kênh kỹ thuật số để làm marketing. Một số ngân hàng đã dịch chuyển đúng hướng khi kết hợp tổng đài điện thoại với những kênh ảo nhưng các quá trình điều hành và công nghệ vẫn chưa thể theo kịp. Trong một số trường hợp, đội ngũ nhân viên và hệ thống vẫn chỉ được xây dựng để phục vụ chính cho một kênh đơn lẻ. Người tiêu dùng đã đi rất xa so với mô hình này. Ngày nay, khi họ gọi cho tổng đài điện thoại, họ có thể đang ngồi trước một máy tính cá nhân và gọi vì không thể thực hiện được giao dịch hay tìm ra giải pháp cho vấn đề của họ. Một cách lý tưởng là ngân hàng có thể hiện thực hoá điều này tốt hơn nhờ học hỏi từ những ngành khác. Ví dụ như ở Mỹ, một số công ty hàng đầu về cho thuê xe ô tô Avis, Hertz , Alamo đã thành lập nên những trạm nhỏ (kiosh) cho phép khách hàng thuê xe thông qua một cuộc gọi video trực tiếp với đại diện chăm sóc khách hàng (Hertz). Điều này không chỉ cung cấp trải nghiệm khách hàng nhanh hơn và hiệu quả hơn, mà còn giúp công ty giảm được chi phí hoạt động. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi một cách tiếp cận khác về tuyển dụng và huấn luyện nhân viên cho cả các chi nhánh và những trung tâm liên lạc. Đó cũng là điểm nhấn của một trong số rất nhiều vấn đề mà các ngân hàng đang quan tâm. Thật ra, một phần trong báo cáo “ Nghiên cứu về đổi mới trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ” xuất bản bởi Efma và Infosys đã chỉ ra rằng, sự đổi mới trong kênh phân phối vẫn là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng trên toàn cầu với 89% những ngân hàng được khảo sát nói rằng họ đang gia tăng đầu tư cho vấn đề này (Marous, 2018). Các ngân hàng cũng cần các công cụ đúng chỗ để thấy được cái mà khách hàng xem chẳng hạn như hệ thống trình duyệt đồng thời. Các ngân hàng cũng cần theo sát các giao dịch qua tất cả các kênh cùng lúc với việc đoán trước được những yêu cầu của khách hàng.

Hai là, văn hoá sản phẩm là trung tâm thay vì khách hàng là trung tâm. Hầu hết các ngân hàng được tổ chức xung quanh các sản phẩm. Các nhóm phụ trách về sản phẩm sẽ xác định và đóng gói các năng lực cụ thể mà ngân hàng có thể phục vụ, và sau đó, các kênh phân phối sẽ tìm ra những cách tốt nhất để bán chúng. Thử nhìn vào một trang web cụ thể, nó được thiết kế xung quanh các sản phẩm như các loại tài khoản, các loại hình tiết kiệm, các khoản vay… hơn là những thứ khách hàng thật sự muốn. Tương tự như vậy, các ngân hàng đều đưa ra các chiến dịch marketing mỗi khi họ giới thiệu sản phẩm hay một tính năng mới để thu hút và thuyết phục khách hàng nhưng khách hàng không nghĩ theo hướng đó. Đối với khách hàng, “khách hàng là trên hết” có nghĩa là, nghĩ về các phân khúc khách hàng thay vì sản phẩm và đặt nền tảng cho những phân khúc này trên cơ sở các hành vi của khách hàng. Cách suy nghĩ này còn có thể giúp giảm chi phí và tăng doanh thu. Thử tưởng tượng trường hợp của khách hàng A và khách hàng B, cả hai đều có số dư trung bình gần 20 triệu đồng/tháng trong tài khoản. Đây là một sự hấp dẫn để lập ra một phân khúc với 2 khách hàng này vì ngân hàng dễ dàng xác định được những người khác nữa có thể tham gia vào. Nhưng A quản lý tài chính của mình trên điện thoại trong khi B sẽ đến chi nhánh ngân hàng. Do đó, nên chăng các ngân hàng nên xem A như là một khách hàng thuộc nhóm điện thoại di động và tìm hiểu xem cách nào khiến cho B thoải mái hơn với những kênh tự phục vụ hoặc giúp B tận dụng được những cơ hội tư vấn tại chi nhánh ngân hàng để mở rộng mức chi tiêu của B cho các dịch vụ ngân hàng.

Ba là, sự ủng hộ của khách hàng không tồn tại hoặc họ không có quyền lực. Ai đang giám sát khách hàng? Mọi người và không ai cả. Một số ngân hàng có những giám đốc kinh doanh hay những người chịu trách nhiệm một phân khúc khách hàng (Chief Customer Officers - CCos), những người chịu trách nhiệm về trải nghiệm của khách hàng nhưng họ thường lại giới hạn ở việc khảo sát những gì khách hàng thích. Tầm quan trọng thực sự của một bộ phận kinh doanh là kết nối những khoảng cách giữa các nhóm. Đây có thể là một cá nhân hoặc một hội đồng gồm những người lãnh đạo kênh phân phối và các hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, hội đồng này nên có quyền chấp nhận hoặc từ chối bất cứ sản phẩm gì của các nhóm sản phẩm bất kể kênh phân phối nào. Công việc của họ là tìm hiểu xem cách mà sản phẩm mới ảnh hưởng đến tất cả những trải nghiệm của khách hàng dựa trên sự đánh giá phân tích đáng tin cậy.

Điều thật sự cần thiết là những giám đốc kinh doanh này cần có quyền để thiết kế những trải nghiệm tập trung vào khách hàng và khiến cho sản phẩm cũng như các nhóm phân phối chịu trách nhiệm về việc chuyển giao những trải nghiệm này. Các kênh phân phối thường làm việc cùng nhau tốt hơn khi có một sự thống nhất về thước đo và những khích lệ. Ví dụ, một ngân hàng triển khai các máy ATMs đắt đỏ để nhận tiền gửi nhưng khách hàng chấp nhận chúng chậm hơn dự tính. Minh chứng cụ thể là, tại Việt Nam hiện tại chỉ có một số ít ngân hàng như Đông Á, VietinBank VPBank và mới đây là TPBank đã đưa vào sử dụng ATM thế hệ mới cho phép khách hàng gửi tiền trực tiếp từ máy ATM. Đó là bởi vì sự khích lệ những nhân viên giao dịch dựa trên việc đạt được những mục tiêu giao dịch hằng ngày và những giao dịch bằng ATM thì không đo đếm được. Chỉ khi những mục tiêu được thay thế bằng các thước đo có lợi cho việc mở rộng hiệu quả của chi nhánh ngân hàng, sự chấp nhận ATM mới gia tăng.

Bốn là, kỹ năng lắng nghe khách hàng chưa đủ. Trong nhiều năm, các ngân hàng đã tuyên bố họ hành động như những nhà tư vấn đáng tin cậy. Một số lí do của điều này là vì “mặt trái” của mô hình đã được mô tả ở trên, sản phẩm do những người phụ trách thiết kế và các chi nhánh bán. Một số lí do khác là do thiếu huấn luyện hoặc khích lệ: các nhân viên ngân hàng không biết cách bán hàng và không được trả tiền để làm nên gần như chắc chắn là sẽ không hiệu quả. Về điểm này, công nghệ có thể giúp. Một khi ngân hàng tập hợp được thông tin về cách khách hàng của họ xử sự như thế nào qua các kênh, họ có thể tìm thấy những ẩn ý mạnh mẽ trong dữ liệu. Việc phân tích dữ liệu có thể giúp phát hiện ra những nhu cầu hiện tại và tiềm ẩn. Công nghệ cũng có thể giúp các ngân hàng giải quyết thách thức từ việc hoà hợp những nhu cầu của khách hàng với kỹ năng thành thạo về công nghệ. Tại một chi nhánh, các nhà quản trị chỉ dẫn khách hàng đến gặp bất kỳ chuyên gia nào trên mạng có thể giúp được họ. Ở kênh ảo, điều này diễn ra dễ dàng hơn: các ngân hàng có thể kết nối các khách hàng với nhân viên phù hợp nhất, bất kể địa điểm cũng như sự thống nhất thông tin về hồ sơ khách hàng của ngân hàng và lịch sử giao dịch.

Năm là, các quá trình phát triển sản phẩm bế tắc. Nhiều ngân hàng không có các kỹ năng hay sự nhạy bén để lặp lại các quy trình một cách nhanh chóng. Trong nhiều năm, các ngân hàng đã được thưởng cho việc làm người đi theo và những nhóm phụ trách sản phẩm cũng như thế. Nhưng đã đến lúc các ngân hàng cần nghĩ lại về việc thiết kế và kiểm nghiệm các sản phẩm. Với những khách hàng có nhu cầu cá nhân hoá nhiều hơn ở mức chi phí thấp hơn, các ngân hàng phải quản lý nhiều biến hơn, họ cần phải phản ứng một cách nhanh chóng với các tình huống thay đổi và các thông tin mới xuất hiện. Điều này đòi hỏi một xu hướng văn hoá: học để thích nghi nhanh chóng và thích nghi không ngừng. Dĩ nhiên, điều này có những chỉ dẫn về khoa học công nghệ. Thêm vào đó, các nhóm phụ trách rủi ro của ngân hàng có thể tham gia vào sớm hơn và có tính cộng tác hơn. Nhóm Marketing có thể thử nghiệm và điều chỉnh các chiến dịch dựa trên những phản hồi từ thực tế. Các tổng đài điện thoại có thể chuyển hướng các quá trình nhanh chóng hơn khi những câu hỏi được đưa ra. Và khi làm việc qua các kênh, sự thích nghi giúp giảm bớt rủi ro. Những sự hợp tác và thích nghi nhanh chóng này sẽ giúp các ngân hàng theo kịp thậm chí đón đầu được nhu cầu, mong muốn của khách hàng và cung cấp cho họ những sản phẩm phù hợp nhất.

4. Một số đề xuất, khuyến nghị cho vấn đề hợp kênh của các ngân hàng thương mại

Nhìn vào những trở ngại mà các ngân hàng phải giải quyết, rõ ràng ngân hàng cần có sự thay đổi ở nhiều bộ phận từ sản phẩm, marketing, kinh doanh, kỹ thuật và tất nhiên là hệ thống kênh phân phối. Bài viết xin đưa ra một số khuyến nghị sau:

Thứ nhất, phát triển các kỹ năng mới. Các ngân hàng nên tái định nghĩa lại các vai trò của nhân viên ở tuyến trước để nhấn mạnh vào hành vi đa nền tảng của nhân viên và họ cần được tuyển chọn, huấn luyện và trả công khác nhau. Ví dụ như những nhân viên trực tổng đài điện thoại sẽ trở thành tâm điểm cho khách hàng tìm đến khi các kênh khác không đáp ứng được nhu cầu của họ. Nhưng nhân viên tổng đài điện thoại có trách nhiệm tư vấn cho khách hàng về lên kế hoạch quản lý tài sản sẽ cần những kiến thức chuyên môn riêng biệt cũng như những cơ hội phát triển và những khích lệ từ những nhân viên khác, những người chịu trách nhiệm giúp đỡ các khách hàng giải quyết các khó khăn về mặt kỹ thuật khi trò chuyện qua tổng đài.

Thứ hai, tái tổ chức theo nhu cầu khách hàng. Để lên kế hoạch xung quanh những gì khách hàng muốn đồng thời giảm đi sự bất tiện cho khách, các ngân hàng sẽ cần tổ chức các kênh phân phối, các sản phẩm và dịch vụ xung quanh các phân khúc khách hàng được xác định bởi nhu cầu chứ không phải các yếu tố nhân khẩu học. Ví dụ như một khách hàng mới vừa tốt nghiệp từ trường cao đẳng có thể sẽ cần một khoản vay mua xe hơi trong khi một cặp vợ chồng có con nhỏ sẽ muốn được giúp tìm hiểu về các nhu cầu bảo hiểm. Bằng cách nhóm các thành viên dựa trên kiến thức và những kỹ năng mà các phân khúc khách hàng cần, ngân hàng sẽ phục vụ khách hàng tốt hơn, định hướng, dự đoán được những câu hỏi về tài chính của khách hàng ngay cả khi chúng chưa được nêu lên.

Thứ ba, suy nghĩ theo thời gian thực. Nhiều ngân hàng vẫn còn tư duy theo khuôn khổ, hệ thống nhưng khách hàng không thế. Bước đầu tiên là phải thấy được khách hàng đang làm gì trong thời gian thực, bất kể họ đang ở đâu. Chẳng hạn như, hãy xem xét một khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động đã vô ý khoá tài khoản của mình. Ngân hàng nên có khả năng nhận ra vấn đề ngay lập tức và gọi hay nhắn tin để cung cấp chỉ dẫn giúp khách hàng mở khoá tài khoản.

Thứ tư, xây dựng các quy trình thông qua các kênh phân phối. Những người quản lý kênh thường chỉ giỏi tối ưu các hoạt động của riêng họ. Những sai lầm có khuynh hướng xảy ra khi khách hàng di chuyển giữa các kênh. Gần như tất cả mọi người đều liên quan đến sự khó chịu của khách hàng khi phải tái xác nhận danh tính mỗi lần được chuyển sang một bộ phận khác. Điều gì sẽ xảy ra nếu ngân hàng có thể xác định khách hàng thông qua thiết bị đọc dấu vân tay trên điện thoại thông minh mà khách hàng đang dùng để gọi đến ngân hàng và dùng nó để tạo ra một vùng an toàn trong suốt cuộc gọi của khách. Những người quản lý kênh cần phải bắt đầu tìm hiểu cách mà ngân hàng kết nối với họ thông qua ngân hàng và sau đó cộng tác để giúp khách hàng có được sự chuyển đổi tự nhiên giữa các kênh.

5. Kết luận

Cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật lần thứ tư vẫn còn đang tiếp diễn và sẽ ngày màng mạnh mẽ hơn, khách hàng của thời kỳ mới với những hiểu biết, hành vi, nhu cầu ngày càng thay đổi là thách thức không hề nhỏ. Để phục vụ khách hàng một cách kịp thời, hiệu quả, các ngân hàng cần phải làm nhiều việc hơn là chỉ đưa vào hoạt động nhiều loại kênh phân phối. Hệ thống phân phối cần sự hoàn thiện chứ không phải là một sự thay thế lẫn nhau. Sự thống nhất liền mạch của các kênh phân phối thông qua việc triển khai một nền tảng kỹ thuật số là điều cơ bản để thành công. Để đáp ứng yêu cầu về hoạt động phân phối như trên, hoạt động ngân hàng hợp kênh đang là giải pháp mà các ngân hàng thương mại hướng đến. Hệ thống hợp kênh mang lại sự trải nghiệm duy nhất, liền mạch cho khách hàng khi giao dịch với ngân hàng cho dù họ bắt đầu từ một kênh và kết thúc ở một kênh khác. Không chỉ thế, đứng trên phương diện marketing, hoạt động ngân hàng hợp kênh còn giúp cho khách hàng có được sự nhận diện thống nhất, rõ ràng về thương hiệu ngân hàng, mang lại sự hài lòng khi trải nghiệm giao dịch với ngân hàng ở bất kỳ một kênh giao dịch nào. Tuy nhiên, những thách thức cần vượt qua để xây dựng thành công hệ thống hợp kênh trong hoạt động ngân hàng là không nhỏ. Các ngân hàng cần thay đổi ở nhiều khâu như xác định phân khúc khách hàng, thiết kế sản phẩm, huấn luyện, đào tạo nhân viên và tất nhiên không thể thiếu vấn đề quy trình và hệ thống phân phối. Hoạt động ngân hàng hợp kênh không chỉ là vấn đề về xu hướng mà đó chính là lợi thế cạnh tranh cho các ngân hàng trong thời đại mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

ADABHOLKAR, P. 1996. Consumer evaluations of new technology-based self-service options: An investigation of alternative models of service quality. International Journal of Research in Marketing, 13, 29-51.

BAXENDALE, S., MACDONALD, E. K. & WILSON, H. N. 2015. The Impact of Different Touchpoints on Brand Consideration. Journal of Retailing, 91, 235-253.

BECK, N. & RYGL, D. 2015. Categorization of multiple channel retailing in Multi-, Cross-, and Omni-Channel Retailing for retailers and retailing. Journal of Retailing and Consumer Services, 27, 170-178.

Go-gulf. (2012). How people spend their time online. Truy cập từ https://www.go-gulf.com/blog/online-time/ Ngày 21 tháng 12 năm 2018

Nguyễn Thị Thanh Nhàn
Võ Thị Ngọc Linh


Nguồn: TCNH số 8/2019

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện hành lang pháp lý là cần thiết, cần coi tài sản số là loại tài sản theo thông lệ quốc tế và nội luật hóa bằng các quy định đặc thù. Pháp luật cần được xây dựng theo hướng quy định về loại tài sản số, cơ sở phát hành, chủ thể kinh doanh cung cấp dịch vụ phát hành, hoán đổi tài sản số, các quy định về phòng ngừa tội phạm, các quy định về trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ và các quy định về bảo vệ quyền và lợi ích của người nắm giữ và giao dịch tài sản số.
Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Lực lượng lao động già hóa đặt ra những thách thức nội bộ đáng kể cho ngành Ngân hàng, từ nguy cơ mất kiến thức, khoảng cách kỹ năng, đến chi phí gia tăng và sự cần thiết phải thích ứng với công nghệ mới. Đồng thời, sự trỗi dậy của AI mang đến cả những thách thức mới lẫn những cơ hội to lớn để giải quyết các vấn đề này.
Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các ngân hàng hàng đầu thế giới đã và đang tiên phong trong ứng dụng công nghệ, đưa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ lên môi trường số, đặc biệt là trong số hóa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ, đáp ứng tiêu chuẩn, yêu cầu quản trị rủi ro kho quỹ hiện đại của ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý trong bối cảnh thị trường tài chính, ngân hàng thế giới ngày càng nhiều biến động, rủi ro.
Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Ngân hàng mở là một thuật ngữ chỉ việc ngân hàng có thể chia sẻ, trao đổi dữ liệu với bên cung cấp dịch vụ thứ ba (Third Party service Provider - TPP) thông qua các công nghệ giao diện lập trình ứng dụng (Application Programing Interface - API) một cách có kiểm soát trên cơ sở cho phép của khách hàng và theo quy định của pháp luật, từ đó giúp các đơn vị cung cấp dịch vụ hoặc Fintech có thể dễ dàng phát triển các ứng dụng và cung ứng dịch vụ cho khách hàng một cách thông suốt, tiện lợi.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích vai trò, cơ hội và rủi ro của trí tuệ nhân tạo trong đánh giá rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam. Thông qua tiếp cận định tính và tổng hợp lý luận từ các học thuyết ra quyết định, bài viết khẳng định rằng trí tuệ nhân tạo mang lại hiệu quả vượt trội trong nâng cao độ chính xác phân loại tín dụng, tối ưu hóa quy trình và mở rộng tài chính bao trùm. Tuy nhiên, đi kèm là những thách thức đáng kể về vấn đề pháp lý, rủi ro đạo đức và khả năng triển khai thực tế trong môi trường ngân hàng còn phân hóa về năng lực số.
Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin là một xu hướng mới đầy tiềm năng của thế giới trong lĩnh vực tiền tệ số, hứa hẹn định hình lại phương thức thanh toán và chuyển giao giá trị trong kỷ nguyên số...
Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Nghiên cứu cho thấy rủi ro chuyển đổi khí hậu có thể làm tăng rủi ro thanh toán và rủi ro cụ thể của ngân hàng. Điều này cảnh báo không nên quá chủ quan trong quản lý rủi ro ngân hàng, kể cả khi chuyển đổi số mang lại lợi ích. Đặc biệt, tác động tiêu cực của rủi ro chuyển đổi khí hậu đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng cần được chú ý. Do đó, hệ thống ngân hàng cần tích hợp yếu tố rủi ro chuyển đổi khí hậu vào khung quản trị rủi ro tổng thể, đánh giá mức độ nhạy cảm của danh mục tín dụng đối với các chính sách giảm phát thải, xu hướng dịch chuyển đầu tư xanh và thay đổi hành vi tiêu dùng sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc quản trị rủi ro trong bối cảnh chuyển đổi số.
Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số đối với lĩnh vực ngân hàng là vấn đề quan trọng nhằm xử lý khối lượng dữ liệu khổng lồ trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Đây là một phần cốt lõi trong chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện đại hóa mô hình quản trị và hướng tới phát triển bền vững. Bài viết trên cơ sở phân tích thực trạng ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), từ đó rút ra những khuyến nghị cho Vietcombank để hoạt động này được triển khai hiệu quả trong thời gian tới.
Xem thêm
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng