Lãi suất theo quy định pháp luật Việt Nam và sự cân nhắc về “mức giới hạn trần” trong hoạt động cho vay của các công ty tài chính.

Nghiên cứu - Trao đổi
“Lãi suất là công cụ tích cực trong phát triển kinh tế và đồng thời cũng là một công cụ kìm hãm của chính sự phát triển ấy, tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại trong việc sử dụng chúng” - đây là phát biểu của nhà kinh tế học người Pháp A. Poial.
aa

Tóm tắt: “Lãi suất là công cụ tích cực trong phát triển kinh tế và đồng thời cũng là một công cụ kìm hãm của chính sự phát triển ấy, tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại trong việc sử dụng chúng” - đây là phát biểu của nhà kinh tế học người Pháp A. Poial. Chính vì tính hai mặt của lãi suất, Nhà nước vô cùng thận trọng trong việc sử dụng công cụ kinh tế này. Bởi lẽ, lãi suất đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc ổn định và góp phần hoàn thiện chính sách tiền tệ, tạo ra sự kích thích cần thiết để phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia và ngược lại. Do đó, lãi suất là chủ đề thu hút sự quan tâm của không chỉ các cá nhân, tổ chức có nhu cầu vay vốn mà còn là chủ đề được các nhà hoạch định chính sách, nhà lập pháp, kinh tế... quan tâm nghiên cứu. Từ việc phân tích về lãi suất hiện hành tại Việt Nam, bài viết gợi mở vấn đề thảo luận về “mức giới hạn trần” trong hoạt động cho vay của các công ty tài chính.

Từ khóa: Công ty tài chính, hoạt động cho vay, mức giới hạn trần, quy định lãi suất.

INTEREST RATE ACCORDING TO VIETNAM’S LAWS AND CONSIDERATIONS ABOUT “THE CEILING LIMIT” IN LENDING ACTIVITIES OF FINANCIAL COMPANIES

Abstract: “Interest rates are a positive tool in economic development and at the same time a restraining tool for that development, depending on the wisdom or foolishness in using them” - this is a statement by French economist named A. Poial. Because of the duality of interest rates, it can be seen that the State is extremely cautious in using this economic tool. Actually, interest rates play a particularly crucial role in stabilizing and contributing to perfecting monetary policy, creating the necessary stimulus to develop each country’s economy and vice versa. Therefore, interest rates are a topic that attracts the attention of not only inpiduals and organizations in need of loans but also policymakers, legislators, economists, etc. From the analysis of current interest rates in Vietnam, the article suggests a discussion about the “ceiling limit” in lending activities of financial companies.

Keywords: Financial companies, lending activities, ceiling limits, interest rate regulations.

1. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về lãi suất


Lãi suất có thể được hiểu là khoản tiền phải trả cho một khoản vay. Đây là quan hệ mua, bán quyền sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định của các chủ thể trong xã hội. Tuy pháp luật đề cao quyền tự do thỏa thuận trong các giao dịch dân sự nhưng không đồng nghĩa với việc “thả trôi” sự tự do quyết định lãi suất ấy cho các bên trong quan hệ “mua, bán quyền sử dụng vốn” này mà có sự can thiệp cần thiết và phù hợp với chính sách tiền tệ của từng quốc gia.

Theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, lãi suất được quy định tập trung ở pháp luật dân sự và pháp luật ngân hàng, cụ thể là Bộ luật Dân sự năm 2015 và hiện tại Quốc hội đã ban hành Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024, có hiệu lực thi hành vào ngày 01/7/2024.

Theo hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam hiện nay, Bộ luật Dân sự “là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự”1. Trong khi đó, Luật Các TCTD và các văn bản hướng dẫn thi hành là luật chuyên ngành. Xét về nguyên tắc áp dụng pháp luật, cần xác định đúng quan hệ pháp luật để có sự vận dụng đúng đắn. Do đó, dù rằng Bộ luật Dân sự và Luật Các TCTD đều có các quy định về lãi suất nhưng đối tượng điều chỉnh của mỗi văn bản là không đồng nhất với nhau. Cụ thể, Bộ luật Dân sự quy định về lãi suất áp dụng cho các hợp đồng vay tài sản nói chung và pháp luật ngân hàng quy định về lãi suất áp dụng đối với hợp đồng tín dụng nói riêng.

Tùy thuộc vào chính sách tiền tệ quốc gia về nhu cầu điều tiết vĩ mô nền kinh tế qua các thời kỳ mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) sẽ điều tiết công cụ lãi suất khác nhau. Sự phân biệt quy định về lãi suất thể hiện rõ nét kể từ thời điểm Bộ luật Dân sự năm 2015 thay thế Bộ luật Dân sự năm 2005 và Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.

Khi nghiên cứu về lãi suất, có nhiều cách phân loại lãi suất khác nhau, một trong cách thức phân loại lãi suất là dựa vào thời hạn áp dụng lãi suất.

Theo đó, lãi suất được chia thành ba loại, gồm: (i) Lãi suất cho vay trong hạn; (ii) Lãi suất nợ quá hạn (hay còn gọi là lãi suất áp dụng đối với dư nợ gốc); (iii) Lãi suất để tính lãi chậm trả (hay còn gọi là lãi suất áp dụng đối với dư nợ lãi quá hạn).

1.1. Quy định về lãi suất cho vay trong hạn

Lãi suất cho vay trong hạn là mức lãi suất do các bên thỏa thuận áp dụng trong thời hạn cho vay. Theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác...”. Quy định này đặt ra một mức “trần” lãi suất trong hợp đồng vay, hạn chế được tình trạng bên cho vay áp đặt một mức lãi suất quá cao cho bên vay với lợi thế nắm giữ tài sản vay. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 vẫn cho phép có trường hợp ngoại lệ, vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay nếu trong trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Việc quy định mức lãi suất tối đa được thỏa thuận trong hợp đồng dân sự không phụ thuộc vào mức lãi suất cơ bản của NHNN quy định. Mức lãi suất này theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 có mục đích giảm thiểu sự chênh lệch về mức lãi suất trong các hợp đồng dân sự thông dụng với các hợp đồng tín dụng, bình đẳng hóa giữa các chủ thể khi tham gia vào các giao dịch vay tài sản2, tạo thế cân bằng cho các bên khi thực hiện giao dịch này.

Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng dự liệu trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi nhưng không xác định rõ lãi suất và khi có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định là 50%/năm mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 tại thời điểm trả nợ3. Trong khi đó, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định áp dụng lãi suất của NHNN tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Một vấn đề cần lưu ý, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định lãi suất không chỉ trong “quan hệ vay”4 mà còn ở cả “quan hệ dân sự khác”5. Do đó, cần xem xét chính xác quan hệ pháp luật để áp dụng quy định tương ứng một cách phù hợp.

Đối với các hợp đồng tín dụng chịu sự điều chỉnh của pháp luật ngân hàng, lãi suất cho vay được quy định tại khoản 2 Điều 100 Luật Các TCTD năm 2024, vì hiện tại, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Các TCTD năm 2024 đang trong giai đoạn được ban hành, trong đó một số văn bản đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2024 theo lộ trình của Quyết định số 257/QĐ-TTg ngày 29/3/2024 của Thủ tướng Chính phủ ban hành kế hoạch triển khai thi hành Luật Các TCTD số 32/2024/QH15. Do đó, việc tiếp tục kế thừa quy định không mâu thuẫn với Luật Các TCTD năm 2024 như quy định tại Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 4 Điều 1 Thông tư số 06/2023/TT-NHNN ngày 28/6/2023 của Thống đốc NHNN vẫn được áp dụng. Theo đó, “trường hợp khách hàng được TCTD đánh giá là có tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh, TCTD và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam nhưng không vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc NHNN quyết định trong từng thời kỳ nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn”.

Như vậy, khác với hợp đồng thông thường, mức lãi suất cho vay trong hợp đồng tín dụng không ràng buộc một mức trần cố định.

Theo đó, NHNN xác định rõ quan điểm áp dụng lãi suất thỏa thuận theo quy định tại khoản 3 Điều 90 và khoản 2 Điều 100 Luật Các TCTD năm 2024 đối với hợp đồng tín dụng và không chịu sự điều chỉnh về lãi suất theo quy định của Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 20156. Đồng thời, tại Điều 7 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm cũng giúp các tòa án, trọng tài được thống nhất trong việc áp dụng pháp luật về lãi suất trong hợp đồng tín dụng.

Hợp đồng vay (gồm cả hợp đồng tín dụng và hợp đồng dân sự thông thường) luôn có một thời hạn cho vay nhất định. Trường hợp bên có nghĩa vụ không trả được nợ đúng hạn theo thỏa thuận trong hợp đồng và không được giãn nợ bởi bên có quyền hay không được TCTD chấp thuận cơ cấu lại thời hạn trả nợ thì bên có quyền/TCTD được quyền chuyển sang nợ quá hạn. Trong trường hợp này, phát sinh lãi suất nợ quá hạn và lãi suất tính lãi chậm trả.

1.2. Quy định pháp luật về lãi suất nợ quá hạn (hay còn gọi là lãi suất áp dụng đối với dư nợ gốc)

Lãi suất nợ quá hạn được đặt ra khi vi phạm nghĩa vụ thanh toán đúng hạn theo thỏa thuận và được áp dụng với trường hợp nợ gốc bị quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả. Đây là loại biện pháp khắc phục liên quan đến trách nhiệm tài chính của bên vi phạm. Biện pháp khắc phục này thường được so sánh với bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm. Có quan điểm cho rằng, lãi suất nợ quá hạn có tính chất tương đồng với phạt vi phạm hơn là bồi thường thiệt hại vì tính chất định trước của cả hai biện pháp này7. Theo tác giả, lãi suất nợ quá hạn là một chế định được pháp luật quy định có tính chất độc lập với chế tài bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm.

Thông thường, lãi suất quá hạn thường cao hơn nhiều so với lãi suất cho vay trong hạn. Trong quan hệ dân sự, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định: “Trường hợp khoản nợ vay vì bị chuyển nợ quá hạn, thì khách hàng phải trả trên dư nợ gốc bị quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất áp dụng không vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn”8. Các quy định trên có sự kế thừa theo hướng tương tự như quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN về quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng.

1.3. Quy định pháp luật về lãi suất để tính lãi chậm trả (hay còn gọi là lãi suất áp dụng đối với dư nợ lãi quá hạn)

Theo quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể là Bộ luật Dân sự năm 2015 và Thông tư số 39/2016/TT-NHNN chính thức cho phép bên cho vay áp dụng lãi suất để tính lãi chậm trả khi bên đi vay không trả đúng hạn tiền lãi. Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 và điểm b khoản 4 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định lãi suất chậm trả đối với số tiền lãi được giới hạn là không quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Dường như quy định này nhằm hướng tới việc hỗ trợ các TCTD hạn chế nguy cơ rủi ro khi cho vay những khoản vay có giá trị lớn và dài hạn, gia tăng tính an toàn trong hoạt động cho vay, góp phần bình ổn và duy trì hoạt động của bên cho vay. Xét ở khía cạnh bên đi vay, quy định này mang tính “khắt khe”, tăng thêm gánh nặng trả nợ (bên cạnh khoản nợ gốc, lãi trên nợ gốc đến hạn và quá hạn thì bên đi vay còn trả cả khoản lãi đối với lãi chậm trả).

Thực tế, việc phân loại các loại lãi suất tùy vào từng tiêu chí khác nhau, dựa vào thời hạn áp dụng lãi suất, tác giả phân loại theo các loại lãi suất như phân tích trên. Tựu chung lại, qua các nội dung được đề cập trên, có thể thấy rằng Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 06/2023/TT-NHNN đảm bảo tính minh bạch về lãi suất cho vay và phương pháp tính toán từng loại lãi suất.

2. Vấn đề quy định “mức giới hạn trần” trong hoạt động cho vay của công ty tài chính


Như phân tích ở trên, quy định pháp luật đối với lãi suất có sự khác nhau giữa Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Các TCTD năm 2024 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành. Có nhiều quan điểm về việc: Có cần quy định trần lãi suất đối với hoạt động cho vay của công ty tài chính hay không? Đối với vấn đề mức giới hạn trần được nêu trên, có hai luồng quan điểm rất rõ ràng. Cụ thể: (i) Bên ủng hộ việc cần phải quy định mức giới hạn trần như mức trần mà Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định; (ii) Bên không ủng hộ việc quy định mức giới hạn trần và ủng hộ lãi suất thỏa thuận theo quy định của Luật Các TCTD năm 2024.

Trước khi đưa ra quan điểm về vấn đề này, cần có cái nhìn bao quát và đầy đủ về hoạt động cho vay của công ty tài chính, lý do quy định hiện hành lại cho phép “lãi suất thỏa thuận” hoạt động cho vay của công ty tài chính với khách hàng mà không áp dụng mức trần như quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Thứ nhất, phạm vi hoạt động của công ty tài chính, cụ thể theo Luật Các TCTD năm 2024 chia thành công ty tài chính tổng hợp và công ty tài chính chuyên ngành. Theo đó, khoản 12 Điều 4 Luật Các TCTD năm 2024 quy định công ty tài chính chuyên ngành “là loại hình TCTD phi ngân hàng có hoạt động chính thuộc một trong các lĩnh vực bao thanh toán, tín dụng tiêu dùng, cho thuê tài chính” theo quy định của Luật Các TCTD năm 2024; khoản 13 Điều 4 Luật Các TCTD năm 2024 quy định công ty tài chính tổng hợp “là loại hình TCTD phi ngân hàng thực hiện các hoạt động theo quy định tại Mục 3 Chương V của Luật này”. Căn cứ theo quy định tại Mục 3 Chương 5 (hoạt động của công ty tài chính tổng hợp) và Mục 4 Chương 5 (hoạt động của công ty tài chính chuyên ngành) Luật Các TCTD năm 2024, một điều có thể nhận thấy phạm vi hoạt động của các công ty tài chính hẹp hơn nhiều so với hoạt động của các ngân hàng thương mại (Mục 2 Chương 5 Luật Các TCTD năm 2024). Trong khi các ngân hàng thương mại được nhận tiền gửi của cá nhân, phạm vi hoạt động đa dạng, các công ty tài chính chỉ được nhận tiền gửi của tổ chức, giới hạn phạm vi hoạt động và nguồn vốn hoạt động chủ yếu là đi vay của TCTD khác, phát hành trái phiếu, chi phí vốn của công ty tài chính cao hơn chi phí vốn của ngân hàng.

Thứ hai, hoạt động thu được lợi nhuận chủ yếu của công ty tài chính là hoạt động cho vay. Lãi suất hiện hành của hoạt động cho vay giữa khách hàng với công ty tài chính là lãi suất thỏa thuận, vay đa phần bằng tín chấp, khách hàng vay là những người có thu nhập trung bình thấp. Do đó, rủi ro thu hồi nợ cao hơn nhiều so với hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng. Việc quy định lãi suất thỏa thuận có thể cao hơn mức 20%/năm so với lãi suất của hợp đồng vay của Bộ luật Dân sự năm 2015 để bù đắp những khoản vay mà khách hàng không thanh toán được.

Hiện nay, mức lãi suất cho vay tín chấp của các công ty tài chính dao động từ 16%/năm - 30%/năm (theo dư nợ giảm dần)9, đây là mức lãi suất trong hạn. Trường hợp quá hạn, nghĩa là bên vay vi phạm thời hạn trả nợ mới bị áp dụng mức lãi suất quá hạn. Khi đó, nghĩa vụ thanh toán mới là gánh nặng cho bên vay. Do vậy, mức lãi vay trong hạn này như là phần dự trù bù đắp rủi ro cho việc mất khả năng thanh toán của bên có nghĩa vụ vì vay tín chấp tỉ lệ rủi ro cho công ty tài chính là rất lớn.

Thứ ba, lãi suất hoạt động cho vay là thỏa thuận giữa khách hàng với công ty tài chính. Tuy nhiên, NHNN có sự kiểm soát bằng việc dần hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng bao gồm cả hoạt động cho vay tiêu dùng của công ty tài chính nhằm tăng tính minh bạch trong hoạt động cho vay, lãi suất cho vay của TCTD đối với khách hàng. Ngoài Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 06/2023/TT-NHNN, Thống đốc NHNN cũng đã ban hành Thông tư số 14/2017/TT-NHNN ngày 29/9/2017 quy định về phương pháp tính lãi trong hoạt động nhận tiền gửi, cấp tín dụng giữa TCTD với khách hàng và Thông tư số 18/2019/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định cho vay tiêu dùng của công ty tài chính. Theo quy định tại khoản 15 Điều 1 Thông tư số 18/2019/TT-NHNN, công ty tài chính có trách nhiệm niêm yết công khai tại trụ sở chính, chi nhánh, điểm giới thiệu dịch vụ và đăng tải trên trang thông tin điện tử của công ty tài chính khung lãi suất cho vay tiêu dùng, các loại phí, phương pháp tính lãi; các hình thức tiếp nhận góp ý, phản ánh, khiếu nại của khách hàng, tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động cho vay tiêu dùng của công ty tài chính. Việc thanh tra, xử lý vi phạm cũng được quy định cụ thể trong trường hợp vi phạm trong hoạt động cho vay của công ty tài chính. Vậy nên, khung pháp lý để kiểm soát của NHNN là cơ bản đầy đủ, bao quát đối với hoạt động cho vay của công ty tài chính.

Thứ tư, xét về góc độ kinh tế như phân tích ở điểm thứ hai trên, nếu đặt ra giới hạn trần lãi suất đối với hoạt động cho vay của các công ty tài chính, một điều chắc chắn rằng hoạt động của 16 công ty tài chính hiện nay tại Việt Nam10 sẽ gặp không ít khó khăn và khả năng duy trì hoạt động có thể bị ảnh hưởng bởi nguồn thu chính của các công ty này là từ hoạt động cho vay tiêu dùng.

Thứ năm, có thể thấy rằng đặc điểm hoạt động của mỗi loại hình TCTD là khác nhau, nếu “áp trần” lãi suất đối với hoạt động cho vay của công ty tài chính, thì cũng nên cân nhắc, xem xét đối với các loại hình TCTD khác.

Từ những phân tích trên, theo tác giả, hoạt động cho vay của công ty tài chính không phải chịu sự giới hạn mức lãi suất theo quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 với mức 20%/năm như các hợp đồng vay dân sự thông thường khác vì bản chất quan hệ pháp luật là khác nhau, đối tượng khác nhau nên nếu viện dẫn nguyên tắc “bình đẳng” của pháp luật dân sự và áp dụng không khéo léo vào các quan hệ có tính chất đặc thù, vô hình trung sẽ dẫn đến sự “cào bằng” giữa các chủ thể trong các quan hệ pháp luật.

Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét lại về việc lãi suất thỏa thuận như hiện nay của các hợp đồng vay của công ty tài chính. Bởi những lý do sau:

Thứ nhất, việc tự do thỏa thuận lãi suất mục đích để bù đắp rủi ro khi không thu hồi được các khoản vay của các công ty tài chính là phù hợp; nhưng cần xem xét mức giới hạn của lãi suất hợp lý để tránh trường hợp lợi dụng sự “tự do” mà Luật Các TCTD “trao”, làm mất đi sự cân bằng vị thế trong hợp đồng vay giữa khách hàng và công ty tài chính vì khách hàng khi đó là người đang có nhu cầu tài chính, có thể sẽ “buộc” phải chấp nhận mức lãi suất quá cao và không phải khách hàng nào cũng là người am hiểu quy định pháp luật bởi khi đọc các quy định Bộ luật Dân sự năm 2015, khách hàng sẽ “nhầm tưởng” dù giao kết hợp đồng vay của công ty tài chính với mức lãi suất này nhưng mức vượt quá 20%/năm cũng sẽ bị vô hiệu vì không theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Thực tiễn có rất nhiều trường hợp người vay tiêu dùng của các công ty tài chính lầm tưởng điều này.

Thứ hai, dù hiện nay khung pháp lý về hoạt động cho vay của công ty tài chính được NHNN ban hành khá đầy đủ nhưng việc thực hiện không đảm bảo. Như đề cập trên, các công ty tài chính phải niêm yết công khai tại trụ sở chính, chi nhánh, điểm giới thiệu dịch vụ, đăng tải trên trang thông tin điện tử của công ty tài chính khung lãi suất cho vay tiêu dùng, các loại phí, phương pháp tính lãi... theo quy định của Thông tư số 18/2019/TT-NHNN nhưng khảo sát website của 16 công ty tài chính hiện nay, đa phần không thực hiện nghiêm túc quy định này.

Thứ ba, ngoài lãi suất, các công ty tài chính còn đặt ra các loại phí, bảo hiểm khoản vay mà chính các khoản này làm gia tăng nghĩa vụ khá lớn cho bên vay. Dù NHNN đã “tuýt còi” về vấn đề này11 nhưng cần xử lý rốt ráo với chế tài đủ mạnh để tránh việc áp dụng “trá hình” làm tăng gánh nặng cho người vay.

Thực chất, trong quan hệ vay giữa công ty tài chính và khách hàng, đa phần khách hàng là người có thu nhập trung bình thấp, hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Do đó, việc để lãi suất tự do mà không có một điểm khống chế có thể sẽ khiến hoạt động cho vay này vô tình biến tướng thành “vay nặng lãi” được pháp luật bảo hộ.

3. Kết luận

Tóm lại, sau khi phân tích từ cả góc độ kinh tế về hoạt động của công ty tài chính và thực tiễn áp dụng, nhìn nhận từ góc độ bên vay, để dung hòa lợi ích của cả bên vay và công ty tài chính, tác giả cho rằng, việc áp mức trần lãi suất hoạt động cho vay là cần thiết nhưng không áp dụng “trùng” với mức trần mà Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định hiện nay cho các hợp đồng vay dân sự thông thường mà có thể dao động cao hơn để đảm bảo không gây khó khăn trong hoạt động của các công ty tài chính, đồng thời không “thả nổi” sự tự do thỏa thuận lãi suất cho các công ty tài chính quyết định nhằm bảo vệ lợi ích của bên vay.

1 Khoản 1 Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2 Phạm Thị Hồng Đào, “Lãi suất theo quy định của pháp luật”, Bộ Tư pháp, https://nhiettam.vn/lai-suat-theo-quy-dinh-cua-phap-luat
3 Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
4 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015.
5 Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015 viện dẫn đến Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
6 Điều 15 - Lãi suất cho vay theo giải đáp của NHNN tại Công văn số 1576/NHNN-CSTT.
7 Trương Nhật Quang, Pháp luật về hợp đồng, Nhà xuất bản Dân trí, Hà Nội 2020, trang 639.
8 Điểm c khoản 4 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN.
9 Viettel Money, So sánh lãi suất vay tại các ngân hàng và các công ty tài chính, https://viettelmoney.vn/so-sanh-lai-suat-vay/?utm_term=seo31335&utm_source=web&utm_medium=seo&utm_campaign=seo
10 SBV (2024), Danh sách thống kê các công ty tài chính của NHNN tính đến ngày 31/12/2023. webcenter/portal/m/menu/fm/htctctd/tctdpnh/cttc?, truy cập ngày 24/02/2024.
11 Công văn số 7928/NHNN-TTGSNH ngày 30/10/2020 của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, NHNN về việc hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đại lý.


Tài liệu tham khảo:

1. Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Luật Các TCTD năm 2024.

3. Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2006.

4. Thông tư số 43/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016.

5. Thông tư số 14/2017/TT-NHNN ngày 29/9/2017.

6. Thông tư số 18/2019/TT-NHNN ngày 04/11/2019.

7. Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019.

8. Thông tư số 06/2023/TT-NHNN ngày 28/6/2023.

9. Phạm Thị Hồng Đào, “Lãi suất theo quy định của pháp luật”, Bộ Tư pháp, https://nhiettam.vn/lai-suat-theo-quy-dinh-cua-phap-luat/., truy cập ngày 24/02/2023.

10. Trương Nhật Quang (2020), Pháp luật về hợp đồng, Nhà xuất bản Dân trí, Hà Nội.


ThS. Lê Thị Khánh Linh

Khoa Luật, Đại học Kinh tế - Tài chính Thành phố Hồ Chí Minh


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng