Hướng tới xây dựng hạ tầng thanh toán số quốc gia

Công nghệ & ngân hàng số
Những năm gần đây, cơ sở hạ tầng thanh toán tại Việt Nam đã được đầu tư phát triển mạnh mẽ, là “bệ đỡ” cho phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM). Dự kiến đến cuối năm 2021, hệ thống ngân...
aa

Những năm gần đây, cơ sở hạ tầng thanh toán tại Việt Nam đã được đầu tư phát triển mạnh mẽ, là “bệ đỡ” cho phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM).



Dự kiến đến cuối năm 2021, hệ thống ngân hàng sẽ hoàn thành việc chuyển đổi sang thẻ chip đối với toàn bộ thẻ nội địa

Tuy nhiên, sự thiếu nhất quán và chưa đồng bộ về hạ tầng thanh toán số là một trong những nguyên nhân khiến TTKDTM chưa đạt được kết quả như mục tiêu đề ra. Do đó, cùng với hoàn thiện về chính sách, việc quy hoạch, xây dựng hệ thống thanh toán số đồng bộ, nhất quán mang tầm quốc gia là cần thiết.

Hạ tầng công nghệ cho thanh toán góp phần thúc đẩy TTKDTM

Cơ sở hạ tầng và công nghệ phục vụ TTKDTM, nhất là thanh toán điện tử, liên tục được chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Công nghệ thanh toán tiên tiến, hiện đại, phục vụ tốt cho việc cung ứng các dịch vụ, phương tiện TTKDTM mới.

Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (TTĐTLNH) tiếp tục hoạt động an toàn, hiệu quả và thông suốt đáp ứng tốt nhu cầu thanh toán liên ngân hàng trong toàn quốc, giúp cho các giao dịch thanh toán trong nền kinh tế được diễn ra an toàn và nhanh chóng, góp phần thúc đẩy TTKDTM và tăng trưởng kinh tế.

Hệ thống thanh toán bù trừ điện tử tự động phục vụ các giao dịch thanh toán bán lẻ với khả năng thanh toán theo thời gian thực, hoạt động 24x7x365, xử lý giao dịch đa kênh, đa phương tiện đang được thử nghiệm để đưa vào vận hành chính thức phục vụ nhu cầu chuyển tiền, giao dịch thanh toán bán lẻ, thanh toán các dịch vụ tiện ích, phục vụ tốt cho việc phát triển TTKDTM trong khu vực dân cư.

Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), trong 4 tháng đầu năm 2020, Hệ thống TTĐTLNH hoạt động ổn định, an toàn và thông suốt. Tổng giá trị giao dịch qua Hệ thống TTĐTLNH tăng 18,30% so với cùng kỳ năm 2019. Giao dịch qua Hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tăng 73,36% về số lượng và tăng 129,47% về giá trị so với cùng kỳ năm 2019. Đặc biệt, trong thời gian thực hiện cách ly xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg, các yêu cầu thanh toán của người dân và xã hội vẫn được đáp ứng đầy đủ, các dịch vụ ngân hàng trực tuyến và ATM hoạt động liên tục, thông suốt; đặc biệt giá trị giao dịch trung bình qua hệ thống TTĐTLNH trong 20 ngày đầu tháng 4/2020 tăng 8,85% so với cùng kỳ năm trước.

Bên cạnh đó, NHNN tập trung chỉ đạo phát triển thanh toán thẻ qua POS để nâng cao số lượng, giá trị giao dịch thanh toán qua POS, thực sự góp phần vào thúc đẩy TTKDTM. Số lượng, giá trị thanh toán qua POS tăng nhanh, hiệu quả và chất lượng hơn. Trong 3 tháng đầu năm 2020, số lượng giao dịch qua POS đạt 81,5 triệu giao dịch (tăng khoảng 155,3% so với cùng kỳ năm 2017); giá trị giao dịch đạt 148,4 nghìn tỷ đồng (tăng 79% so với cùng kỳ năm 2017). Trong bối cảnh ứng dụng mạnh mẽ của công nghệ thông tin và viễn thông vào hoạt động thanh toán, nhiều phương thức thanh toán mới tương tự như thanh toán qua POS, như QR Code đã được nghiên cứu, ứng dụng. NHNN đã ban hành tiêu chuẩn cơ sở “Đặc tả kỹ thuật QR Code hiển thị từ phía Đơn vị chấp nhận thanh toán tại Việt Nam”, quy định các yêu cầu đặc tả kỹ thuật QR Code hiển thị từ phía Đơn vị chấp nhận thanh toán nhằm thúc đẩy, khuyến khích thanh toán qua thiết bị di động.

Hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho thanh toán thẻ được cải thiện chất lượng, tập trung đầu tư phát triển; POS hiện đã được lắp đặt tại hầu hết các cơ sở, chuỗi phân phối, bán lẻ, khách sạn lớn, đang mở rộng dần ra các cơ sở y tế, bệnh viện, trường học...

Theo Vụ Thanh toán (NHNN), đến tháng 5/2020, cả nước có khoảng 19,2 nghìn ATM, hơn 277 nghìn POS, khoảng 78 ngân hàng thương mại (NHTM) triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet (Internet banking), 49 NHTM cung ứng dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động (Mobile Banking), 30 NHTM và 6 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (CƯDVTGTT) phối hợp triển khai thanh toán với khoảng 80 nghìn điểm QR Code; NHNN đã cấp phép cho 34 tổ chức CƯDVTTGT, trong đó dịch vụ ví điện tử (29); dịch vụ cổng thanh toán điện tử, hỗ trợ thu hộ, chi hộ (28), dịch vụ chuyển tiền điện tử (9).

Thẻ ngân hàng tiếp tục phát triển, đến cuối tháng 3/2020, số lượng thẻ đang lưu hành đạt mức 103,1 triệu thẻ (tăng 22,4% so với cuối năm 2017). Các NHTM đã cung ứng thêm nhiều dịch vụ thanh toán dựa trên thẻ ngân hàng; quan tâm đến việc cải thiện chất lượng dịch vụ thẻ, chú trọng tăng độ an toàn của thẻ ngân hàng. Để đảm bảo phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, an ninh, độ an toàn và tăng thêm tiện ích sử dụng thẻ, NHNN đã ban hành Bộ tiêu chuẩn cơ sở thẻ chip nội địa, xây dựng và thực hiện Kế hoạch chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ chip tại Việt Nam; dự kiến đến cuối năm 2021, sẽ hoàn thành việc chuyển đổi sang thẻ chip đối với toàn bộ thẻ nội địa.

Để hỗ trợ thị trường, thúc đẩy TTKDTM, thời gian qua, NHNN đã chỉ đạo NAPAS nhiều lần thực hiện giảm phí dịch vụ chuyển mạch tài chính. Riêng những tháng đầu năm 2020, trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, theo chỉ đạo của NHNN, NAPAS và các tổ chức tín dụng (TCTD) đã thực hiện 02 lần miễn, giảm các loại phí dịch vụ thanh toán, nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán và phục vụ tốt nhất cho nhu cầu thanh toán trực tuyến.

Về phía các NHTM tiếp tục quan tâm, chú trọng đầu tư, cập nhật và phát triển hệ thống thanh toán nội bộ, với kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, quản lý tập trung, cho phép các NHTM cung ứng các dịch vụ, phương tiện thanh toán hiện đại, đa dạng, tiện lợi, mở rộng phạm vi cung ứng trên toàn quốc. Các công nghệ mới, hiện đại trong thanh toán như việc áp dụng xác thực vân tay, nhận diện khuôn mặt, sử dụng mã phản hồi nhanh (QR Code), mã hóa thông tin thẻ, thanh toán phi tiếp xúc, công nghệ mPOS... được các ngân hàng nghiên cứu, hợp tác và ứng dụng, đặc biệt là việc thanh toán bằng QR Code gắn với đẩy mạnh thanh toán qua điện thoại di động hợp với xu thế phát triển trên thế giới và hành vi người tiêu dùng.



Hạ tầng thanh toán số trên di động như hóa đơn điện, nước, truyền hình, điện thoại, Internet, bảo hiểm, tài chính cá nhân, hành chính công... cần được triển khai trên diện rộng

Bên cạnh đó, để thúc đẩy thanh toán qua điện thoại di động, các NHTM đã tích cực phối hợp với các đơn vị cung ứng hàng hóa dịch vụ tích hợp ứng dụng Mobile banking với các đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng sử dụng dịch vụ.

Về phát triển hạ tầng thanh toán điện tử trong khu vực Chính phủ, dịch vụ hành chính công, theo NHNN, đến nay, hệ thống TTĐTLNH đã được kết nối với toàn bộ 63 Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh trong cả nước, đáp ứng được nhu cầu thu ngân sách của người dân và doanh nghiệp một cách nhanh chóng, kịp thời; có khoảng 50 NHTM hoàn thành kết nối với hệ thống nộp thuế điện tử của Tổng cục Thuế, Hải quan trên 63 tỉnh/thành phố và tất cả các quận, huyện trên cả nước, với 95% số thu Hải quan được thực hiện qua ngân hàng; 99% doanh nghiệp đăng ký nộp thuế điện tử; 27 ngân hàng và 10 tổ chức CƯDVTGTT phối hợp thu tiền điện, doanh thu tiền điện của EVN thanh toán qua ngân hàng lên tới gần 90%...

Ngày 09/12/2019, Chính phủ đã khai trương, đưa vào vận hành Cổng dịch vụ công quốc gia. Cổng dịch vụ công quốc gia đã tích hợp chức năng thanh toán trực tuyến, theo đó người dân, doanh nghiệp có thể sử dụng tài khoản của các ngân hàng, tổ chức TGTT để thanh toán trực tuyến phí, lệ phí thực hiện thủ tục hành chính; dịch vụ công.

Hệ thống thanh toán số chưa đồng bộ và chưa gắn với phổ cập tài chính

Mặc dù cơ sở hạ tầng cho thanh toán số đã phát triển mạnh trong thời gian gần đây, tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập.

Trước hết, vấn đề quy hoạch chưa nhất quán và đồng bộ hệ thống thanh toán số. Hiện vẫn còn không ít các tổ chức tài chính (gồm ngân hàng, trung gian thanh toán và ví điện tử) xây dựng hệ thống trang thiết bị thanh toán riêng tại một điểm chấp nhận thanh toán, do vậy, vừa lãng phí lại không tận dụng được hạ tầng chung.

Thêm nữa, các tổ chức tài chính mới tập trung phát triển mạng lưới, khách hàng tại khu vực thành thị, hướng tới đối tượng người dân có thu nhập cao, có tài khoản ngân hàng nên các hệ thống thanh toán hiện chưa phổ cập tới các vùng miền. Hệ thống điểm chấp nhận thanh toán chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị hoặc tại các nhà hàng, khách sạn, cửa hàng lớn. Vì vậy, thanh toán điện tử hiện nay tại Việt Nam mới chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu thanh toán bán lẻ của người dân khu vực thành thị, còn đối với khu vực nông thôn thì hầu như chưa có sự hiện diện. Theo đó, các hình thức thanh toán mới như QR Code (mã thanh toán), sinh trắc học... phát triển, nhưng chưa được quy hoạch, đánh giá để triển khai diện rộng.

Bên cạnh đó, hạ tầng thanh toán số trên di động như hóa đơn điện, nước, truyền hình, điện thoại, Internet, bảo hiểm, tài chính cá nhân, hành chính công... đã được triển khai, nhưng phạm vi chưa tương xứng với tiềm năng thị trường.

Chưa kể, hệ thống thanh toán số tại Việt Nam với yếu tố nước ngoài là chủ yếu. Thị trường thanh toán số - thương mại số của các doanh nghiệp “thuần Việt” đang phát triển manh mún, thiếu chiến lược bài bản. Thực tế đã có nhiều công ty thanh toán số - thương mại số “thuần Việt” ra đời dưới dạng khởi nghiệp, nhưng do thiếu tiềm lực tài chính, nên phải kêu gọi đầu tư từ nước ngoài. Theo số liệu thống kê của NHNN, cuối năm 2019, toàn thị trường có 27 công ty trung gian thanh toán cung ứng dịch vụ ví điện tử được cấp phép nhưng có tới 90% thị phần (cả số lượng lẫn giá trị giao dịch) đều nằm trong 5 công ty trung gian thanh toán lớn. Các công ty này đều có tỷ lệ sở hữu nước ngoài từ 30% đến hơn 90%.

Một vấn đề nữa là việc kiểm soát thanh toán xuyên biên giới. Thực tế, các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong nước có thể dễ dàng mua bán hàng hóa, dịch vụ cho các nhà cung cấp thông qua ứng dụng công nghệ thông tin trên điện thoại di động và Internet ra nước ngoài mà các cơ quan quản lý nhà nước chưa thể quản lý, kiểm soát, dẫn tới việc thất thu thuế. Đây cũng là vấn đề tồn tại trong quản lý với các mạng xã hội hoạt động theo hình thức xuyên biên giới vào Việt Nam.

Ngoài ra, trong thanh toán dịch vụ công qua ngân hàng, lĩnh vực giáo dục, thanh toán tiền nước vẫn chưa có nhiều sự chuyển biến, vẫn còn có trường học, công ty nước sạch... ở các thành phố lớn vẫn thu bằng tiền mặt. Bên cạnh do thói quen sử dụng tiền mặt thì thực tế trên còn xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản liên quan đến hạ tầng kỹ thuật như sự sẵn sàng trong việc kết nối giữa các trường học, công ty nước và ngân hàng; Cơ sở dữ liệu và khả năng trao đổi, chia sẻ thông tin: các trường học, công ty nước sạch chưa có hệ thống dữ liệu tập trung, chuẩn hóa dẫn đến khó khăn trong triển khai tích hợp, kết nối với hệ thống của ngân hàng (đã được chuẩn hóa tập trung); Sự không thống nhất trong quy định các khoản chi về phí dịch vụ thanh toán trả cho ngân hàng, tổ chức CƯDVTGTT khiến các đơn vị sự nghiệp công lập còn băn khoăn khi triển khai áp dụng, từ đó gây khó khăn cho cả phía ngân hàng cũng như các trường học, công ty nước sạch trong quá trình hợp tác triển khai dịch vụ.



Hệ thống thanh toán số nước ta hiện nay cần có giải pháp phát triển đồng bộ và gắn với phổ cập tài chính

Cần chiến lược quy hoạch, đồng bộ hạ tầng thanh toán số

Để giải quyết tồn tại về hạ tầng thanh toán số hiện nay tại Việt Nam, việc quy hoạch, thiết kế xây dựng “Hạ tầng thanh toán số quốc gia” đồng bộ, thống nhất, dùng chung là cần thiết. Việc này cho phép các tổ chức tài chính trong nước, quốc tế sử dụng hạ tầng mạng lưới rộng khắp của các đơn vị viễn thông để triển khai các dịch vụ cho người dân với chi phí thấp.

Đồng thời, các cơ quan liên quan như các ngân hàng, tổ chức tài chính, các trung tâm thương mại, sàn thương mại điện tử, các cơ sở kinh doanh, dịch vụ cần xây dựng hạ tầng mạng lưới các điểm chấp nhận thanh toán điện tử (từ siêu thị, khách sạn, nhà hàng, cho tới cửa hàng tạp hoá...) với quy mô khoảng 500.000 điểm trên toàn quốc, phủ được 100% các quận huyện và 80% các phường xã; Xây dựng hệ thống thanh toán hoá đơn điện tử tập trung (từ y tế, giáo dục, dịch vụ công, cho tới điện, nước, truyền hình, điện thoại...) và kết nối liên thông tới toàn bộ cơ quan thuế tại Trung ương cũng như địa phương. Hạ tầng chấp nhận thanh toán dùng chung này đáp ứng mọi phương tiện thanh toán được phát hành bởi các ngân hàng, trung gian thanh toán, các tổ chức tài chính, các tổ chức thanh toán trong và ngoài nước. Trên cơ sở sử dụng hạ tầng chuyển mạch bù trừ để kết nối, các thành phần tham gia không cần phải đi lắp đặt riêng các thiết bị máy POS, QRCode, NFC... do đó, giảm thiểu chi phí đầu tư của xã hội và đạt được mức chi phí thấp cho người dân.

Đặc biệt, thời gian tới, cần sớm triển khai thí điểm dịch vụ sử dụng tài khoản viễn thông trong thanh toán dịch vụ có giá trị thấp. Thủ tướng Chính phủ cũng đã đồng ý với đề xuất của Bộ Thông tin và Truyền thông cho phép các nhà mạng thí điểm cung cấp dịch vụ dùng tài khoản viễn thông thanh toán dịch vụ có giá trị nhỏ (Mobile Money); đồng ý chủ trương cho phép nhà mạng tham gia hạ tầng thanh toán và bù trừ điện tử... Hiện Bộ Thông tin và Truyền thông, các nhà mạng đang làm việc với NHNN và các bộ, ngành có liên quan để triển khai. Với thế mạnh về hạ tầng, công nghệ và nguồn vốn, việc các nhà mạng tham gia thị trường tài chính - ngân hàng điện tử sẽ góp phần thúc đẩy nhanh việc TTKDTM tại Việt Nam, cũng như tạo thuận lợi cho người dân.

Xét về lợi thế, các nhà mạng có hạ tầng mạng lưới phủ rộng khắp cả nước, lại sở hữu lượng thuê bao di động lớn và tỷ lệ người dùng điện thoại thông minh ngày càng cao. Do vậy, các nhà mạng có thể cung cấp được nhiều dịch vụ khác, trong đó có thanh toán điện tử. Mặt khác, việc cấp phép cho các công ty viễn thông sẽ tạo môi trường công bằng và bình đẳng khi có nhiều thành phần doanh nghiệp tham gia.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp được cấp phép phải đủ điều kiện để được thiết lập hạ tầng thanh toán điện tử; đồng thời cần chú ý đến vấn đề bảo mật cho khách hàng. Cùng quan điểm này, có ý kiến cho rằng, hạ tầng mạng viễn thông và hạ tầng thanh toán gắn với an ninh quốc gia, trong khi đó các nhà mạng đều là các doanh nghiệp nhà nước lớn, do vậy, Nhà nước sẽ có công cụ để giám sát và quản lý thuận lợi. Câu chuyện các công ty công nghệ tham gia lĩnh vực tài chính, ngân hàng là xu hướng tất yếu, do vậy, Nhà nước nên nghiên cứu cấp phép và có công cụ để giám sát quản lý, thay vì để các doanh nghiệp nước ngoài đang thực hiện chuyển mạch tự do mà không kiểm soát được.

NHNN cho biết đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, trình Thủ tướng Chính phủ về việc cho phép triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông để thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ (Mobile-Money), trong đó, đánh giá về cơ sở pháp lý, kinh nghiệm quốc tế, tác động khi triển khai Mobile-Money và đề xuất việc triển khai thí điểm Mobile-Money đối với đối tượng là các Công ty viễn thông đã được NHNN cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; qua đó góp phần phát triển TTKDTM và tăng cường việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ thanh toán trên địa bàn nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Thời gian tới, NHNN cũng sẽ tiến hành tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Quyết định số 2545/QĐ-TTg, làm cơ sở để xây dựng Đề án phát triển TTKDTM giai đoạn 2021 - 2025, trong đó, thanh toán qua điện thoại di động là một trụ cột quan trọng.

Đồng thời, ở tầm vĩ mô, việc hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư sẽ là nhân tố quan trọng giúp các đơn vị liên quan có thể kết nối, đồng bộ, từ đó hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật thanh toán số.

Để thúc đẩy TTKDTM, bên cạnh phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng cho thanh toán số, cần sự hoàn thiện về hành lang pháp lý và vấn đề truyền thông giáo dục tài chính. Do đó, sự phối hợp đồng bộ của các Bộ, ngành, chính quyền địa phương sẽ góp phần hiện thực hóa các mục tiêu của Chính phủ trong phát triển TTKDTM và phổ cập tài chính.


Mai Hoàng Lan

Theo Chuyên đề CN và NHS số 5/2020


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện hành lang pháp lý là cần thiết, cần coi tài sản số là loại tài sản theo thông lệ quốc tế và nội luật hóa bằng các quy định đặc thù. Pháp luật cần được xây dựng theo hướng quy định về loại tài sản số, cơ sở phát hành, chủ thể kinh doanh cung cấp dịch vụ phát hành, hoán đổi tài sản số, các quy định về phòng ngừa tội phạm, các quy định về trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ và các quy định về bảo vệ quyền và lợi ích của người nắm giữ và giao dịch tài sản số.
Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Lực lượng lao động già hóa đặt ra những thách thức nội bộ đáng kể cho ngành Ngân hàng, từ nguy cơ mất kiến thức, khoảng cách kỹ năng, đến chi phí gia tăng và sự cần thiết phải thích ứng với công nghệ mới. Đồng thời, sự trỗi dậy của AI mang đến cả những thách thức mới lẫn những cơ hội to lớn để giải quyết các vấn đề này.
Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các ngân hàng hàng đầu thế giới đã và đang tiên phong trong ứng dụng công nghệ, đưa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ lên môi trường số, đặc biệt là trong số hóa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ, đáp ứng tiêu chuẩn, yêu cầu quản trị rủi ro kho quỹ hiện đại của ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý trong bối cảnh thị trường tài chính, ngân hàng thế giới ngày càng nhiều biến động, rủi ro.
Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Ngân hàng mở là một thuật ngữ chỉ việc ngân hàng có thể chia sẻ, trao đổi dữ liệu với bên cung cấp dịch vụ thứ ba (Third Party service Provider - TPP) thông qua các công nghệ giao diện lập trình ứng dụng (Application Programing Interface - API) một cách có kiểm soát trên cơ sở cho phép của khách hàng và theo quy định của pháp luật, từ đó giúp các đơn vị cung cấp dịch vụ hoặc Fintech có thể dễ dàng phát triển các ứng dụng và cung ứng dịch vụ cho khách hàng một cách thông suốt, tiện lợi.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích vai trò, cơ hội và rủi ro của trí tuệ nhân tạo trong đánh giá rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam. Thông qua tiếp cận định tính và tổng hợp lý luận từ các học thuyết ra quyết định, bài viết khẳng định rằng trí tuệ nhân tạo mang lại hiệu quả vượt trội trong nâng cao độ chính xác phân loại tín dụng, tối ưu hóa quy trình và mở rộng tài chính bao trùm. Tuy nhiên, đi kèm là những thách thức đáng kể về vấn đề pháp lý, rủi ro đạo đức và khả năng triển khai thực tế trong môi trường ngân hàng còn phân hóa về năng lực số.
Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin là một xu hướng mới đầy tiềm năng của thế giới trong lĩnh vực tiền tệ số, hứa hẹn định hình lại phương thức thanh toán và chuyển giao giá trị trong kỷ nguyên số...
Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Nghiên cứu cho thấy rủi ro chuyển đổi khí hậu có thể làm tăng rủi ro thanh toán và rủi ro cụ thể của ngân hàng. Điều này cảnh báo không nên quá chủ quan trong quản lý rủi ro ngân hàng, kể cả khi chuyển đổi số mang lại lợi ích. Đặc biệt, tác động tiêu cực của rủi ro chuyển đổi khí hậu đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng cần được chú ý. Do đó, hệ thống ngân hàng cần tích hợp yếu tố rủi ro chuyển đổi khí hậu vào khung quản trị rủi ro tổng thể, đánh giá mức độ nhạy cảm của danh mục tín dụng đối với các chính sách giảm phát thải, xu hướng dịch chuyển đầu tư xanh và thay đổi hành vi tiêu dùng sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc quản trị rủi ro trong bối cảnh chuyển đổi số.
Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số đối với lĩnh vực ngân hàng là vấn đề quan trọng nhằm xử lý khối lượng dữ liệu khổng lồ trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Đây là một phần cốt lõi trong chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện đại hóa mô hình quản trị và hướng tới phát triển bền vững. Bài viết trên cơ sở phân tích thực trạng ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), từ đó rút ra những khuyến nghị cho Vietcombank để hoạt động này được triển khai hiệu quả trong thời gian tới.
Xem thêm
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng