Hoán đổi nợ xanh: Cầu nối mới cho tài chính khí hậu và phát triển bền vững

Nghiên cứu - Trao đổi
Tài chính và môi trường là hai lĩnh vực kinh tế - xã hội quan trọng đối với chiến lược phát triển của nhiều quốc gia. Trong thời đại mà mục tiêu tăng trưởng kinh tế không còn là ưu tiên tuyệt đối, các vấn đề liên quan đến bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, hạn chế tác động của biến đổi khí hậu, hướng đến cân bằng hệ sinh thái được nhiều quốc gia quan tâm đặc biệt.
aa

Tóm tắt: Tài chính và môi trường là hai lĩnh vực kinh tế - xã hội quan trọng đối với chiến lược phát triển của nhiều quốc gia. Trong thời đại mà mục tiêu tăng trưởng kinh tế không còn là ưu tiên tuyệt đối, các vấn đề liên quan đến bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, hạn chế tác động của biến đổi khí hậu, hướng đến cân bằng hệ sinh thái được nhiều quốc gia quan tâm đặc biệt. Giải pháp hoán đổi nợ bằng các dự án xanh và thúc đẩy phát triển tài chính khí hậu vừa giúp giảm bớt gánh nặng nợ cho nền kinh tế, vừa góp phần đẩy nhanh hiệu quả phát triển môi trường bền vững. Bài viết này tập trung phân tích cơ chế hoạt động, lợi ích của hoán đổi nợ xanh, những thách thức và giải pháp để triển khai mô hình hoán đổi nợ lấy dự án xanh tại Việt Nam. Đồng thời, làm rõ vai trò quan trọng của tài chính khí hậu trong việc hỗ trợ các dự án xanh, thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh và bền vững.

Từ khóa: Hoán đổi nợ xanh, tài chính khí hậu, phát triển bền vững.

GREEN DEBT SWAP: A NEW BRIDGE FOR CLIMATE FINANCE AND SUSTAINABLE DEVELOPMENT

Abstract: Finance and environment are two important socio-economic areas for the development strategies of numerous economies. In an era when economic growth is no longer an absolute priority, issues related to the protection of natural resources, limiting the impact of climate change and aiming to balance the environmental ecosystem receive special attention from countries around the world. The solution of swapping debt for green projects and promoting the development of climate finance not only reduces the debt burden of economies, but also contributes to accelerating the effectiveness of sustainable environmental development. This article focuses on analyzing the operating mechanism, perse benefits of green debt swap as well as the challenges and solutions to effectively implement the debt swap model for green projects in Vietnam. Moreover, the article clarifies the important role of climate finance in supporting green projects and promoting the transition to a green, sustainable economy.

Keywords: Green debt swap, climate finance, sustainable development.

1. Tổng quan

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), hoán đổi nợ xanh là phương thức chuyển đổi nợ được nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển sử dụng nhằm thuyết phục chính phủ chủ nợ phân bổ một phần nguồn lực đã được lập trong ngân sách nhà nước để thực hiện tài trợ cho các dự án về môi trường, khí hậu, hướng tới thúc đẩy tài chính bền vững cũng như phát triển môi trường lành mạnh, mang lại lợi ích đáng kể ở phạm vi quốc gia, khu vực và toàn cầu.

Tài chính khí hậu là thuật ngữ mới, đề cập đến việc các nước phát triển sử dụng nguồn lực tài chính để đầu tư hay tài trợ cho những dự án phát triển bền vững; hỗ trợ ứng phó, giảm thiểu tác động từ biến đổi khí hậu tại các nước đang phát triển hoặc thị trường mới nổi. Việc cung cấp nguồn lực tài chính có thể được ủy thác thông qua các tổ chức chính phủ, phi chính phủ hoặc tổ chức đầu tư tư nhân.

Theo đó, kiến trúc tài chính khí hậu đóng vai trò cải thiện quy trình, tăng cường hợp tác và trao đổi kinh nghiệm giữa các nền kinh tế. Tài chính khí hậu mang đến giải pháp hữu ích trong việc phát triển thị trường cho các công cụ nợ liên quan đến hoạt động khí hậu. Tuy nhiên, theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), khi nợ công của một quốc gia là bền vững (các nghĩa vụ nợ, bao gồm trả gốc, lãi được thực hiện một cách đầy đủ mà không cần sử dụng đến biện pháp tài trợ ngoại lệ hoặc không cần thực hiện những điều chỉnh lớn đối với cán cân thu nhập và chi tiêu), các giao dịch hoán đổi nợ lấy khí hậu sẽ kém hiệu quả hơn so với việc chỉ thực hiện hành động bảo vệ khí hậu thông qua các khoản tài trợ có điều kiện.

Theo Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC, 2023), tài chính khí hậu toàn cầu đang tài trợ cho nhiều hạng mục, trong đó, các hạng mục được đầu tư nhiều nhất gồm: Bảo tồn đa dạng sinh học; giao thông bền vững; thích ứng với biến đổi khí hậu; năng lượng tái tạo; nông nghiệp bền vững; sử dụng năng lượng hiệu quả và giảm thiểu, ứng phó với biến đổi khí hậu. Một chính phủ mắc nợ có thể phát hành khoản nợ mới để thay thế khoản nợ hiện tại với cam kết sử dụng số tiền thu được để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu thông qua các ưu đãi liên quan như lãi suất, các khoản trợ cấp, chính sách bù đắp carbon… theo cơ chế được mô tả tại Hình 1.


Hình 1: Cơ chế của phương thức hoán đổi nợ lấy khí hậu

Nguồn: Sáng kiến chính sách khí hậu1


Hoán đổi nợ xanh có hai vai trò cốt yếu, vừa là phương thức giảm nợ quốc gia thông qua hoán đổi các chương trình khí hậu, môi trường, vừa góp phần tạo cơ hội huy động vốn ở các quốc gia có thu nhập thấp để giải quyết các thách thức về môi trường và tăng trưởng xanh quốc gia. Hai mô hình phổ biến trong hoán đổi nợ xanh, bao gồm hoán đổi song phương hoặc hoán đổi trực tiếp (Hình 2) và hoán đổi bên thứ ba (Hình 3).

Hình 2: Hoán đổi song phương hoặc hoán đổi trực tiếp

Nguồn: Olshanskaya, và cộng sự, 2020

Hình 3: Hoán đổi bên thứ ba

Nguồn: Olshanskaya và cộng sự, 2020


Ở đây, giá trị thị trường của khoản nợ đề cập đến mức giá mà các nhà đầu tư sẵn sàng mua khoản nợ với giá khác với giá trị trên sổ sách tài chính. Chính sách xử lý nợ hiện nay được chia làm ba loại, bao gồm: Đình chỉ nợ, xóa nợ và phổ biến nhất là định hướng lại các khoản nợ bằng việc thống nhất sử dụng các khoản thanh toán cho phục hồi xanh, hay còn được biết đến là thỏa thuận hoán đổi nợ lấy dự án xanh. Tuy vậy, không hẳn mọi chương trình hoán đổi nợ xanh đều được bảo đảm đúng kế hoạch. Thực tế, tỉ trọng giá trị dành cho các dự án môi trường và khí hậu chiếm chưa đến một nửa số nợ được xóa trên toàn cầu.

Hiện nay, hoán đổi nợ lấy khí hậu là phương thức hoán đổi nợ tương đối phổ biến trên thế giới. Trong đó, chính phủ mắc nợ thay vì tiếp tục thanh toán các khoản nợ nước ngoài bằng ngoại tệ, đổi lại sẽ thanh toán bằng nội tệ và tài trợ số tiền thanh toán ấy cho các chương trình, dự án khí hậu trong nước theo các điều khoản đã thỏa thuận. Theo Chamon và cộng sự (2022), hoán đổi nợ lấy dự án khí hậu là một trong số những phương thức của hoán đổi nợ xanh, hỗ trợ mở rộng không gian tài chính cho đầu tư khí hậu. Giao dịch hoán đổi nợ lấy khí hậu có thể làm giảm mức độ mắc nợ cũng như giải phóng nguồn tài chính trong nước để cải thiện chi tiêu và phát triển hợp lý cho các khoản đầu tư xanh quốc gia.

Nhìn chung, giao dịch hoán đổi nợ lấy khí hậu mang lại nhiều lợi ích: (i) Tăng cường chi tiêu cho các chương trình, dự án liên quan đến khí hậu; (ii) Khuyến khích các tổ chức đầu tư, tham gia vào lĩnh vực thân thiện với khí hậu; (iii) Thúc đẩy phục hồi nền kinh tế, kích thích đầu tư tư nhân, hạn chế biến đổi khí hậu và bảo vệ đa dạng sinh học; (iv) Giảm áp lực trả nợ nước ngoài và giải phóng dòng tiền cho các khoản đầu tư hiệu quả hơn.

2. Thực trạng tình hình hoán đổi nợ xanh trên thế giới

Trước những thách thức của biến đổi khí hậu toàn cầu, nhiều nền kinh tế đã đưa ra các chiến lược ứng phó kịp thời, hiệu quả. Trong đó, tài chính khí hậu được xem là một giải pháp thiết yếu trong những thập kỷ tới. Đơn cử, nhiều quốc gia châu Mỹ đã thực hiện hoán đổi nợ xanh với những thành công nhất định, có thể kể đến như: Bolivia, Costa Rica và Belize thỏa thuận để tổ chức các giao dịch hoán đổi nợ xanh vào đầu những năm 1980.

Hoán đổi nợ lấy khí hậu được thực hiện lần đầu tiên vào năm 1987 giữa Bolivia và các chủ nợ nước ngoài, thỏa thuận xóa 650.000 USD để đổi lại cam kết của Chính phủ Bolivia trong việc dành 3,7 triệu m2 đất tiếp giáp với lưu vực sông Amazon để bảo tồn, đặt dấu mốc quan trọng trong phương thức hoán đổi nợ xanh.

Costa Rica đã thực hiện hai giao dịch hoán đổi nợ xanh với Hoa Kỳ. Theo đó, Costa Rica phân bổ 53 triệu USD cho các dự án bảo tồn thiên nhiên và tái trồng rừng, tập trung cho việc cải thiện mức độ phục hồi rừng bằng cách trồng hơn 60.000 cây rừng mới. Ngoài ra, Costa Rica cam kết thực hiện các chương trình về giảm thiểu phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu trong tương lai.

Belize giảm nợ quốc gia thông qua cam kết đặt 30% diện tích biển dưới sự bảo vệ hợp pháp. Belize cũng thỏa thuận chi 4 triệu USD từ số tiền trả nợ hằng năm trong suốt 20 năm để thúc đẩy các nỗ lực bảo tồn môi trường và hệ sinh thái biển quốc gia.

Ecuador hoán đổi nợ để mở rộng Khu bảo tồn biển rộng 60.000 km2, giữa Galapagos và Costa Rica, giá trị giao dịch thỏa thuận vào khoảng 1,1 tỉ USD. Ba tổ chức quốc tế đã hợp tác với nhau để quản lý dự án hoán đổi này bao gồm: Tập đoàn Tài chính Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (DFC), Ngân hàng Phát triển Doanh nghiệp Hà Lan (FMO) và Quỹ Tín thác Từ thiện Pew (Pew Charitable Trusts). Theo thông tin công bố, một phần số tiền hoán đổi nợ được sử dụng để mua trái phiếu xanh nhằm hỗ trợ bảo vệ biển, đại dương; mua máy bay không người lái, tàu tuần tra chặn bắt trái phép và thanh toán chi phí trong việc bảo vệ các khu bảo tồn thiên nhiên.

Bên cạnh đó, tại các châu lục khác cũng tiến hành phương thức hoán đổi nợ xanh. Tại châu Phi, Seychelles là quốc gia đầu tiên đạt được thỏa thuận hoán đổi nợ để tài trợ cho các dự án xanh, bao gồm 21,6 triệu USD nợ quốc gia thông qua trái phiếu xanh để bảo vệ 30% môi trường biển. Ngoài ra, huy động được thêm 15 triệu USD từ các nhà đầu tư quốc tế nhằm tài trợ cho các dự án biển bền vững. Tháng 01/2023, thỏa thuận về hoán đổi nợ của Chính phủ nước Cộng hòa Cabo Verde với Chính phủ Bồ Đào Nha và các quốc gia khác dưới sự hỗ trợ, thúc đẩy từ Viện Quốc tế về Môi trường và Phát triển (IIED). Các khoản hoán đổi nợ xanh này cho phép Cộng hòa Cabo Verde đầu tư vào quá trình chuyển đổi năng lượng quốc gia và tham gia “cuộc chiến” chống biến đổi khí hậu toàn cầu.

Trong thực tế, tồn tại sự không đồng nhất liên quan đến nợ công và tiềm năng môi trường. Các quốc gia cần xóa nợ phần lớn không phải là những quốc gia chịu trách nhiệm về biến đổi khí hậu. Theo thống kê của IMF, 37 quốc gia có nợ tài chính lớn và đang gặp khó khăn về tình trạng trả nợ ước tính chỉ chiếm khoảng 0,5% tổng lượng khí thải của thế giới. Vì thế, các quốc gia này sẽ nhận được nhiều lời mời thỏa thuận từ các quốc gia chủ nợ có nhu cầu về môi trường để tìm sự đồng thuận về lợi ích.

3. Một số khuyến nghị nhằm phát triển hoán đổi nợ xanh và tài chính khí hậu tại Việt Nam

Ngày nay, việc giữ gìn, bảo vệ môi trường được đề cao, hoán đổi nợ xanh đóng vai trò quan trọng như một phương thức cần thiết, hiệu quả để rút ngắn khoảng cách tồn tại giữa tài chính và môi trường. Dựa trên nhu cầu của chính phủ chủ nợ và chính phủ mắc nợ trong việc hoán đổi nợ lấy các chương trình xanh trong trung, dài hạn, nhiều dự án xanh được thúc đẩy thực hiện không chỉ ở phạm vi quốc gia, mà còn ảnh hưởng, tạo tiền đề cho sự phát triển của các chương trình, dự án xanh trên toàn cầu. Dưới đây là một số khuyến nghị tác giả đề xuất cho Việt Nam để phát triển chính sách liên quan đến hoán đổi nợ xanh nói riêng và xây dựng thị trường tài chính khí hậu nói chung trong thời gian tới:

Một là, cần xây dựng khung pháp lý cho giải pháp hoán đổi nợ xanh. Để cải thiện bình đẳng kinh tế và hành động vì khí hậu, môi trường, Việt Nam có thể hoán đổi các khoản thanh toán nợ quốc gia để đầu tư vào nhiều dự án bảo vệ môi trường địa phương. Tuy nhiên, trong quá trình hoán đổi nợ xanh, Chính phủ cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trong việc nghiên cứu tiền khả thi các dự án một cách chặt chẽ, bảo đảm năng lực tài chính (ngân sách nhà nước), tuân thủ cam kết minh bạch và uy tín quốc tế thông qua các chương trình chi tiêu quốc gia hài hòa.

Bên cạnh đó, quá trình đàm phán hoán đổi nợ xanh giữa chủ nợ và bên vay nợ phải được thiết lập có lộ trình, được chuẩn bị kỹ lưỡng dưới hình thức văn bản ký kết ở phạm vi quốc gia. Các văn bản này sẽ có sức ảnh hưởng lớn đối với chiến lược và chính sách quốc gia, do vậy, Việt Nam cần xem xét xây dựng khung chương trình về hoán đổi nợ xanh dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật (Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Quyết định của Thủ tướng Chính phủ).

Ở góc nhìn khác, khoản 9 Điều 3 Nghị định số 94/2018/NĐ-CP ngày 30/6/2018 của Chính phủ về nghiệp vụ quản lý nợ công quy định, hoán đổi nợ là việc cùng mua, cùng bán 02 hoặc nhiều hơn các khoản nợ khác nhau của cùng một chủ thể phát hành tại cùng một thời điểm với mục tiêu cơ cấu lại danh mục nợ. Tính đến hiện tại, nước ta chỉ có quy định hoán đổi nợ với ba sản phẩm là cổ phiếu (Điều 50 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán), trái phiếu (khoản 7 Điều 8 Nghị định số 93/2018/NĐ-CP ngày 30/6/2018 của Chính phủ quy định về quản lý nợ của chính quyền địa phương) và tài sản bảo đảm (Nghị định số 65/2022/NĐ-CP ngày 16/9/2022 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế), Việt Nam chưa thiết lập những quy định cụ thể đối với hoán đổi nợ xanh.

Hai là, xây dựng chính sách quốc gia về hoán đổi nợ xanh và tài chính khí hậu có thể mang lại lợi ích cho Việt Nam trong vấn đề giải quyết tình trạng hoán đổi nợ lấy dự án khí hậu nói riêng và tài trợ thúc đẩy phát triển môi trường quốc gia nói chung. Chính phủ, các cơ quan có thẩm quyền cần xác định tiềm năng, vai trò của giảm gánh nặng tài chính đến từ các khoản đầu tư phù hợp với Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) và Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu, trong khuôn khổ của UNFCCC. Ngoài ra, một cách khác mà Việt Nam có thể cân nhắc khi triển khai các chương trình tài chính khí hậu và hoán đổi nợ xanh là xây dựng thêm các chính sách trợ cấp có điều kiện về khí hậu cũng như cơ cấu lại nợ toàn diện theo phương thức tối ưu nhất (quản lý việc vay, cho vay, giám sát tiến độ thực hiện dự án hoán đổi nợ xanh, nâng cao trách nhiệm giải trình của các bên tham gia).

Ba là, phát triển thị trường tín chỉ carbon giúp giảm áp lực lên bài toán chọn lựa giữa kinh tế và môi trường. Hoạt động phát triển thị trường carbon trong nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường, di sản thiên nhiên và góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu.

Theo Điều 139 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, Quyết định số 2053/QĐ-TTg ngày 28/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và Quyết định số 1775/QĐ-TTg ngày 21/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính; quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ carbon ra thị trường thế giới, Việt Nam kế hoạch hình thành và phát triển thị trường tín chỉ carbon. Cụ thể như nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục ý thức, trách nhiệm thực hiện giảm phát thải khí nhà kính; kinh doanh tín chỉ carbon do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì; xây dựng cơ chế, chính sách tài chính để hình thành và vận hành thị trường carbon được giao cho Bộ Tài chính chủ trì. Tuy nhiên, hiện nay cơ chế giao dịch tín chỉ carbon trên thị trường (thủ tục đăng ký trực tuyến, sàn giao dịch tín chỉ carbon, chính sách thanh toán) vẫn chưa hoàn thiện. Trong thời gian tới, Việt Nam cần thiết lập cơ chế đầy đủ, minh bạch trong giao dịch để tạo sự an tâm đối với các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước, hướng đến xây dựng sản phẩm thân thiện với môi trường và phát triển thị trường tài chính bền vững. Qua đó, thu hút các Quỹ đầu tư khí hậu (CIF), Quỹ khí hậu xanh (GCF), Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) tham gia vào thị trường tài chính và các chương trình, dự án về phát triển môi trường ở nước ta.


1 https://www.climatepolicyinitiative.org/publication/debt-for-climate-swaps/

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Chamon, M., Klok, E., Thakoor, V. and Zettelmeyer, J. (2022), “Debt-for-Climate Swaps: Analysis, Design, and Implementation”, International Monetary Fund (IMF) Working Papers, No 2022/162, https://www.econstor.eu/bitstream/10419/294830/1/1887867465.pdf

2. China Council for International Cooperation on Environment and Development (CCICED) Secretariat (2023), “Green Finance”, In: Green Recovery with Resilience and High Quality Development, Springer: Singapore, pages 473-529, Doi: 10.1007/978-981-19-9470-8_9.

3. Institute for Governance & Sustainable Development (2020), “Debt-for-Climate Swaps: IGSD Background Note”, https://www.igsd.org/wp-content/uploads/2024/01/Background-Note-Debt-Swaps.pdf

4. Khurshid, A., Rauf, A., Qayyum, S., Calin, A. C. and Duan, W. (2023), “Green innovation and carbon emissions: The role of carbon pricing and environmental policies in attaining sustainable development targets of carbon mitigation - evidence from Central-Eastern Europe”, Environment, Development and Sustainability, 25, pages 8777–8798, Doi: 10.1007/s10668-022-02422-3.

5. Lee, C. C., Li, X., Yu, C. H. and Zhao, J. (2022), “The contribution of climate finance toward environmental sustainability: New global evidence”, Energy Economics, 111, Doi: 10.1016/j.eneco.2022.106072.

6. Novikova, A., Olshanskaya, M., Hoppe, J. and Grigoryan, E. (2020), “Debt-for-climate swaps: Developing countries”, https://www.ikem.de/wp-content/uploads/2021/05/Brief.2_Dept-for-nature-swaps.pdf

7. Olshanskaya, M., Novikova, A., Hoppe, J. and Grigoryan, E. (2020), “Evaluating the fiscal and environmental efficacy of debt-for-climate swaps: Using global case studies to derive recommendations for countries of Central Asia and Caucasus”, https://www.ikem.de/wpcontent/uploads/2021/05/Olshanskaya-Novikova-Hoppe-Grigoryan-_-Debt-for-climate-swaps-Caucasus-Central-Asia-_IKEM.pdf

8. Sovacool, B. K., Schmid, P., Stirling, A., Walter, G. and Mackerron, G. (2020), “Differences in carbon emissions reduction between countries pursuing renewable electricity versus nuclear power”, Nature Energy, 5, pages 928–935 (2020), Doi: 10.1038/s41560-020-00696-3.

9. The Association of Southeast Asian Nations (2021), “ASEAN State of Climate Change Report: Current status and outlook of the ASEAN region Toward the ASEAN climate vision 2050”, https://asean.org/wp-content/uploads/2021/10/ASCCR-e-publication-Correction_8-June.pdf

10. United Nations Framework Convention on Climate Change (2024), “Capacity-building work of bodies established under the Convention and its Kyoto Protocol”, https://unfccc.int/sites/default/files/resource/sbi2024_03_adv.pdf


Nguyễn Hoàng Nam
Trường Kinh tế, Luật và Quản lý Nhà nước, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Bài viết phân tích những thách thức lớn đối với ổn định của hệ thống tài chính quốc tế trong bối cảnh bất ổn toàn cầu gia tăng, bao gồm bất định kinh tế vĩ mô, định giá tài sản cao, đòn bẩy tài chính và sự phát triển nhanh của khu vực phi ngân hàng. Các rủi ro mang tính hệ thống có thể làm khuếch đại cú sốc thị trường và lan truyền toàn cầu. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị chính sách như tăng cường quản trị rủi ro, kiểm soát đòn bẩy, mở rộng giám sát và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tài chính.
Tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam

Tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung phân tích tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp tại Việt Nam. Thông qua tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước kết hợp với mô hình định lượng, nghiên cứu sẽ làm rõ tác động của rủi ro địa chính trị ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, cung cấp bằng chứng thực nghiệm giúp doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này.
Khai thác hình ảnh vệ tinh để nghiên cứu ảnh hưởng về bất bình đẳng kinh tế địa phương đến ESG của doanh nghiệp Việt Nam

Khai thác hình ảnh vệ tinh để nghiên cứu ảnh hưởng về bất bình đẳng kinh tế địa phương đến ESG của doanh nghiệp Việt Nam

Nghiên cứu phân tích mối liên hệ giữa bất bình đẳng kinh tế giữa các địa phương và hoạt động kinh doanh bền vững của doanh nghiệp tại Việt Nam dựa trên tiêu chí ESG. Dữ liệu được thu thập từ hình ảnh vệ tinh và thông tin của hơn 1.000 doanh nghiệp trên cả nước. Kết quả giúp đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội đến hoạt động bền vững và đưa ra khuyến nghị chính sách phù hợp.
Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với tiêu đề: "BÁC VẪN CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN".
Xem thêm
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của ngành Ngân hàng, doanh số giải ngân chương trình cho vay lãi suất ưu đãi đối với chủ đầu tư, người mua nhà các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ (chương trình 145 nghìn tỉ đồng) đã có sự cải thiện qua thời gian, tháng sau cao hơn tháng trước, tương ứng với nguồn cung nhà ở xã hội gia tăng.
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng