Hân hoan bài ca chiến thắng và hi vọng

Kinh tế - xã hội
“Mời các bạn nghe tin chiến thắng chúng tôi mới nhận được. Đúng 11 giờ 30 phút, quân ta tiến vào Sài Gòn, đánh chiếm Dinh Độc Lập. Bộ Tổng tham mưu Ngụy - Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện. Cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng”. Đó là tin tức ngắn gọn được phát sóng trên Đài Tiếng nói Việt Nam ngày 30/4/1975, ngày Bắc - Nam sum họp một nhà, non sông thu về một mối. Ngày 30/4 năm ấy, cả đất nước đã vang lên bài ca chiến thắng, bài ca của tinh thần yêu nước nồng nàn, của khát vọng độc lập, tự do, của hào khí Việt Nam anh hùng được truyền thừa qua bao thế hệ.
aa

“Mời các bạn nghe tin chiến thắng chúng tôi mới nhận được. Đúng 11 giờ 30 phút, quân ta tiến vào Sài Gòn, đánh chiếm Dinh Độc Lập. Bộ Tổng tham mưu Ngụy - Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện. Cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng”.

Đó là tin tức ngắn gọn được phát sóng trên Đài Tiếng nói Việt Nam ngày 30/4/1975, ngày Bắc - Nam sum họp một nhà, non sông thu về một mối. Ngày 30/4 năm ấy, cả đất nước đã vang lên bài ca chiến thắng, bài ca của tinh thần yêu nước nồng nàn, của khát vọng độc lập, tự do, của hào khí Việt Nam anh hùng được truyền thừa qua bao thế hệ.


Bài ca chiến thắng mùa xuân năm 1975 (Nguồn ảnh: Hệ thống tư liệu - Văn kiện Đảng)


Ngược dòng thời gian trở về mùa xuân năm 1975 lịch sử, sau khi bị mất toàn bộ Quân khu 1 và 2, một nửa binh lực của quân Ngụy đã bị tiêu diệt. Trong thế tan rã chiến lược hầu như không thể cứu vãn, địch vẫn ra sức tổ chức lực lượng, tích cực phòng ngự, lấy việc bảo vệ Sài Gòn làm mục đích chiến lược để có thể mặc cả với quân ta trong trường hợp dẫn đến thương lượng hòa bình; lần lượt tổ chức các tập đoàn phòng ngự từ xa như tập đoàn phòng ngự Phan Rang, tập đoàn phòng ngự Xuân Lộc và sau đó là tập đoàn phòng ngự trực tiếp thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Ngày 18/4/1975, quân ta tiến công Phan Rang, đập tan tuyến phòng ngự của địch, bắt sống Trung tướng Tư lệnh mặt trận Nguyễn Vĩnh Nghi. Ngày 20/4/1975, trước sức tiến công của quân ta, Sư đoàn 18 của Ngụy tháo chạy, Xuân Lộc thất thủ. Các tuyến phòng ngự từ xa bị phá vỡ, địch co về phòng ngự trực tiếp thành phố Sài Gòn với ba tuyến gồm vòng ngoài, vòng ven và nội đô. Chiều ngày 26/4/1975, quân ta nổ súng mở màn chiến dịch tổng tiến công mang tên “Hồ Chí Minh” nhằm giải phóng Sài Gòn và toàn bộ miền Nam. Từ ngày 26 - 28/4/1975, quân ta chọc thủng tuyến phòng ngự vòng ngoài, đập tan sự kháng cự của các sư đoàn địch, tiếp cận Sài Gòn và khiến địch bị rối loạn hoàn toàn về chiến lược. Ngày 29/4/1975, các binh đoàn bộ đội của ta tiến công, tiêu diệt các cánh quân địch ngăn chặn và phản kích. Sáng 30/4/1975, trong thế thua đã rõ ràng, địch xin ngừng bắn, các quân đoàn của ta nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu. 11h30 ngày 30/4/1975, sau khi Dinh Độc Lập thất thủ, Tổng thống Ngụy Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Ngày 01/5/1975, toàn bộ lực lượng còn lại của quân Ngụy tan rã, quân ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Gần nửa thập kỉ đã trôi qua, lá cờ đỏ sao vàng - lá cờ giải phóng trên nóc Dinh Độc Lập năm nào nay đã phấp phới tung bay trên mọi nẻo đường đất nước và cả trên những đấu trường, những diễn đàn quốc tế. Hồn cốt lá cờ giải phóng đã hóa thành sức mạnh dân tộc, thành niềm hi vọng lớn lao của đất nước Việt Nam luôn khát khao hòa bình, phồn vinh và thịnh vượng.

Nhìn lại chặng đường kiến thiết đất nước suốt năm thập kỉ qua, Việt Nam đã từng là một quốc gia thuần nông, phải trải qua bao mưa bom, bão đạn; qua bao vây, cấm vận nhưng vẫn kiên cường, giữ vững nền độc lập; gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai, cùng bè bạn năm châu hội nhập toàn cầu.

Từ năm 1975, tình hình đất nước chưa ổn định do phải từng bước khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung - cầu, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân mỗi năm giai đoạn 1977 - 1985 chỉ tăng 4,65%, trong đó: Nông, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; công nghiệp tăng 5,54%/năm và xây dựng tăng 2,18%/năm. Theo loại hình sở hữu, sở hữu quốc doanh tăng 4,29%; sở hữu tập thể tăng 10,26% và sở hữu tư nhân, cá thể tăng 0,71%. Về cơ cấu ngành kinh tế, nông, lâm nghiệp là ngành kinh tế quan trọng, chiếm 38,92% GDP, chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước. Mặc dù công nghiệp được dồn lực đầu tư nhưng tỉ trọng còn thấp (chiếm 39,74% GDP) và chưa là động lực để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Diễn biến lạm phát giai đoạn này có nhiều biến động, chỉ số lạm phát tăng mạnh, đỉnh điểm là vào giai đoạn từ 1983 - 1985, lạm phát bị đẩy lên mức 700 - 800% (lạm phát phi mã) (Hình 1).

Về mặt xã hội, Chính phủ chủ trương nhanh chóng xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh bổ túc văn hóa, xem đó là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Đầu năm 1978, cả quốc gia có 1.323,7 nghìn người thoát nạn mù chữ. Công tác dạy nghề phát triển mạnh mẽ, năm 1985, số trường trung học chuyên nghiệp là 314 trường với quy mô 128,5 nghìn sinh viên và 11,4 nghìn giáo viên. Hệ thống y tế được mở rộng, xây mới và áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, năm 1985, số nhân viên y tế tăng từ 110,9 nghìn người (từ năm 1976) lên 160,2 nghìn người, số bác sĩ tăng từ 9.104 người lên 19.029 người. Tuy nhiên, do lạm phát cao nên đời sống nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn, thiếu thốn.

Trước bối cảnh kinh tế, xã hội đất nước gặp nhiều khó khăn sau đại thắng mùa xuân năm 1975, ngành Ngân hàng Việt Nam đã khẩn trương tiếp quản và cải tạo hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam, xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền cách mạng, thực hiện thống nhất tiền tệ trong cả nước; ban hành và thực hiện nhiều biện pháp về tiền tệ, tín dụng, quản lí ngoại hối, thanh toán góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội đất nước. Thực hiện chủ trương cải tiến và mở rộng tín dụng ngân hàng theo Quyết định số 32/CP ngày 11/2/1977 của Hội đồng Chính phủ, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thể lệ cho vay vốn lưu động và quy định về cho vay đầu tư xây dựng cơ bản. Hoạt động tín dụng bước vào thời kì cải tiến mạnh mẽ và mở rộng các loại cho vay, trước hết là đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Hệ thống thanh toán thống nhất trong cả nước được thiết lập; tình trạng công nợ tồn đọng giữa các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị được giải quyết đáng kể. Quan hệ tín dụng và thanh toán quốc tế với các nước xã hội chủ nghĩa được tăng cường, vị thế ngành Ngân hàng ngày càng được củng cố, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa đất nước.


Hình 1: Tăng trưởng GDP và lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 1976 - 2000

Nguồn: Researchgate


Sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, cải cách, mở cửa đất nước, khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo của các loại hình kinh tế để phát triển sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, tăng sản phẩm cho xã hội.

Giai đoạn 1986 - 2000, GDP bình quân mỗi năm tăng 6,51%; trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,72%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,06%; khu vực dịch vụ tăng 6,66%. Cũng trong thời kì này, chỉ số lạm phát rất cao trong năm 1986 - 1988, tăng đến 800%, nguyên nhân chủ yếu là do kinh tế tăng trưởng chậm, có năm bị giảm, làm mất cân đối cung cầu (thiếu cung), tiền nhiều hơn hàng, tuy nhiên, giai đoạn 1989 - 2000, lạm phát đã được kiểm soát đáng kể do cung đã tăng đáng kể, đặc biệt lương thực vượt nhu cầu trong nước, đã có xuất khẩu với khối lượng lớn.

Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác cũng được củng cố và tăng cường, đất nước từng bước thực hiện Chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Chính sách cải cách tiền lương đã thúc đẩy phát triển sản xuất, giúp đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người một tháng của dân cư tăng, góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo của đất nước.

Thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để theo Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng từng bước đổi mới và phát triển, hoàn thiện về mô hình tổ chức, thể chế pháp lí, công nghệ và dịch vụ ngân hàng. Ngày 26/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 53/HĐBT về tổ chức bộ máy NHNN, mô hình ngân hàng một cấp được chuyển thành mô hình ngân hàng hai cấp, tách bạch dần chức năng quản lí nhà nước của NHNN với chức năng kinh doanh của các tổ chức tín dụng (TCTD). Trong giai đoạn này, NHNN chuyển sang cơ chế lãi suất thực dương để thu hút tiền gửi vào hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định tiền tệ và thị trường, nhờ đó, lạm phát phi mã được đẩy lùi. Bên cạnh đó, NHNN cũng kết hợp sử dụng các công cụ gián tiếp với công cụ kiểm soát trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ; bước đầu hiện đại hóa công nghệ và tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho việc vận hành hệ thống ngân hàng mới. Vốn tín dụng được mở rộng đối với mọi thành phần kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm sau.

Bước vào thiên niên kỉ mới, Việt Nam đã vươn mình, hội nhập sâu rộng với các quốc gia trên toàn thế giới. Kể từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2006, Việt Nam đã tích cực tham gia vào các tổ chức, diễn đàn, các hiệp ước kinh tế - xã hội song phương và đa phương, qua đó đạt được những thành công đáng ghi nhận. Kinh tế liên tục tăng trưởng, vượt ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển.


Hình 2: Tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 1985 - 2022

Đơn vị: %

Nguồn: World Bank data

Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), năm 2000, quy mô GDP của Việt Nam đạt 39,58 tỉ USD, mức tăng trưởng đạt 6,8% (Hình 2), xếp thứ 6/10 khối ASEAN và thứ 60/200 trên thế giới. Giai đoạn 2000 - 2012, quy mô GDP Việt Nam vẫn nằm ngoài top 50 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, đến năm 2013, quy mô GDP đã chính thức lọt vào top này với quy mô 212,73 tỉ USD, xếp thứ 6 trong khối ASEAN. Từ năm 2013 đến nay, quy mô nền kinh tế ngày càng mở rộng. GDP năm 2023 tăng 5,05% so với năm 2022, (quý I/2023 tăng 3,41%; quý II/2023 tăng 4,25%; quý III/2023 tăng 5,47%; quý IV/2023 tăng 6,72%); trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,83% đóng góp 0,46 điểm phần trăm; công nghiệp, xây dựng tăng 3,74%, đóng góp 1,51 điểm phần trăm (riêng công nghiệp tăng 3,02%) và dịch vụ tăng cao nhất với 6,82%, đóng góp 3,25 điểm phần trăm và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 3,33%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2023 đạt 4,95 triệu đồng/người/tháng, tăng 5,9% so với năm 2022, tình hình đời sống dân cư được cải thiện.

Về mặt xã hội, công tác an sinh xã hội tiếp tục được các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương quan tâm thực hiện. Cùng với đó, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia và vùng lãnh thổ (năm 2023), quan hệ hợp tác với các nước láng giềng, các đối tác chiến lược được củng cố vững vàng, ngày càng chặt chẽ, hiệu quả. Đặc biệt trong giai đoạn dịch Covid-19 bùng phát kéo dài ảnh hưởng nặng nề đến các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam; Đảng, Nhà nước và Chính phủ và các bộ, ban, ngành đã vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh để nhanh chóng kêu gọi Nhân dân đoàn kết một lòng, tạo nên sức mạnh tập thể vượt qua dịch bệnh. Đại dịch được khống chế thành công là nhờ sự chung tay, góp sức của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước, đồng bào ta ở nước ngoài với tình cảm sâu sắc cùng với tinh thần trách nhiệm, phát huy những giá trị truyền thống quý báu đoàn kết, “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách” của dân tộc qua bao thế hệ. Sự vào cuộc quyết liệt của toàn Đảng, toàn dân đã tạo nên khối sức mạnh tập thể vững chãi, kiên cường, từng bước cùng nhau vượt qua dịch bệnh.

Giai đoạn hậu Covid-19 đến nay, với nhiều khó khăn, thách thức của kinh tế thế giới nói chung và những nước phát triển nói riêng, trì trệ và tăng trưởng ảm đạm, đặc biệt là tình trạng lạm phát phi mã đã ảnh hưởng không nhỏ đến bức tranh kinh tế toàn cầu. Đặc biệt cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra gay gắt và phức tạp hơn, vấn đề sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế ngày càng gia tăng, các thách thức từ biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, an ninh năng lượng, an ninh mạng nổi lên ngày một gay gắt, đặc biệt là các thế lực thù địch vẫn âm thầm chống phá đất nước. Tuy nhiên, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định đoàn kết, hợp tác, chia sẻ cùng các quốc gia trên thế giới, hướng tới bài ca hi vọng về một thế giới hòa bình và phát triển bền vững. Thêm vào đó, công tác đối ngoại, ngoại giao mang hình tượng “cây tre Việt Nam” đã giúp nước ta đứng vững giữa bão táp phong ba của tình hình kinh tế, chính trị… thế giới đầy biến động và phức tạp.

Cùng với sự đổi mới, hội nhập toàn diện của đất nước, ngành Ngân hàng Việt Nam cũng từng bước hoàn thiện về mô hình tổ chức, thể chế pháp lí, công nghệ và dịch vụ ngân hàng. NHNN đã phát huy vai trò là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, phù hợp với diễn biến tình hình, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; tích cực đổi mới, hoàn thiện cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, phát triển nghiệp vụ Ngân hàng trung ương; đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra, giám sát; tăng cường hiện đại hóa công nghệ, phát triển dịch vụ ngân hàng; đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Trong đó, chính sách tiền tệ linh hoạt theo diễn biến kinh tế, xã hội đã được NHNN triển khai, thi hành hiệu quả. Những năm đầu thập niên 2000, lạm phát ở Việt Nam khá cao: Năm 2004 tăng 9,5%; năm 2005 tăng 8,4%; năm 2007 tăng 12,63%; năm 2008 tăng 19,89%; năm 2010 tăng 11,75%; năm 2011 tăng 18,58%. Tuy nhiên, nhờ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt kết hợp cùng các chính sách tài khóa khác, lạm phát về cơ bản đã được kiểm soát. Từ năm 2013 đến nay, lạm phát giữ ở mức 1,4 - 4%, cá biệt năm 2015, lạm phát chỉ đạt 0,65%.

Đặc biệt, từ giai đoạn hậu Covid-19 đến nay, NHNN đã chủ động, tích cực ban hành các văn bản yêu cầu các TCTD xem xét hoãn, giãn nợ cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch, ưu tiên nới rộng mức tăng trưởng tín dụng, điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành, tạo điều kiện để các TCTD giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ người, dân doanh nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, NHNN cũng thường xuyên chỉ đạo các TCTD tiết giảm tối đa chi phí hoạt động, dành nguồn lực để giảm lãi suất cho vay hỗ trợ khách hàng, thực hiện tốt vai trò cung ứng vốn cho nền kinh tế, góp phần cùng người dân, doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn chung của quốc gia.

Chiến tranh đã lùi xa, những năm tháng chiến đấu, hi sinh để giành lại lá cờ độc lập ngày 30/4/1975 đã trở thành lịch sử. Những kí ức anh hùng đó mãi là niềm tự hào dân tộc, trở thành động lực đối với nhiều thế hệ người Việt Nam đang bảo vệ và xây dựng đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và đường lối cách mạng dân tộc, đất nước đang từng bước vượt qua khó khăn, cùng bạn bè năm châu hướng đến một tương lai thái hòa, thịnh vượng. Việt Nam vẫn luôn tự hào, phát huy những giá trị cao quý của cả dân tộc để tự tin bước tiếp những chặng đường xây dựng đất nước và vươn mình ra thế giới.

Tài liệu tham khảo:

1. Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013). Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng.
2. Tổng cục Thống kê (2020). Những dấu ấn quan trọng về kinh tế - xã hội trong hành trình 75 năm thành lập và phát triển đất nước qua số liệu thống kê.
3. Tổng cục Thống kê (2023). Tình hình kinh tế - xã hội quý IV/2023 và năm 2023.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2013). Khái quát lịch sử ngân hàng qua các thời kỳ


Ngọc Linh


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Thực thi ESG: Chiến lược phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới

Thực thi ESG: Chiến lược phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới

Chiều 23/4/2025, Báo Dân trí tổ chức Diễn đàn ESG Việt Nam lần thứ nhất với chủ đề “Chiến lược phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới”. Diễn đàn đã khẳng định, ESG không chỉ là xu hướng, mà đang trở thành kim chỉ nam cho Việt Nam phát triển bền vững, tạo lợi thế cạnh tranh và hội nhập toàn cầu trong thời đại chuyển đổi xanh và số hóa nền kinh tế.
Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế: Nâng tầm vị thế Việt Nam

Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế: Nâng tầm vị thế Việt Nam

Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, nhiều quốc gia đã chủ động phát triển các trung tâm tài chính như một mũi nhọn chiến lược thúc đẩy tăng trưởng và hội nhập. Với độ mở kinh tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam liệu đã hội tụ đủ các điều kiện để phát triển các trung tâm tài chính. Sự ra đời của Nghị quyết 42/NQ-CP của Chính phủ về đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội liên quan đến trung tâm tài chính tại Việt Nam chính là bước đi đầu tiên trong hành trình đó. Nhằm làm rõ thêm tiềm năng, điều kiện, thách thức cũng như những đề xuất cụ thể để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam, Thời báo Ngân hàng đã phỏng vấn TS. Lê Thị Thùy Vân - Phó Viện trưởng, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính.
Chung tay mở ra kỷ nguyên phát triển mới của quan hệ hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc

Chung tay mở ra kỷ nguyên phát triển mới của quan hệ hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc

Trân trọng giới thiệu bài viết "CHUNG TAY MỞ RA KỶ NGUYÊN PHÁT TRIỂN MỚI CỦA QUAN HỆ HỮU NGHỊ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC" của đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị Trung ương 11: Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử

Hội nghị Trung ương 11: Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử

Sau ba ngày làm việc khẩn trương với tinh thần trách nhiệm cao, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra và bế mạc chiều 12/4.
Môi trường đầu tư kinh doanh an toàn, minh bạch: Sức hút để

Môi trường đầu tư kinh doanh an toàn, minh bạch: Sức hút để 'tăng tốc' dòng vốn FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài là dòng vốn đặc biệt quan trọng cho tăng trưởng, hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) mạnh mẽ hơn nữa thì xây dựng và bảo đảm một môi trường kinh doanh ổn định, minh bạch, thuận lợi sẽ là điểm mạnh để các nhà đầu FDI hướng đến Việt Nam.
Tương lai cho thế hệ vươn mình

Tương lai cho thế hệ vươn mình

Trân trọng giới thiệu bài viết "TƯƠNG LAI CHO THẾ HỆ VƯƠN MÌNH" của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm.
Dòng vốn ngân hàng hỗ trợ kinh tế tư nhân phát huy thế mạnh vai trò huyết mạch của nền kinh tế

Dòng vốn ngân hàng hỗ trợ kinh tế tư nhân phát huy thế mạnh vai trò huyết mạch của nền kinh tế

Xác định phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược, chính sách lâu dài của quốc gia; thời gian qua, ngành Ngân hàng đã tích cực thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng khu vực này. Đây cũng là vấn đề được các chuyên gia thảo luận tại Hội thảo “Vốn ngân hàng góp phần thúc đẩy kinh tế tư nhân” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 21/3.
Đẩy mạnh các giải pháp nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam

Đẩy mạnh các giải pháp nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam

Theo lãnh đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), cơ quan này đã và đang triển khai nhiều chính sách cải cách, điều chỉnh pháp lý và hợp tác với tổ chức xếp hạng quốc tế đều hướng đến mục tiêu nâng hạng TTCK từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi.
Xem thêm
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Nghiên cứu này đã hệ thống hóa khung pháp lý toàn cầu và thực tiễn Việt Nam về phát triển ngân hàng bền vững, qua đó làm nổi bật xu hướng hội tụ giữa tiêu chuẩn quốc tế và nỗ lực địa phương hóa. Nghiên cứu cũng khẳng định xu hướng tất yếu là hài hòa hóa tiêu chuẩn toàn cầu, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết về minh bạch hóa thông tin và hợp tác đa bên để cân bằng giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm môi trường.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc