Giải pháp giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn tài chính trong trạng thái “bình thường mới”

Nghiên cứu - Trao đổi
Tóm tắt: Dòng tiền được ví như huyết mạch của doanh nghiệp, tuy nhiên, sau 02 năm chịu ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, dòng tiền của hầu hết các doanh nghiệp đều đã bị tắc nghẽn.
aa

Tóm tắt: Dòng tiền được ví như huyết mạch của doanh nghiệp, tuy nhiên, sau 02 năm chịu ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, dòng tiền của hầu hết các doanh nghiệp đều đã bị tắc nghẽn. Vì vậy, điều cần thiết là phải khơi thông dòng tiền, cung cấp thêm vốn cho doanh nghiệp để phục hồi sản xuất, kinh doanh trong trạng thái “bình thường mới”, tiến tới thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 trong tình hình mới. Mặc dù Nhà nước ta rất quan tâm và đã ban hành nhiều chính sách nhằm bù đắp những tổn thất về tài chính cho doanh nghiệp, nhưng “những cánh tay cần nối dài hơn” mới có thể chạm được những “nỗi đau” mà các doanh nghiệp đang gánh chịu. Bài viết đánh giá hệ quả của đại dịch Covid-19 gây khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp, từ đó đưa ra một số giải pháp tài chính hỗ trợ doanh nghiệp nhằm phục hồi sản xuất, kinh doanh trong tình hình hiện nay.

Từ khóa: Dịch bệnh Covid-19, doanh nghiệp, giải pháp tài chính.

1. Hệ quả của đại dịch Covid-19 gây khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp

1.1. Chi phí sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp tăng

Sau hơn 02 năm “đối phó” với dịch bệnh Covid-19, đến nay, thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã từng bước chấp nhận “sống chung” với dịch bệnh và chuyển sang trạng thái “bình thường mới”. Trong điều kiện này, các doanh nghiệp vừa nỗ lực phòng, chống dịch vừa phục hồi sản xuất để ổn định việc làm, tạo thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên, đại dịch đã làm kiệt quệ nguồn tài chính, khiến hầu hết các doanh nghiệp đang phải “oằn mình” chống đỡ bởi chi phí sản xuất kinh doanh tăng cao từ các nguyên nhân sau:

Thứ nhất, chi phí vận chuyển tăng cao. Từ đầu năm 2021, dịch bệnh Covid-19 đã khiến hoạt động logistics bị đứt gãy. Song, mức độ càng nghiêm trọng hơn, bởi khi dịch tạm lắng, nhu cầu vận chuyển tăng mạnh. Điều này đẩy giá cước vận chuyển lên cao gây khó khăn nghiêm trọng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xuất - nhập khẩu. Tính đến cuối tháng 11/2021, giá cước vận chuyển đường biển đã tăng gấp 10 lần so với đầu năm, cước vận chuyển đường biển sau dịch đang từ 7.000 - 8.000 USD/container tăng vọt lên 10.000 USD/container1. Trong khi đó, cước vận chuyển bằng đường hàng không tăng hàng tuần. Hơn nữa, vì thiếu container và tàu vận chuyển nên hàng hóa phải lưu kho, lưu bãi khiến cho chi phí bị đội lên rất nhiều. Đối với vận chuyển nội địa cũng không khả quan hơn khi các doanh nghiệp vận tải phải áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch như: Xét nghiệm Covid-19 cho các lái xe, chi phí đồ bảo hộ, khử khuẩn, khẩu trang phục vụ quá trình vận chuyển, đặc biệt là chi phí xét nghiệm PCR rất cao, điều này dẫn đến chi phí của các doanh nghiệp tăng lên.

Thứ hai, chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng. Kể từ khi Việt Nam bắt đầu kế hoạch mở cửa, thích ứng, sống chung an toàn với dịch bệnh, các doanh nghiệp trên cả nước đã nhanh chóng bắt tay vào khôi phục sản xuất. Thời điểm này, các doanh nghiệp cố gắng duy trì đủ nguyên liệu để không gián đoạn sản xuất, nhưng họ cũng đang đối mặt với rủi ro vì giá nguyên liệu đầu vào tăng và chưa có điểm dừng. Thực tế cho thấy, nếu như năm 2020, các doanh nghiệp gặp khó khăn vì không có đơn hàng, thì đến năm 2021, các doanh nghiệp lại gặp khó khăn vì giá nguyên liệu đầu vào tăng giữa lúc kinh tế thế giới đang dần hồi phục. Chi phí vận chuyển tăng cao, cùng với những ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19 gây khó khăn cho việc sản xuất dẫn tới giá nguyên vật liệu tăng lên. Theo thống kê, hầu hết giá cả của nguyên vật liệu sản xuất năm 2021 đều tăng. So với năm 2020, giá xăng dầu trong nước bình quân tăng 31,74%; giá ga tăng 25,89%, giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 7,03% do giá xi măng, sắt, thép, cát tăng theo giá nguyên liệu đầu vào2... Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính từ lần tăng giá đầu tiên vào đầu năm 2020, giá thức ăn chăn nuôi trong nước đã tăng 7 đến 8 đợt, từ 30 đến 40%3, trong khi giá bán các sản phẩm chăn nuôi xuống thấp khiến cho không ít doanh nghiệp trong lĩnh vực chăn nuôi bị thua lỗ.

Thứ ba, chi phí phòng, chống dịch Covid-19 tăng. Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, số ca nhiễm trong cộng đồng vẫn tiếp tục tăng lên, để vừa chống dịch hiệu quả, vừa duy trì và phát triển sản xuất tránh đứt gẫy chuỗi cung ứng toàn cầu, các doanh nghiệp phải bỏ ra một khoản chi phí khổng lồ. Ngoài ra, để động viên, khích lệ người lao động tham gia sản xuất 3 tại chỗ, ngoài chế độ lương, tiền ngoài giờ đầy đủ, doanh nghiệp còn phải hỗ trợ thêm một khoản không nhỏ cho người lao động. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải phối hợp với lực lượng y tế xét nghiệm Covid-19 định kỳ cho người lao động, đối với các doanh nghiệp sản xuất lớn hàng nghìn công nhân như doanh nghiệp may mặc, điện tử... thì mỗi lẫn xét nghiệm chi phí không hề nhỏ.

Thứ tư, giá xăng dầu liên tục tăng khiến chi phí vận chuyển và nguyên vật liệu đầu vào tăng. Một trong những nguyên nhân khiến giá xăng dầu tăng “chóng mặt” vừa qua là do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Sau một thời gian thực hiện giãn cách, thị trường thế giới chịu ảnh hưởng của việc nhu cầu tăng khi các nước nới lỏng dần lệnh cấm đi lại, thiếu nguồn cung về than và khí đốt tại Trung Quốc, Ấn Độ và châu Âu; mức dự trữ dầu thô của Mỹ sụt giảm... Tính đến ngày 21/02/2022, giá xăng RON 95-V tăng lên 26.780 đồng/lít tại vùng 1 và 27.310 tại vùng 24. Giá xăng dầu tăng đột biến ảnh hưởng rất lớn đến doanh nghiệp nói chung và hệ thống vận tải logistics nói riêng, bởi phí xăng dầu chiếm hơn 30% trong tổng chi phí cấu thành của logistics hiện nay. Ngoài ra, việc tăng giá xăng dầu sẽ khiến chi phí vận chuyển nguyên vật liệu đầu vào, chi phí vận chuyển sản phẩm đầu ra đều tăng lên. Bên cạnh đó, giá các loại hàng hóa, nguyên vật liệu đầu vào sẽ điều chỉnh theo giá xăng dầu nên thời gian tới có thể nguồn nguyên liệu tiếp tục tăng so với năm ngoái. Điều này càng khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn chồng khó khăn, ảnh hưởng đến tiến độ phục hồi sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa trong năm 2022.

1.2. Doanh thu của doanh nghiệp bị sụt giảm

Thông thường, chi phí vận chuyển và chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu giá thành sản phẩm, nên khi chi phí vận chuyển và chi phí nguyên vật liệu tăng “chóng mặt” (do chi phí phòng, chống dịch, giá xăng dầu tăng…), đã làm cho giá thành sản phẩm tăng lên. Với các doanh nghiệp lớn thì kế hoạch sản xuất thường được thực hiện trước ít nhất từ 3 - 6 tháng, nhiều doanh nghiệp đã ký các đơn hàng đến giữa năm 2022 phải tạm dừng hoạt động do không đàm phán thành công với đối tác về giá cả, nếu vẫn áp dụng theo hợp đồng đã ký kết thì doanh nghiệp phải chịu thua lỗ rất nhiều. Do vậy, cho dù là dừng sản xuất các đơn hàng hay tiếp tục thực hiện các đơn hàng thì các doanh nghiệp đều phải chịu tổn thất doanh thu nặng nề.

Bên cạnh đó, đối với doanh nghiệp xuất khẩu, chi phí logistics tăng cao làm doanh nghiệp mất lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế giới. Với những mặt hàng xuất đi châu Âu hoặc Bắc Mỹ (đây là hai thị trường có chi phí vận chuyển khá cao) sẽ khó có thể cạnh tranh được với các nước gần thị trường này hơn Việt Nam. Không ít doanh nghiệp đứng trước tình trạng thua lỗ nghiêm trọng, đình trệ sản xuất do không thể giao hàng hoặc đối tác không nhận hàng do chi phí quá cao. Chi phí logistics tăng cao cũng đã lấy đi nhiều lợi nhuận của các doanh nghiệp vận chuyển trong nước, đơn cử như việc cùng một chuyến vận chuyển nhưng doanh nghiệp phải chi các khoản phòng, chống dịch như xét nghiệm Covid-19 cho lái xe, mua các đồ bảo hộ, khử khuẩn phục vụ quá trình vận chuyển.

Hơn nữa, nguồn lao động bị thiếu trầm trọng khiến doanh thu của doanh nghiệp giảm. Bước sang giai đoạn “bình thường mới”, các cơ sở sản xuất kinh doanh được mở cửa trở lại, thì bài toán khó đối với hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất là bổ sung nguồn nhân lực bị thiếu hụt do đại dịch gây nên.

Sau làn sóng dịch Covid-19 lần thứ tư càn quét, nhiều tỉnh, thành trên cả nước, đặc biệt là tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam, thị trường lao động đối mặt với tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Sau thời gian khá dài thực hiện giãn cách xã hội, tỷ lệ lao động về quê tăng mạnh là tín hiệu cho thấy nguy cơ thiếu hụt lao động trầm trọng ở nhiều doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sau khi nghỉ việc, phần lớn lao động đã về quê nghỉ Tết Nguyên đán và đi tìm việc khác để làm. Điều này dẫn tới việc khi doanh nghiệp được hoạt động trở lại thì lâm vào cảnh thiếu lao động, nhiều doanh nghiệp bắt buộc phải tiếp tục đóng cửa vì không đủ số lượng nhân công tối thiểu để nhà máy/doanh nghiệp hoạt động.

Theo Báo cáo tác động của dịch Covid-19 đến tình hình lao động, việc làm quý III/2021 của Tổng cục Thống kê, kết quả khảo sát đánh giá tác động của dịch Covid-19 trên phạm vi toàn quốc cho thấy, trong số 22.764 doanh nghiệp có 17,8% doanh nghiệp bị thiếu lao động. Tỷ lệ doanh nghiệp thiếu hụt lao động cao nhất được ghi nhận ở vùng Đông Nam Bộ, với 30,6%. Trong đó, những tỉnh thiếu hụt cao là Bình Dương (36,9%); Bình Phước (34,4%) và Thành phố Hồ Chí Minh (31,8%). Một số ngành báo cáo có sự thiếu hụt nhiều lao động nhất là ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học (55,6%), sản xuất da và các sản phẩm liên quan (51,7%), sản xuất trang phục (49,2%), sản xuất thiết bị điện (44,5%), ngành dệt (39,5%)5. Việc thiếu hụt nguồn lao động đã khiến cho nhiều doanh nghiệp dù có nhiều đơn hàng vẫn không thể thực hiện sản xuất, bởi máy móc, nhà xưởng lúc này đều trở nên vô nghĩa vì doanh nghiệp thiếu lao động như một động cơ không đủ nhiên liệu.

Ngoài ra, do thực hiện giãn cách xã hội trong nước cũng như các biện pháp kiểm soát biên giới để phòng, chống dịch bệnh, đã kìm hãm hoạt động sản xuất trong nước và trên toàn cầu, vì vậy hàng hóa và nguyên liệu trở nên khan hiếm, thậm chí không có đủ nguyên vật liệu để phục vụ hoạt động sản xuất. Điều này khiến cho nhiều đơn hàng của doanh nghiệp không thể thực hiện đúng thời hạn, dẫn tới doanh nghiệp bị giảm nguồn thu trầm trọng.

2. Giải pháp giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn về tài chính nhằm phục hồi sản xuất, kinh doanh trong trạng thái “bình thường mới”

Có thể thấy, gói chính sách tài chính của Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề trong đại dịch, về cơ bản là toàn diện: Từ miễn, giảm thuế, cho nợ thuế đến tiếp cận các nguồn tín dụng; từ hỗ trợ phục hồi sản xuất, kinh doanh đến hỗ trợ phục hồi nguồn nhân lực. Tuy nhiên, các chính sách nói trên chưa được cụ thể hóa đến mức cần thiết, đồng thời chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa nhằm phục hồi động lực của sản xuất kinh doanh với chính sách tiền tệ nới lỏng, nên hiệu quả của các chính sách nói trên còn hạn chế. Bởi vậy, để tăng khả năng tài chính cho các doanh nghiệp nhằm phục hồi sản xuất, kinh doanh trong trạng thái "bình thường mới", cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, cung cấp vốn với các gói vay phù hợp cho các doanh nghiệp

Thời điểm hiện tại, để khắc phục những khó khăn khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng trong khi doanh thu của doanh nghiệp lại giảm và nguồn lao động bị thiếu, thì vấn đề cốt lõi là giải quyết khó khăn tài chính cho doanh nghiệp. Sau hơn 02 năm dịch bệnh diễn ra, các doanh nghiệp đang phải đối mặt với tình hình tài chính cạn kiệt, giờ đang ở giai đoạn đầu phục hồi kinh tế cũng là giai đoạn khó khăn nhất của các doanh nghiệp, do vậy, các chính sách cung cấp vốn với lãi suất ưu đãi, hay nói cách khác là các gói vay giá rẻ rất cần thiết cho các doanh nghiệp lúc này. Hơn nữa, để đạt được mục tiêu phục hồi, phát triển nhanh hoạt động sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy các động lực tăng trưởng, ưu tiên một số ngành, lĩnh vực quan trọng, phấn đấu đạt mục tiêu của giai đoạn 2021 - 2025: Tăng trưởng GDP bình quân 6,5 - 7%/năm6, thì việc cung cấp vốn là thực sự cần thiết đối với các doanh nghiệp, các doanh nghiệp có phục hồi và phát triển thì nền kinh tế quốc gia mới được cải thiện. Mặc dù Nhà nước đã hỗ trợ lãi suất 2%/năm trong 02 năm 2022 - 2023 đối với các khoản vay có lãi suất cho vay trên 6%/năm và được Ngân hàng Chính sách xã hội giải ngân trong giai đoạn 2022 - 2023, tổng nguồn vốn hỗ trợ lãi suất tối đa 3.000 tỷ đồng7, nhưng Nhà nước cần thiết kế những gói vay với lãi suất cực kỳ ưu đãi theo từng cấp độ doanh nghiệp bị thiệt hại. Những doanh nghiệp bị thiệt hại nặng nề nhất trong dịch bệnh phải kể đến là các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, lưu trú, vận tải, hàng không. Gói vay cho lĩnh vực này phải tính đến lâu dài nhằm mục đích duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp, một mặt để các doanh nghiệp trả tiền thuê mặt bằng, trả lương nhân viên, mặt khác, khuyến khích các doanh nghiệp chuyển đổi mô hình kinh doanh tạm thời để có nguồn thu trong lúc chờ người dân được tiêm đầy đủ vaccine.

Mặt khác, đối với những doanh nghiệp sản xuất lớn, đang gặp khó khăn do chi phí đầu vào tăng cao hoặc thiếu nguồn lao động, các gói vay này là khẩn thiết để thực hiện các đơn hàng. Do vậy các gói vay này cần lớn, nhanh nhưng thời gian hoàn trả ngắn giúp doanh nghiệp có ngay vốn lưu động để phục vụ việc trả lương, chiêu mộ lao động, thanh toán nguyên vật liệu, và khi thực hiện xong đơn hàng thì các doanh nghiệp đã có doanh thu để chi trả.

Hai là, tiếp tục gia hạn, giảm, miễn một số loại thuế, phí và tăng hiệu quả của các chính sách

Việc gia hạn cũng như giảm, miễn một số loại thuế phí đã được Nhà nước thực hiện trong thời gian qua và được thể hiện rõ trong Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về Chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình; tuy nhiên, để tạo động lực cho các doanh nghiệp vượt qua khó khăn và đủ thời gian để phục hồi và phát triển sản xuất, Nhà nước cần cân nhắc việc tăng tỷ lệ giảm thuế cũng như tăng thời gian thực hiện các chính sách.

Cụ thể:

- Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp: Nên chủ trương giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm 2021 và năm 2022 và giảm 20% - 30% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 - 4 năm tiếp theo tùy vào từng ngành nghề và mức độ ảnh hưởng để các doanh nghiệp có đủ thời gian phục hồi. Về thời gian chuyển lỗ, có thể kéo dài thêm 2 năm đến 3 năm (hiện tại thời gian chuyển lỗ là 5 năm).

- Đối với thuế giá trị gia tăng: Nên cân nhắc miễn thuế giá trị gia tăng trong năm 2022, giảm 50% thuế giá trị gia tăng trong 2 năm kế tiếp 2023 - 2024 và tùy vào diễn biến của dịch bệnh để đưa ra chính sách trong thời gian tiếp theo cho hợp lý. Với những doanh nghiệp được hoàn thuế cần cần rút ngắn thời gian và thủ tục nhanh gọn để các doanh nghiệp có thêm chi phí trang trải khó khăn.

- Đối với thuế nhập khẩu: Nên giảm 50% thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu đầu vào sản xuất. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nguyên liệu đầu vào đang tăng cao thì việc miễn thuế nhập khẩu là chính sách hết sức cần thiết để hỗ trợ giảm chi phí cho các doanh nghiệp.

Ba là, kích cầu tiêu dùng nội địa

Dù nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu sản xuất trở lại từ đầu tháng 10/2021 đến nay nhưng hàng hóa tiêu thụ khá chậm nên gặp nhiều khó khăn khi dòng tiền không còn, không thể quay vòng sản xuất... Vì vậy, Nhà nước cần có thêm giải pháp kích cầu nội địa để kích thích tiêu dùng. Doanh nghiệp có bán được hàng mới có tiền quay vòng sản xuất, chi trả lương cho người lao động, đảm bảo thu nhập cho nhiều hộ gia đình và từ đó tác động trở lại đến tiêu dùng trong nước, giúp kinh tế hồi phục.

Riêng đối với ngành du lịch, được dự báo là ngành kinh tế có khả năng phục hồi nhanh nhất sau đại dịch, hiện nay đã có những chính sách thông thoáng, bước đầu mở cửa lại du lịch. Tuy nhiên, để phục hồi và phát triển, thích ứng với trạng thái “bình thường mới”, ngành du lịch cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Trước mắt là triển khai hiệu quả các cơ chế, chính sách hỗ trợ về tài chính, tín dụng, việc làm và đào tạo nhân lực cho doanh nghiệp, cộng đồng tham gia kinh doanh du lịch. Chính sách giảm thuế giá trị gia tăng, giảm giá điện, tiền thuê đất, thuế thu nhập doanh nghiệp kéo dài hơn và tiếp tục gia hạn thời hạn nộp thuế của doanh nghiệp đến hết năm 2023. Hỗ trợ người lao động, xây dựng cơ chế thu hút lao động và hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực du lịch để phục hồi sau đại dịch.

1 http://tienphong.vn/cuoc-van-chuyen-tang-doanh-nghiep-xuat-khau-dieu-dung-post1396290.tpo
2 Theo https://www.gso.gov.vn/default/2021/12/thong-cao-bao-chi-ve-tinh-hinh-gia-thang-12-quy-iv-va-nam-021/​
3 Doanh nghiệp “oằn mình” vì chi phí sản xuất tăng cao/Tiêu Điểm Kinh Tế VITV. https://www.youtube.com/watch?=Rz1t9xPc4yY
4 https://www.petrolimex.com.vn/
5 https://vneconomy.vn/thieu-hut-lao-dong-khi-binh-thuong-moi-giai-phap-nao-de-giu-chan-nguon-nhan-luc.htm
6, 7 Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về Chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về Chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình.

2. Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021- Ban hành quy định tạm thời “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”.

3. Nghị định số 41/2020/NĐ-CP ngày 8/4/2020 của Chính phủ quy định gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất.

4. Nghị định số 109/2020/NĐ-CP về việc gia hạn thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe ôtô sản xuất, lắp ráp trong nước.

5. Nghị định số 52/2021/NĐ-CP ngày 19/4/2021 của Chính phủ về gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2021.

6. Nghị định số 92/2021/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch Covid-19.

7. Thông tư số 14/2021/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 01/2020/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.

8. Quyết định số 33/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.



ThS. Hoàng Lệ Dung
Công ty cổ phần Lisa Medi Việt Nam
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Bài viết phân tích những thách thức lớn đối với ổn định của hệ thống tài chính quốc tế trong bối cảnh bất ổn toàn cầu gia tăng, bao gồm bất định kinh tế vĩ mô, định giá tài sản cao, đòn bẩy tài chính và sự phát triển nhanh của khu vực phi ngân hàng. Các rủi ro mang tính hệ thống có thể làm khuếch đại cú sốc thị trường và lan truyền toàn cầu. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị chính sách như tăng cường quản trị rủi ro, kiểm soát đòn bẩy, mở rộng giám sát và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tài chính.
Xem thêm
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng