Dịch vụ tài chính kỹ thuật số: Cơ hội và thách thức cho người tiêu dùng tài chính

Nghiên cứu - Trao đổi
Trong môi trường tài chính ngày càng được số hóa phức tạp và biến đổi nhanh chóng, với sự phát triển vượt bậc của dịch vụ tài chính kỹ thuật số đã mang lại cả cơ hội và thách thức to lớn với người ti...
aa

Trong môi trường tài chính ngày càng được số hóa phức tạp và biến đổi nhanh chóng, với sự phát triển vượt bậc của dịch vụ tài chính kỹ thuật số đã mang lại cả cơ hội và thách thức to lớn với người tiêu dùng tài chính (NTDTC)...

Điều này khiến cho yêu cầu bảo vệ NTDTC ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết. Đồng thời, nó cũng đặt ra yêu cầu các chính sách và phương pháp tiếp cận của các cơ quan bảo vệ NTDTC cần phải được điều chỉnh, phát triển và thích ứng với môi trường mới. Trước bối cảnh đó, trong bài viết này, tác giả nghiên cứu về những tác động của dịch vụ tài chính kỹ thuật số đến NTDTC, kinh nghiệm quốc tế về chính sách ứng phó; nhận diện một số tồn tại, hạn chế tại Việt Nam; trên cơ sở đó, đề xuất một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam.



Nguồn ảnh: Internet


1. Tổng quan về dịch vụ tài chính kỹ thuật số

Dịch vụ tài chính kỹ thuật số (Digital Financial Service - DFS) có thể được định nghĩa là các hoạt động tài chính sử dụng công nghệ kỹ thuật số, bao gồm tiền điện tử, dịch vụ tài chính di động, dịch vụ tài chính trực tuyến, i-teller và ngân hàng số, cho dù thông qua các tổ chức ngân hàng hay phi ngân hàng. DFS có thể bao gồm các giao dịch tiền tệ khác nhau như gửi, rút, gửi và nhận tiền, cũng như các sản phẩm và dịch vụ tài chính khác bao gồm thanh toán, tín dụng, tiết kiệm, lương hưu và bảo hiểm. DFS cũng có thể bao gồm các dịch vụ phi giao dịch, chẳng hạn như xem thông tin tài chính cá nhân thông qua các thiết bị kỹ thuật số (OECD, 2017). Các DFS rất đa dạng, trong đó, ngân hàng di động và ngân hàng trực tuyến là những kênh kỹ thuật số phổ biến và được sử dụng rộng rãi nhất đối với thanh toán và chuyển khoản trong nước (ví di động đứng ở vị trí thứ ba).

Có rất nhiều chủ thể và các bên liên quan với vai trò khác nhau đang tham gia vào việc cung cấp các DFS, trong đó ngân hàng là chủ thể lớn nhất, chịu tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của công nghệ tài chính; sau đó là trong các công ty viễn thông. Các công ty viễn thông, phần lớn là các nhà khai thác mạng di động (MNO), tham gia chủ yếu vào việc cung cấp dịch vụ tiền điện tử và ví điện thoại di động, đóng vai trò trung gian giữa các ngân hàng và các công ty bảo hiểm cung cấp các giải pháp kỹ thuật số để sử dụng di động, ngân hàng trực tuyến và các dịch vụ khác. Ở một số quốc gia, chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền cũng tham gia mạnh mẽ vào DFS qua việc tích cực thực hiện/nhận chuyển tiền thông qua các kênh kỹ thuật số như tiền lương, lương hưu, trợ cấp phúc lợi, thu ngân sách,… Các công ty bảo hiểm hoặc hưu trí... cũng tham gia tích cực vào DFS. Các bên liên quan khác bao gồm các công ty công nghệ tài chính (fintech); các tổ chức tiền điện tử; ngân hàng đầu tư và các công ty môi giới chứng khoán; nhà môi giới, quỹ tương hỗ và đại lý chuyển tiền...

2. Tác động của dịch vụ tài chính kỹ thuật số đến NTDTC

Tác động tích cực: NTDTC đang được hưởng lợi từ quá trình số hóa tài chính qua việc DFS cung cấp cho NTDTC các sản phẩm dịch vụ thuận tiện hơn, nhanh hơn, rẻ hơn, phù hợp hơn và cá biệt hóa cho nhu cầu cá nhân; cho phép NTDTC dễ dàng tiếp cận, so sánh trực tuyến và xác định những ưu đãi tối ưu nhất, phù hợp nhất với nhu cầu. Môi trường kỹ thuật số giúp cho NTDTC vượt qua giới hạn không gian và thời gian để mở rộng cơ hội tiếp cận và sử dụng sản phẩm dịch vụ tài chính; giúp nâng cao hiểu biết của NTDTC về các sản phẩm tài chính và các quyết định tài chính, cung cấp các biện pháp bảo mật và phòng ngừa thích hợp để giúp NTDTC tránh các giao dịch gian lận và các rủi ro.

DFS thúc đẩy tài chính toàn diện qua việc mở ra cơ hội hòa nhập tài chính cho các nhóm dân cư có thu nhập thấp, bị loại trừ trong tài chính truyền thống; trao quyền kinh tế cho phụ nữ, nông dân và hỗ trợ tăng trưởng bền vững và bao trùm. Tiềm năng của tài chính kỹ thuật số như một công cụ mạnh mẽ để mở rộng và tăng cường khả năng tiếp cận các loại sản phẩm tài chính mới cho tất cả mọi người, đã được cộng đồng quốc tế công nhận và tôn vinh. Các nước G20 đã thông qua Nguyên tắc cấp cao về tài chính kỹ thuật số toàn diện.

Bên cạnh các ưu điểm không thể phủ nhận, NTDTC trên toàn thế giới đang phải đối mặt với những rủi ro ngày càng đa dạng và phức tạp hơn khi truy cập và sử dụng DFS, bao gồm các vấn đề về: (1) Tính minh bạch, tiết lộ và truyền đạt thông tin; (2) Các điều khoản, điều kiện, phí và quyền đối xử công bằng; (3) Trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp đối với hành vi giao dịch kỹ thuật số trái phép, quy định về đại lý; (4) Quyền riêng tư và bảo mật dữ liệu cá nhân của khách hàng; (5) Cơ chế truy đòi và giải quyết tranh chấp, bảo vệ chống lại lạm dụng, gian lận, thu giữ tài sản của người tiêu dùng một cách bất hợp pháp của các chủ thể cung cấp DFS và các bên liên quan.

Trong môi trường kỹ thuật số, bên cạnh các rủi ro truyền thống, NTDTC còn phải đối mặt với các mối đe dọa mới bao gồm: Nguy cơ gian lận kỹ thuật số; lạm dụng, sử dụng sai dữ liệu tài chính cá nhân; thiếu minh bạch, thông tin không đầy đủ về sản phẩm; các cơ chế khắc phục liên quan; quyền riêng tư dữ liệu; lỗ hổng bảo mật, tội phạm mạng... NTDTC rất dễ gặp rủi ro sản phẩm không phù hợp, bị mắc nợ quá nhiều do thiếu hiểu biết và lạm dụng sản phẩm, rủi ro từ phương thức phân phối sản phẩm như sản phẩm bị bán sai do các đại lý hạn chế hoặc không có kiến thức về sản phẩm. Những rủi ro này khi vượt quá giới hạn có thể làm giảm niềm tin và sự tin cậy của NTDTC vào hệ thống tài chính và đổi mới công nghệ; do đó, làm ảnh hưởng đến tiềm năng của DFS với tư cách là động lực thúc đẩy tài chính toàn diện.

DFS khoét sâu và làm trầm trọng thêm sự bất cân xứng giữa NTDTC và các chủ thể cung cấp dịch vụ: Bất cân xứng giữa NTDTC, đặc biệt là những đối tượng yếu thế và các chủ thể cung cấp dịch vụ thể hiện như sau: (1) Bất cân xứng về thông tin và hiểu biết tài chính: Chủ thể cung cấp sản phẩm dịch vụ tài chính hiểu biết rất rõ về đặc điểm, thuộc tính, lợi ích và hạn chế sản phẩm dịch vụ và các thông tin liên quan, có kỹ năng sử dụng sản phẩm tài chính và năng lực quản lý tài chính còn NTDTC thì không; (2) Bất cân xứng trong việc theo đuổi các phương thức bảo vệ và tự bảo vệ khi bị xâm phạm: Do hạn chế về hiểu biết quy định, năng lực tài chính... và cả sự thiếu tự tin, NTDTC thường ở vị trí bất lợi khi xảy ra tranh chấp kiện tụng so với chủ thể cung cấp sản phẩm dịch vụ tài chính. Theo nghiên cứu của TS. Đinh Thị Thanh Vân, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Việt Nam và một số nước Đông Nam Á đang có chỉ số bảo vệ NTDTC kỹ thuật số (DFCP) thấp nhất1.

Công nghệ đang làm thay đổi cách thức các cá nhân tương tác với hệ thống tài chính, khiến họ đối mặt trực tiếp với các vấn đề trực tuyến thực tiễn thị trường, khuyến khích mạo hiểm rủi ro và làm trầm trọng thêm một số thành kiến cá nhân. Nghiên cứu kinh tế học hành vi đã chỉ ra rằng, con người có thiên kiến bẩm sinh và họ có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi cách trình bày thông tin. Công nghệ hiện đại và Internet đã giúp người tiêu dùng dễ dàng có được trải nghiệm thoải mái, dễ dàng. Điều này cũng kích thích và khơi dậy những thành kiến cố hữu, khuynh hướng cá nhân như chủ nghĩa ăn xổi, khó kiểm soát hành vi trước ham muốn nhu cầu... dẫn đến nhanh chóng thực hiện các hành vi mạo hiểm rủi ro trên môi trường số như tạo ra xung lực mua hàng chỉ với một cú nhấp chuột, mua sản phẩm kỹ thuật số trước khi biết cách sử dụng hoặc không thực sự cần thiết,…

Mặt trái của công nghệ tạo điều kiện thuận lợi, kích thích các chủ thể DFS lợi dụng triệt để sự thiếu hiểu biết và thiên kiến của NTDTC để gia tăng các hành vi kinh doanh không công bằng, thiếu đạo đức. Các hành vi này bao gồm kinh doanh bất cẩn, thiếu trách nhiệm thậm chí là gian lận, lừa đảo; thu giữ tài sản của NTDTC một cách bất hợp pháp... Các chủ thể cung cấp DFS tăng cường các kỹ thuật, thủ thuật bán hàng bao gồm: (1) Định giá nhỏ giọt: NTDTC không được biết trước đầy đủ giá cả và chi phí từ đầu, chi phí điều chỉnh tùy theo điều kiện thị trường. Ưu đãi có thời gian giới hạn: Những ưu đãi này chỉ ra rằng, một ưu đãi nhất định sẽ chỉ có giá trị trong một thời gian. Nhiều sản phẩm DFS tiềm ẩn nguy cơ và rủi ro cao cho người tiêu dùng như các sản phẩm trả góp trực tuyến hay tín dụng hỗ trợ thấu chi. Một số báo cáo cho thấy, khoản vay ngắn hạn các công ty đang nhắm mục tiêu đến sinh viên hoặc người tiêu dùng trẻ, thiếu kinh nghiệm và dễ bị tổn thương bằng cách cung cấp sự tiếp cận nhanh chóng và dễ dàng với tín dụng trực tuyến thông qua các kỹ thuật quảng cáo hấp dẫn và đáng ngờ vào những thời điểm họ nhạy cảm nhất với nhu cầu tài chính.

3. Bảo vệ NTDTC trong bối cảnh tài chính kỹ thuật số: Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam

Kinh nghiệm và thực tiễn của nhiều quốc gia cho thấy, cơ chế bảo vệ NTDTC hiệu quả, tiếp cận các sản phẩm tài chính phù hợp và giáo dục tài chính chất lượng tốt là những yêu cầu cơ bản để củng cố, nâng cao sự tự tin và niềm tin của người tiêu dùng vào thị trường.

Về quy định và thể chế: Khuôn khổ bảo vệ NTDTC trong kỷ nguyên kỹ thuật số trước tiên vẫn cần tuân thủ các Nguyên tắc cấp cao của G20 về bảo vệ NTDTC2. Pháp luật, chính sách cần được thiết kế để đạt được sự cân bằng hợp lý giữa việc cho phép các đổi mới của tài chính kỹ thuật số nhằm tận dụng và phát huy tối đa những lợi ích mang lại cho NTDTC; đồng thời, đảm bảo duy trì bảo vệ NTDTC và mục tiêu đảm bảo an toàn và lành mạnh tài chính3. Xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc làm rõ các quy định hiện hành để phù hợp với các sản phẩm DFS4.


Cơ quan giám sát, bảo vệ NTDTC cần có đủ kiến ​​thức về thị trường DFS, các công cụ và phương pháp quản lý, giám sát được điều chỉnh và phát triển phù hợp để hoạt động hiệu quả trong môi trường kỹ thuật số5; có các nguồn lực phù hợp và khả năng giải quyết các vấn đề công nghệ mới một cách hiệu quả; cung cấp tư vấn hoặc hướng dẫn6 mang lại lợi ích cho NTDTC, tiến tới có một hướng dẫn chung cho tất cả những người tham gia thị trường; các cơ quan giám sát từ các khu vực pháp lý khác nhau cần hợp tác để đảm bảo rằng NTDTC được bảo vệ trong các giao dịch xuyên biên giới.

Minh bạch và tiết lộ thông tin: Đảm bảo rằng các tổ chức có chức năng và trách nhiệm cung cấp cho NTDTC thông tin quan trọng về các lợi ích, rủi ro và điều khoản cơ bản của một DFS cụ thể, bao gồm các khoản phí, lệ phí hiện hành và tiền hoa hồng. Tất cả các tài liệu quảng cáo phải công bằng, hợp lý và không gây hiểu lầm. Thúc đẩy tính minh bạch và tạo điều kiện cho NTDTC so sánh giữa các dịch vụ thanh toán điện tử khác nhau được cung cấp cần phải là một ưu tiên chính sách. Các tiêu chuẩn thích hợp và chính xác để tiết lộ thông tin, phí và lệ phí phải được đảm bảo. Tăng cường và khuyến khích các hình thức sáng tạo/kỹ thuật số như tiết lộ dựa trên web tương tác, các ứng dụng, video, trò chơi...

Về hành vi của các chủ thể cung cấp dịch vụ: Thứ nhất, đảm bảo rằng các tổ chức cung cấp DFS phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin, kiến thức về các hành vi gian lận cho khách hàng nhằm giúp khách hàng có cơ chế tự bảo vệ và duy trì sự tin tưởng vào sự an toàn của DFS. Thứ hai, ngăn chặn gian lận kỹ thuật số thông qua việc thực hiện các kiểm soát công nghệ thông tin định kỳ trên các sản phẩm và dịch vụ như máy ATM, dịch vụ tài chính trực tuyến và di động, thiết bị điểm bán hàng (POS) và thẻ thanh toán điện tử... Thứ ba, yêu cầu các nhà cung cấp DFS phải có các biện pháp kiểm soát nội bộ mạnh mẽ để ngăn chặn hoặc phát hiện bất thường và chịu toàn bộ giá trị bị mất được lưu trữ trong tài khoản người dùng mà không phải do lỗi của người dùng. Thứ tư, tăng cường quy định để buộc các tổ chức tài chính phải chịu trách nhiệm về việc bán sai, đặc biệt là trong lĩnh vực bảo hiểm. Thứ năm, yêu cầu các chủ thể cung ứng DFS phải xây dựng và thực thi cơ chế bảo vệ khách hàng thực chất và hiệu quả. Ví dụ, trong lĩnh vực tiền điện tử, tổ chức phát hành phải có cơ chế bảo vệ dự phòng phù hợp để đảm bảo khả năng phải mua lại các sản phẩm này, tách các khoản tiền do người dùng ứng trước cho dịch vụ tiền điện tử (float acount) với vốn lưu động hoặc tài khoản đầu tư của các nhà cung cấp dịch vụ tiền điện tử nhằm bảo vệ tài sản tài chính của khách hàng trong trường hợp các nhà cung cấp tiền điện tử mất khả năng thanh toán.

4. Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việt Nam, với dân số đông và trẻ cùng với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế và công nghệ đã dẫn đến sự bùng nổ trong nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ tài chính, đặc biệt là các sản phẩm DFS. Điều này dẫn tới yêu cầu tăng cường và hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền lợi NTDTC trở nên cấp thiết. Tuy nhiên, việc bảo vệ NTDTC, đặc biệt là NTDTC các sản phẩm DFS chưa thực sự hiệu quả. Để tăng cường việc bảo vệ người tiêu dùng tài chính trong kỷ nguyên kỹ thuật số, từ kinh nghiệm quốc tế và thực trạng hiện nay, tác giả xin có một số khuyến nghị đối với Việt Nam:

Về khuôn khổ pháp lý: Trong ngắn và trung hạn, cần chú ý các vấn đề liên quan đến DFS quy định rõ các tiêu chuẩn sản phẩm, dịch vụ tài chính, nghĩa vụ của các chủ thể cung cấp sản phẩm dịch vụ tài chính cho thị trường như vấn đề công bố và minh bạch thông tin, thông lệ kinh doanh; xử lý và duy trì tài khoản của khách hàng; bảo mật thông tin và dữ liệu cá nhân của khách hàng; quy trình và cơ chế giải quyết tranh chấp… hướng theo tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Các lỗ hổng quy định pháp lý của hoạt động fintech như cho vay ngang hàng, gọi vốn cộng đồng, tiền kỹ thuật số, thanh toán không dùng tiền mặt, chia sẻ và bảo mật thông tin cần nhanh chóng được xử lý. Trong dài hạn, cần ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật riêng về bảo vệ NTDTC.

Về các thiết chế bảo vệ NTDTC: Trong trung và dài hạn, nên hình thành một cơ quan chuyên trách, có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng và đủ nguồn lực và quyền hạn, đặc biệt là về nhân lực, công nghệ, kiến thức về DFS, công nghệ giám sát kỹ thuật số để bảo vệ hiệu quả NTDTC trong kỷ nguyên kỹ thuật số, cân bằng được mục tiêu khuyến khích và hỗ trợ đổi mới công nghệ tài chính với mục tiêu bảo vệ NTDTC. Trước mắt, trong khi chưa có một cơ quan chuyên trách về bảo vệ NTDTC, cần sớm: (i) Tăng cường quyền hạn và giao trách nhiệm cụ thể cho các cơ quan quản lý và thanh tra giám sát chuyên ngành tài chính để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ NTDTC hiệu quả hơn; (ii) Tăng cường năng lực của cơ quan có thẩm quyền, các tổ chức xã hội liên quan đến bảo vệ NTDTC; (iii) Xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động chặt chẽ và hiệu quả hơn giữa các cơ quan trong mạng an toàn tài chính về nhiệm vụ bảo vệ NTDTC, đặc biệt là vai trò của các cơ quan có điều phối giám sát chung thị trường tài chính như Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia.

Hoàn thiện cơ chế giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo: Trong thời đại kỹ thuật số, các khiếu nại, tranh chấp trở nên phức tạp, khó xử lý hơn do các chủ thể tham gia thị trường đa dạng, khó quản lý, các giao dịch nhiều bên, không giới hạn về thời gian và không gian. Do vậy, các quy định và thiết chế giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo truyền thống cần phải được điều chỉnh bên cạnh việc đưa ra các phương thức xử lý mới. Khung quy định về trình tự thủ tục khiếu kiện của NTDTC cần đơn giản hóa và tăng cường vai trò trách nhiệm của chủ thể cung cấp sản phẩm, dịch vụ tài chính.

Nâng cao hiểu biết cho người tiêu dùng dịch vụ tài chính: Xây dựng một chương trình, chiến lược tổng thể, dài hạn về giáo dục và tăng cường hiểu biết tài chính. Đa dạng hóa hình thức và các kênh giáo dục tuyên truyền, phổ biến, đặc biệt là các hình thức và phương tiện kỹ thuật số để nâng cao hiểu biết tài chính cho NTDTC, qua đó giúp họ tự tin hòa nhập tài chính, đưa ra được quyết định tài chính đúng đắn, phù hợp với nhu cầu, khả năng và tối đa hóa lợi ích. Tăng cường giáo dục và tuyên truyền về các hành vi vi phạm, các cơ chế xử lý để giáo dục và răn đe hành vi trái pháp luật và đạo đức kinh doanh của các chủ thể cung cấp dịch vụ, giúp NTDTC tự mình hoặc sử dụng hiệu quả các cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.


1Xem: https://vietnam.vn/kinh-te/thuc-tien-va-de-xuat-chinh-sach-doi-voi-viet-nam-trong-linh-vuc-bao-ve-nguoi-tieu-dung-tai-chinh-20210814060049641.html

2Các nguyên tắc này bao gồm việc cần tăng cường và củng cố: (1) Khung pháp lý, quy định và giám sát làm cơ sở cho việc bảo vệ NTDTC. ; (2) Vai trò của các cơ quan giám sát (tức là các cơ quan công quyền có nhiệm vụ bảo vệ người tiêu dùng tài chính). ); (3) Đối xử bình đẳng và công bằng với người tiêu dùng. ; (4) Công khai và minh bạch thông tin. ; (5) Giáo dục và nâng cao nhận thức về tài chính. ; (6) Hoạt động kinh doanh có trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ tài chính và các đại lý được ủy quyền. ; (7) Bảo vệ tài sản của NTDTC chống lại gian lận và lạm dụng. ; (8) Bảo vệ dữ liệu NTDTC và quyền riêng tư. ; (9) Xử lý bồi thường và giải quyết khiếu nại. ; (10) Cạnh tranh lành mạnh.

3Nguyên tắc tài chính kỹ thuật số toàn diện (DFI) của OECD thừa nhận sự cần thiết phải tích cực cân bằng giữa đổi mới kỹ thuật số với những rủi ro mới của công nghệ.

4Ngân hàng Bồ Đào Nha gần đây đã đưa ra những thay đổi đối với khuôn khổ quy định hiện hành để tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở tài khoản tiền gửi ngân hàng qua các kênh kỹ thuật số (điện thoại di động trực tuyến).

5Cùng với Ngân hàng Trung ương Anh và những người tham gia thị trường, Cơ quan Quản lý tTài chính Vương quốc Anh gần đây đã phát triển “khái niệm bằng chứng” để làm cho một yêu cầu báo cáo quy định có thể dùng thiết bị máy móc đọc được và xử lý được.

6Cơ quan quản lý tài chính của Vương quốc Anh điều hành đơn vị tư vấn, cung cấp phản hồi theo quy định, bao gồm hướng dẫn cá nhân, người chỉ đạo không chính thức và đăng ký các quy tắc/hướng dẫn hiện có cho các công ty đang phát triển các mô hình tự động tư vấn tài chính chi phí thấp hơn cho NTDTC.

Tài liệu tham khảo

1. OECD (2019), Task Force on Financial Consumer Protection: Effective Approaches for Financial Consumer Protection in the Digital Age.

2. OECD (2018), G20/OECD Policy Guidance on Financial Consumer Protection Approaches in the Digital Age.

3. World Bank (2017), Good practices for Financial Consumer Protection, The World Bank Group, 1818 H Street NW, Washington, DC 20433, USA.

4. World Bank (2018), Global Financial Inclusion and Consumer Protection Survey 2017, The World Bank Group, 1818 H Street NW, Washington, DC 20433, USA.

5. World bank (2020), truy cập tại: https://responsiblefinance.worldbank.org/en/responsible-finance/financial-consumer- protection.

6. G20/OECD INFE REPORT 2017: Ensuring financial education and consumer protection for all in the digital age.


Chu Minh Khôi

Hà Nội


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Bài viết phân tích những thách thức lớn đối với ổn định của hệ thống tài chính quốc tế trong bối cảnh bất ổn toàn cầu gia tăng, bao gồm bất định kinh tế vĩ mô, định giá tài sản cao, đòn bẩy tài chính và sự phát triển nhanh của khu vực phi ngân hàng. Các rủi ro mang tính hệ thống có thể làm khuếch đại cú sốc thị trường và lan truyền toàn cầu. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị chính sách như tăng cường quản trị rủi ro, kiểm soát đòn bẩy, mở rộng giám sát và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tài chính.
Xem thêm
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng