Đánh giá sức khỏe tài chính các ngân hàng Việt Nam theo phương pháp phân tích cụm

Nghiên cứu - Trao đổi
Sức khỏe tài chính của các ngân hàng rất quan trọng đối với nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 xảy ra do sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng.
aa

Tóm tắt: Nghiên cứu này sử dụng phương pháp phân tích thành phần chính (Principal Component Analysis - PCA) và phân tích cụm (Cluster Analysis) để đánh giá sức khỏe tài chính của 29 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) tại Việt Nam trong giai đoạn 2007 - 2023. Kết quả phân tích cho thấy, từ năm 2007, hệ thống ngân hàng Việt Nam chia thành 3 nhóm tương ứng với mức độ lành mạnh từ cao đến thấp. Trong đó, nhóm 1 có độ lành mạnh tài chính cao nhất, xét cả giai đoạn 2017 - 2023, có 3 ngân hàng góp mặt trong nhóm 1. Nhóm 2 có số lượng các ngân hàng góp mặt nhiều nhất, chủ yếu là các ngân hàng thuộc nhóm có tầm quan trọng trong hệ thống (SIB). Nếu tính cả giai đoạn 2007 - 2023, có đến 14 ngân hàng góp mặt trong nhóm này, chiếm khoảng 48%. Cuối cùng, trong giai đoạn 2007 - 2023 có 12 ngân hàng trong nhóm 3, chiếm khoảng 41% cho cả giai đoạn. Từ kết quả nghiên cứu, bài viết đề xuất một số khuyến nghị chính sách đến các cơ quan quản lý và giám sát hệ thống ngân hàng.

Từ khóa: Sức khỏe tài chính, phân tích cụm, NHTM.

ASSESSING THE FINANCIAL SOUNDNESS OF VIETNAMESE COMMERCIAL BANKS
USING THE CLUSTER ANALYSIS METHOD


Abstract: This study employs principal component analysis method and cluster analysis method to assess the financial soundness of 29 joint-stock commercial banks in Vietnam during the 2007 - 2023 period. The analysis results indicate that since 2007, the Vietnamese banking system has been pided into three groups, corresponding to the levels of financial soundness from highest to lowest. Group 1 consists of banks with the highest financial soundness, however, over the entire period, only 3 banks consistently remained in group 1. Group 2, which includes the majority of banks considered important in the system, had the most members. Over the 2007 - 2023 period, 14 banks were included in this group, accounting for approximately 48%. Lastly, 12 banks were placed in group 3 during the 2007 - 2023 period, representing about 41% of the total. Based on the study’s findings, the authors propose several policy recommendations for regulatory and supervisory authorities in the banking system.

Keywords: Financial soundness, cluster analysis, commercial bank.

1. Giới thiệu

Sức khỏe tài chính của các ngân hàng rất quan trọng đối với nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 xảy ra do sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng. Theo Afroj (2022); Cihak (2007); Salina và cộng sự (2021), sự lành mạnh tài chính của một ngân hàng là một điều kiện khi các chỉ số tài chính như an toàn vốn, chất lượng tài sản, thanh khoản và hiệu quả của ngân hàng nằm trong một giới hạn nhất định để bảo đảm ngân hàng có thể tồn tại khi gặp phải các cú sốc tiêu cực. Không bảo đảm được những tiêu chuẩn này sẽ chuyển một ngân hàng từ trạng thái lành mạnh sang trạng thái không lành mạnh. Các chỉ số tài chính này thay đổi liên tục do ảnh hưởng của những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và tài chính của mỗi quốc gia. Do đó, việc đánh giá sức khỏe tài chính của các ngân hàng là rất quan trọng đối với từng quốc gia.

Nghiên cứu về mức độ lành mạnh tài chính của các ngân hàng: (1) Cấp độ vĩ mô rất đa dạng, có Gaganis và cộng sự (2006); Ioannidis và cộng sự (2010); Fernandez Arias và cộng sự (2018); Bitetto và cộng sự (2023); (2) Ở cấp độ vi mô có Rahman (2017); Mittal và Mittal (2017); Ouma và Kirori (2019); Seyedi và Abdoli (2019); Suresh và cộng sự (2019); Afroj (2022). Các nghiên cứu sử dụng mẫu của nhiều quốc gia có thể cung cấp một số chuẩn mực quốc tế về tình hình tài chính của các ngân hàng, nhưng nghiên cứu này chưa cho thấy những khác biệt quan trọng giữa các ngân hàng ở từng quốc gia do có sự khác biệt về mức độ phát triển tài chính của các quốc gia khác nhau trong mẫu nghiên cứu. Do đó, các nghiên cứu sử dụng mẫu nhiều quốc gia có thể không cung cấp đầy đủ thông tin hữu ích cho các cơ quan giám sát và quản lý về tình hình sức khỏe tài chính của ngân hàng ở quốc gia mình. Do đó, nghiên cứu này đánh giá mức độ lành mạnh tài chính của các ngân hàng Việt Nam bằng cách kết hợp phân tích thành phần chính và phân tích cụm.

Trong 5 năm gần đây, đại dịch Covid-19; tình hình khó khăn của kinh tế thế giới và trong nước đã ảnh hưởng đến chất lượng tài sản của các ngân hàng Việt Nam, thể hiện qua sự gia tăng của tỉ lệ nợ xấu nội bảng từ mức 1,6% trong năm 2019 lên mức 4,55% trong năm 2023. Đến hết quý 2/2024, nợ xấu của hệ thống ngân hàng tăng 5,77% so với cuối năm 2023 với tỉ lệ nợ xấu nội bảng là 4,56%. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp kết hợp giữa phân tích thành phần chính và phân tích cụm để đánh giá sức khỏe tài chính của các ngân hàng tại Việt Nam. Phương pháp này có thể cung cấp một số tín hiệu cảnh báo sớm cho các cơ quan giám sát và quản lý để dự báo mức độ lành mạnh của ngân hàng.

2. Tổng quan các nghiên cứu đánh giá sức khỏe tài chính của ngân hàng

Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng của các quốc gia (Demirguc-Kunt và cộng sự, 2011; Fulford, 2015). Do vậy, sức khỏe tài chính của ngân hàng thu hút sự quan tâm của các cơ quan quản lý và nhà nghiên cứu. Sức khỏe tài chính của các ngân hàng thường đo lường thông qua một số nhóm chỉ tiêu chính như tỉ lệ sinh lời, chất lượng tài sản, tỉ lệ thanh khoản, tỉ lệ chi phí và nhiều chỉ số tài chính khác (Hanif và cộng sự, 2012; Harahap, 2018). Trong đó, các nhóm chỉ tiêu theo khung CAMELS là một công cụ hiệu quả để đánh giá sức khỏe tài chính và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng (Mohammed và cộng sự, 2015; Rafiq, 2016; Pekkaya và Demir, 2018; Todorović và cộng sự, 2018). Cụ thể, Jaffar và Manarvi (2011) so sánh hiệu quả hoạt động của các ngân hàng hồi giáo và ngân hàng thông thường bằng cách sử dụng khung CAMELS và họ nhận thấy rằng, các ngân hàng hồi giáo có thanh khoản tốt hơn trong khi các ngân hàng truyền thống có hoạt động quản lý hiệu quả hơn. Tương tự, Sun và cộng sự (2017) cho thấy mức độ an toàn vốn và hiệu quả quản lý có tác động đáng kể đến tình hình hoạt động của các ngân hàng. Gần đây, Nguyễn và cộng sự (2020) trong nghiên cứu về hiệu quả hoạt động của các ngân hàng tại Việt Nam nhận thấy rằng, hiệu quả hoạt động của tất cả ngân hàng đều bị ảnh hưởng đáng kể bởi các thành phần CAMELS ngoại trừ khả năng sinh lời. Ping và Kusairi (2020) đã đo lường hiệu quả hoạt động của ngân hàng bằng tỉ suất sinh lời trên tài sản và sau đó sử dụng các thành phần CAMELS làm yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động. Họ cũng cho thấy an toàn vốn và khả năng sinh lời có tác động tích cực, trong khi các yếu tố còn lại có tác động tiêu cực đến kết quả hoạt động ngân hàng.

Ngoài ra, các chỉ tiêu CAMELS còn được sử dụng để đánh giá sức khỏe tài chính ngân hàng thông qua chỉ số lành mạnh tài chính tổng hợp. Cụ thể, Öğüt và cộng sự (2012); Mashhadi và cộng sự (2022) đã tính toán chỉ số tổng hợp CAMELS để đánh giá mức độ lành mạnh tài chính của các ngân hàng. Afroj (2022) sử dụng các chỉ tiêu của khung CAMEL để đo lường chỉ số lành mạnh tài chính tổng hợp của các ngân hàng ở Bangladesh và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ số này.

Để tính chỉ số lành mạnh tài chính tổng hợp của ngân hàng, nhiều nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích nhân tố. Phân tích nhân tố có thể được sử dụng để hiểu rõ hơn về cấu trúc của các chỉ số CAMELS (Dash, 2021). Phân tích thành phần chính là phép trích được sử dụng phổ biến trong phân tích nhân tố. Phân tích thành phần chính được sử dụng để tóm tắt thông tin từ nhiều biến số bằng cách chuyển đổi chúng thành một tập hợp các thành phần chính không tương quan với nhau (Jolliffe, 2002). Yildirim (2021) đã áp dụng phương pháp phân tích thành phần chính trên số liệu đã được chuẩn hóa để đo lường sự lành mạnh tài chính của các ngân hàng. Phân tích thành phần chính cũng được Bitetto và cộng sự (2023) sử dụng để phân tích chỉ số lành mạnh tài chính tổng hợp của các định chế tài chính ở cấp độ quốc gia từ dữ liệu 17 chỉ số lành mạnh tài chính quốc gia của IMF.

Ngoài việc sử dụng phương pháp phân tích thành phần chính để tính các chỉ số lành mạnh tài chính tổng hợp, phương pháp phân tích cụm cũng được áp dụng để đánh giá sự lành mạnh của ngân hàng (Ioannidis và cộng sự, 2010). Theo Salina và cộng sự (2021), phân tích cụm thường được sử dụng khi dữ liệu là dạng ma trận gần nhau hoặc khoảng cách giữa các đối tượng hoặc điểm dữ liệu nằm trong không gian đa chiều. Salina (2017) cũng cho rằng, sử dụng phương pháp phân tích cụm để đánh giá mức độ lành mạnh của ngân hàng mang lại hiệu quả cao, ngay cả khi số mẫu nhỏ, không đạt phân phối chuẩn hay các phương pháp phân tích khác không xử lý được. Kết quả nghiên cứu của Cecchetti và cộng sự (2009) cũng nhận định, phương pháp phân tích cụm sẽ phân loại các ngân hàng có đặc điểm tương đồng nhau thành các cụm riêng biệt bằng cách làm tăng sự khác biệt giữa các cụm và giảm sự khác biệt trong cụm. Một số nghiên cứu khác cũng sử dụng phân tích cụm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Cụ thể, Dao và Khanh (2014), Penikas và cộng sự (2011), Shuai và cộng sự (2013) sử dụng phân tích cụm trong quản lý rủi ro. Trong khi đó, Zamini và Montazer (2018), Huang và cộng sự (2024) sử dụng phân tích cụm để phát hiện gian lận tài chính.

3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu

Dữ liệu của nghiên cứu này bao gồm 29 NHTMCP tại Việt Nam (gồm 3 NHTMCP có vốn nhà nước giữ cổ phần chi phối). Dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính đã kiểm toán hằng năm của các ngân hàng trong giai đoạn 2007 - 2023. Toàn bộ tập dữ liệu bao gồm 471 quan sát của 17 chỉ số tài chính được lựa chọn dựa trên các nghiên cứu có liên quan trước đây. Các chỉ số tài chính này phản ánh theo khung CAMELS với 6 nhóm chỉ tiêu gồm: (1) C - An toàn vốn; (2) A - Chất lượng tài sản; (3) M - Quản lý; (4) E - Sinh lời; (5) L - Thanh khoản; và (6) S - Độ nhạy với rủi ro thị trường (Bảng 1). Tuy nhiên, đối với chỉ tiêu độ nhạy với rủi ro thị trường, do hạn chế về mặt dữ liệu nên bài viết này sử dụng chỉ tiêu mức độ tập trung của tài sản và nguồn vốn của các ngân hàng làm chỉ tiêu thay thế.

Bảng 1: Các chỉ số đánh giá sức khỏe tài chính ngân hàng


Nguồn: Thu thập của nhóm tác giả

Trước khi thực hiện phân tích nhân tố khám phá (EFA), dữ liệu sẽ được chuẩn hóa theo phương pháp chuẩn hóa của Barron và Schmidt (1988) như sau:



Trong đó, là giá trị đã chuẩn hóa của biến i năm t; Max(Ii) là giá trị tối đa của biến i trong mỗi năm; Min(Ii) là giá trị tối thiểu của biến i trong mỗi năm. Giá trị sau chuẩn hóa sẽ dao động trong khoảng từ 0 đến 1.

Sau khi chuẩn hóa dữ liệu, nghiên cứu sử dụng phép trích thành phần chính thực hiện EFA nhằm xác định những chỉ số tài chính có ảnh hưởng đến sức khỏe tài chính của các ngân hàng. Sau đó, nghiên cứu còn sử dụng kỹ thuật phân tích cụm k-means để phân loại các ngân hàng theo 3 nhóm, gồm: Nhóm 1, nhóm 2 và nhóm 3 dựa trên điểm lành mạnh tài chính của mỗi ngân hàng trong từng năm và cho cả giai đoạn 2007 - 2023.

4. Kết quả nghiên cứu

4.1. Kết quả xếp hạng ngân hàng theo EFA

Kết quả tính toán ma trận xoay nhân tố cho thấy, nhân tố 1 chi phối 4 chỉ số (X15, X17, X16, X9), nhân tố 2 chi phối 4 chỉ số (X13, X3, X12, X14), nhân tố 3 chi phối 3 chỉ số (X7, X10, X11), nhân tố 4 chi phối 3 chỉ số (X2, X1, X8), và nhân tố 5 chi phối 3 chỉ số (X5, X4, X6). Các chỉ số được kết hợp thành 5 thành phần chính trình bày ở Bảng 2.

Bảng 2: Nhóm các chỉ số thành phần chính


Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả


Kết quả tính toán ma trận điểm nhân tố được thể hiện ở Bảng 3.

Bảng 3: Ma trận điểm nhân tố


Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

Từ kết quả trình bày ở Bảng 2 và 3, các f1, f2, f3, f4, và f5 được xác định như sau:

f1 = 0,054X1 + 0,113X2 – 0,018X3 + 0,057X4 + 0,028X5 – 0,017X6 + 0,155X7 + 0,010X8 + 0,078X9 – 0,028X10 – 0,041X11 + 0,005 X12 + 0,046X13 + 0,098X14 + 0,340X15 + 0,330X16 + 0,329X17.

f2 = 0,017X1 – 0,095X2 + 0,291X3 – 0,014X4 + 0,056X5 + 0,000X6 – 0,028X7 – 0,052X8 – 0,050X9 + 0,002X10 – 0,009X11 + 0,218X12 – 0,307X13 – 0,315X14 – 0,065X15 – 0,031X16 – 0,047X17.

f3 = – 0,053X1 – 0,079X2 – 0,037X3 + 0,126X4 – 0,051X5 – 0,023X6 + 0,074X7 + 0,329X8 – 0,071X9 + 0,328X10 + 0,368X11 + 0,016 X12 + 0,041X13 – 0,011X14 – 0,051X15 – 0,066X16 – 0,055X17.

f4 = 0,438X1 + 0,516X2 – 0,002X3 – 0,144X4 + 0,020X5 + 0,019X6 + 0,018X7 + 0,17X8 – 0,115X9 + 0,003X10 – 0,195X11 + 0,132X12 + 0,024X13 + 0,214X14 + 0,123X15 + 0,131X16 + 0,105X17.

f5 = 0,007X1 – 0,003X2 + 0,001X3 + 0,324X4 + 0,489X5 + 0,444X6 + 0,033X7 + 0,015X8 + 0,154X9 + 0,023X10 – 0,015X11 – 0,006X12 – 0,003X13 – 0,082X14 + 0,025X15 + 0,030X16 + 0,029X17.

Tiếp theo, lần lượt thay các giá trị X1 đến X17 vào công thức tính f1 đến f5, ta được giá trị f1 đến f5 của từng ngân hàng trong giai đoạn 2007 - 2023. Sau đó, tính F cho các ngân hàng theo từng năm bằng công thức:

F = d1f1 + d2f2 + d3f3 + d4f4 + d5f5.

Theo đó, ngân hàng có giá trị F càng cao thì mức độ lành mạnh tài chính càng lớn, với d là trọng số của từng f tương ứng hay bằng tỉ lệ đóng góp của từng nhân tố (d1 = 27,6%; d2 = 21,4%; d3 = 14,2%; d4 = 9,9%; d5 = 6,8%).

4.2. Phân loại sức khỏe tài chính các ngân hàng theo phân tích cụm

Sau khi tính toán điểm lành mạnh tài chính tổng hợp và xếp hạng các ngân hàng, nghiên cứu này sẽ tiến hành phân tích cụm từ điểm lành mạnh tài chính tổng hợp đã tính ở trên. Phân tích cụm trong trường hợp này sẽ phân loại các ngân hàng thành những nhóm riêng biệt tùy theo mức độ lành mạnh tài chính của họ. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp phân tích cụm k-means để xác định khoảng cách giữa các nhóm, được thực hiện cho từng năm cũng như cả giai đoạn 2007 - 2023.

Bảng 4: Giá trị trung vị của các nhóm ngân hàng


Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

Giá trị trung vị của các nhóm ngân hàng được xác định và trình bày trong Bảng 4. Giá trị trung vị này tương ứng với giới hạn của điểm lành mạnh tài chính của mỗi nhóm ngân hàng. Bảng 4 cho thấy giá trị trung vị của độ lành mạnh tài chính của các nhóm là khác nhau. Cụ thể, nhóm 1 (màu xanh) có giá trị trung vị cao nhất thể hiện các ngân hàng trong nhóm này có độ lành mạnh tài chính cao nhất, cả giai đoạn 2007 - 2023 thì có 3 ngân hàng góp mặt trong nhóm 1, và 3 ngân hàng này đều thuộc nhóm NHTMCP vốn nhà nước giữ cổ phần chi phối: NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (mã chứng khoán BID), NHTMCP Công thương Việt Nam (mã chứng khoán CTG) và NHTMCP Ngoại thương Việt Nam (mã chứng khoán VCB). Các ngân hàng khác được xếp vào nhóm 1 trong một số năm như NHTMCP Á Châu (mã chứng khoán ACB) (năm 2019, 2022, 2023), NHTMCP Kiên Long (mã chứng khoán KLB) (năm 2007), NHTMCP Quân đội (mã chứng khoán MBB) (năm 2023), NHTMCP Phương Đông (mã chứng khoán OCB) (năm 2013), NHTMCP Sài Gòn Công thương (mã chứng khoán SGB) (năm 2010, 2012 - 2017), NHTMCP Sài Gòn Thương Tín (mã chứng khoán STB) (năm 2013, 2014, 2021), NHTMCP Kỹ thương (mã chứng khoán TCB) (năm 2017, 2020, 2022, 2023). Đáng chú ý, NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng (mã chứng khoán VPB) là ngân hàng tư nhân trong nhóm ngân hàng có tầm quan trọng trong hệ thống duy nhất có mặt trong nhóm 1 trong khoảng thời gian khá dài từ 2016 - 2023.

Nhóm 2 (màu vàng) có giá trị trung vị thấp hơn nhóm 1, tuy vậy, số lượng các ngân hàng góp mặt trong nhóm này là nhiều nhất, chủ yếu là các ngân hàng có tầm quan trọng trong hệ thống. Nếu tính cả giai đoạn 2007 - 2023, có đến 14 ngân hàng góp mặt trong nhóm này, chiếm khoảng 48%. Cuối cùng, có 12 ngân hàng trong nhóm 3, chiếm khoảng 41% trong cả giai đoạn 2007 - 2023. (Bảng 5)

Bảng 5: Kết quả phân cụm ngân hàng dựa trên điểm lành mạnh tài chính



Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả


5. Kết luận và khuyến nghị chính sách

Bài nghiên cứu này sử dụng phương pháp phân tích thành phần chính và phân tích cụm để đánh giá sức khỏe tài chính của 29 NHTMCP tại Việt Nam trong giai đoạn 2007 - 2023. Kết quả phân tích cho thấy, từ năm 2007, hệ thống ngân hàng Việt Nam chia thành 3 nhóm tương ứng với mức độ lành mạnh từ cao nhất đến thấp nhất. Trong đó, nhóm 1 có độ lành mạnh tài chính cao nhất. Nhóm 2 có số lượng các ngân hàng góp mặt là nhiều nhất, có đến 14 ngân hàng góp mặt, chiếm khoảng 48%. Cuối cùng, trong giai đoạn 2007 - 2023 có 12 ngân hàng trong nhóm 3, chiếm khoảng 41% cho cả giai đoạn.

Dựa trên kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách sau:

(i) Về phía các cơ quan quản lý

Một là, cơ quan quản lý có thể sử dụng phân tích cụm như một công cụ hỗ trợ giám sát hệ thống ngân hàng.

Hai là, tăng cường giám sát và có những biện pháp hỗ trợ, can thiệp kịp thời đối với những ngân hàng liên tục xuất hiện trong nhóm 3.

Ba là, các ngân hàng cần minh bạch, công bố thông tin tài chính theo định kỳ và đặc biệt là các chỉ số về lành mạnh tài chính để các nhà đầu tư và công chúng có thêm hiểu biết và đánh giá chính xác hơn về mức độ lành mạnh tài chính của từng ngân hàng.

(ii) Về phía ban lãnh đạo ngân hàng

Thứ nhất, ban lãnh đạo ngân hàng nên tiếp tục cải tiến hệ thống đánh giá nội bộ, các kỹ thuật hiện đại như học máy để dự báo mức độ lành mạnh tài chính trong tương lai, từ đó, có những biện pháp và hành động phù hợp.

Thứ hai, chú ý các chỉ số có tỉ trọng cao trong phương pháp phân tích thành phần chính cho thấy, các yếu tố như tổng tài sản, dư nợ cho vay, tổng tiền gửi, chi phí lãi, tài sản thanh khoản cao là những biến số quan trọng trong việc đánh giá sức khỏe tài chính của ngân hàng và cần được kiểm soát tốt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Afroj, F. (2022). Financial strength of banking sector in Bangladesh: a CAMEL framework analysis. Asian Journal of Economics and Banking, 6(3), pages 353-372.

2. Barron, H., & Schmidt, C. P. (1988). Sensitivity analysis of additive multiattribute value models. Operations Research, 36(1), pages 122-127.

3. Bitetto, A., Cerchiello, P., & Mertzanis, C. (2023). Measuring financial soundness around the world: A machine learning approach. International Review of Financial Analysis, page 85, 102451.

4. Cecchetti, S. G., Kohler, M., & Upper, C. (2009). Financial crises and economic activity (No. w15379). National Bureau of Economic Research.

5. Cihak, M. (2007). Systemic loss: a measure of financial stability. Czech Journal of Economics and Finance, Vol. 57 Nos 1-2, pages 5-26.

6. Dao, B., & Khanh, P. (2014). Cluster analysis of Vietnamese banks. Available at SSRN 2543094.

7. Dash, M. (2021). Dimensionality of the CAMELS Model-A Case Study of Indian Banks. International Journal of Banking, Risk & Insurance, 9(2).

8. Demirguc-Kunt, A., Feyen, E., & Levine, R. (2011). Optimal Financial Structures and Development: The evolving importance of banks and markets. World Bank, mimeo.

9. Fernandez-Arias, D., Lopez-Martın, M., Montero-Romero, T., Martınez-Estudillo, F. and Fernandez-Navarro, F. (2018). Financial soundness prediction using a multi-classification model: evidence from current financial crisis in OECD banks. Computational Economics, Vol. 52 No. 1, pages 275-297.

10. Fulford, S. L. (2015). How important are banks for development? National banks in the United States, 1870-1900. Review of Economics and Statistics, 97(5), pages 921-938.

11. Gaganis, C., Pasiouras, F. and Zopounidis, C. (2006). A multicriteria decision framework for measuring banks’ soundness around the world. Journal of Multi-Criteria Decision Analysis, Vol. 14 Nos 1-3, pages 103-111.

12. Hanif, M., Tariq, M., & Tahir, A. (2012). Comparative performance study of conventional and Islamic banking in Pakistan. International Research Journal of Finance & Economics, (83).

13. Harahap, I. M. (2018). Impact of bank performance on profitability. Scholars Journal of Economics, Business and Management, 5(8), pages 727-733.

14. Huang, Z., Zheng, H., Li, C., & Che, C. (2024). Application of machine learning-based k-means clustering for financial fraud detection. Academic Journal of Science and Technology, 10(1), pages 33-39.

15. Ioannidis, C., Pasiouras, F., & Zopounidis, C. (2010). Assessing bank soundness with classification techniques. Omega, 38(5), pages 345-357.

16. Jaffar, M., & Manarvi, I. (2011). Performance comparison of Islamic and Conventional banks in Pakistan. Global journal of management and business research, 11(1), pages 61-66.

17. Jolliffe, I. T. (2002). Principal Component Analysis (Springer Series in Statistics), Springer.

18. Mashhadi, R., Ghaffari, F., Hosseini, S. S., & Peykarjou, K. (2022). The Impact of “CAMEL Composite Index” on Income Diversification: A Case Study of the Iranian Banking System. Journal of Money and Economy, 17(2), pages 161-182.

19. Mittal, S. and Mittal, M. (2017). Assessment of financial soundness of private and public sector banks in India. Research Review International Journal of Multidisciplinary, Vol. 2 No. 9, pages

72-75.

20. Mohammed, H. K., Wetere, Y. M., & Bekelecha, M. S. (2015). Soundness of Ethiopian banks. International Journal of Finance & Banking Studies (2147-4486), 4(2), pages 29-37.

21. Nguyen, A. H., Nguyen, H. T., & Pham, H. T. (2020). Applying the CAMEL model to assess performance of commercial banks: empirical evidence from Vietnam. Banks and Bank Systems, 15(2), pages 177-186.

22. Öğüt, H., Doğanay, M. M., Ceylan, N. B., & Aktaş, R. (2012). Prediction of bank financial strength ratings: The case of Turkey. Economic Modelling, 29(3), pages 632-640.

23. Ouma, M.O. and Kirori, G.N. (2019). Evaluating the financial soundness of small and medium-sized commercial banks in Kenya: an application of the bankometer model. International Journal of Economics and Finance, Vol. 11 No. 6, pages 1-93.

24. Pekkaya, M., & Demir, F. E. (2018). Determining the priorities of CAMELS dimensions based on bank performance. Global approaches in financial economics, banking, and finance, pages 445-463.

25. Penikas, H., Andrievskaya, I., Connolly, R., & Aivazian, S. (2011). Modeling risk patterns of Russian systemically important financial institutions. Review of Applied Socio-Economic Research, 1(1), pages 70-80.

26. Ping, K. G., & Kusairi, S. (2020). Analysis of CAMEL components and commercial bank performance: panel data analysis. Jurnal Organisasi Dan Manajemen, 16(1), pages 1-10.

27. Rafiq, M. R. I. (2016). Determining Bank performance using CAMEL rating: A comparative study on selected Islamic and Conventional Banks in Bangladesh. Asian Business Review, 6(3), pages 151-160.

28. Rahman, Z. (2017). Financial soundness evaluation of selected commercial banks in Bangladesh: an application of bankometer model. Research Journal of Finance and Accounting. Vol. 8 No. 2, pages 63-70.

29. Salina, A. P. (2017). Financial soundness of Kazakhstan banks: analysis and prediction (Doctoral dissertation).

30. Salina, A. P., Zhang, X., & Hassan, O. A. (2021). An assessment of the financial soundness of the Kazakh banks. Asian journal of accounting research, 6(1), pages 23-37.

31. Seyedi, S.A. and Abdoli, M.R. (2019). Modeling and rating financial soundness indicators of commercial banks using confirmatory factor analysis and TOPSIS method. Iranian Journal of Finance, Vol. 3 No. 3, pages 107-136.

32. Shuai, L., Lai, H., Xu, C., & Zhou, Z. (2013). The discrimination method and empirical research of inpidual credit risk based on bilateral clustering.

33. Sun, P. H., Mohamad, S., & Ariff, M. (2017). Determinants driving bank performance: A comparison of two types of banks in the OIC. Pacific-Basin Finance Journal, 42, pages 193-203.

34. Suresh, N., Ligori, A., Khan, S. and Khan, S.A. (2019). Comparative financial performance and financial soundness of banks in Bhutan: application of Dupont and bankometer models. International Journal of Psychosocial Rehabilitation, Vol. 23 No. 1, pages 441-448.

35. Todorović, V., Furtula, S., & Durkalić, D. (2018). Measuring performance of the Serbian Banking sector using CAMELS model. Teme, pages 961-977.

36. Yıldırım, F. (2021). Banking Soundness Index for Turkey: The Principal Component Analysis Approach. Ekonomi Politika ve Finans Araştırmaları Dergisi, 6(3), pages 845-861.


Trần Hùng Sơn, Hồ Hữu Tín, Trần Thị Út Linh
Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tiết kiệm, chống lãng phí - nhìn từ góc độ thể chế

Tiết kiệm, chống lãng phí - nhìn từ góc độ thể chế

Trong bài viết “Chống lãng phí”, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: Trước yêu cầu tăng cường nguồn lực, khơi dậy sức dân đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác phòng, chống lãng phí đang đứng trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới rất khẩn trương, cấp bách...
Điều hành tỉ giá hối đoái tại Việt Nam - Thách thức và giải pháp

Điều hành tỉ giá hối đoái tại Việt Nam - Thách thức và giải pháp

Điều hành tỉ giá hối đoái tại Việt Nam là hoạt động quan trọng nhằm bảo đảm sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa và những biến động từ các yếu tố bên ngoài như giá dầu, chính sách tiền tệ của các nước lớn, cũng như tác động của các cuộc khủng hoảng tài chính, việc điều hành tỉ giá đang phải đối mặt với nhiều thách thức...
Kinh nghiệm huy động tiền gửi từ khách hàng cá nhân của một số ngân hàng thương mại trên thế giới và bài học đối với Việt Nam

Kinh nghiệm huy động tiền gửi từ khách hàng cá nhân của một số ngân hàng thương mại trên thế giới và bài học đối với Việt Nam

Trong những năm gần đây, hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam đã huy động được khối lượng vốn lớn cho sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển kinh tế. Tuy nhiên, để tạo được những bước chuyển mới cho nền kinh tế, hoạt động huy động tiền gửi của một số ngân hàng này đang đứng trước những thách thức mới, đòi hỏi nhà quản trị ngân hàng phải thực sự quan tâm và chú ý để nâng cao hiệu quả huy động tiền gửi từ khách hàng cá nhân...
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế bảo đảm quyền con người

Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế bảo đảm quyền con người

Trong giai đoạn hiện tại, không một quốc gia nào có thể bỏ qua vấn đề nhân quyền mà có thể thiết lập quan hệ tốt đẹp với nước khác và không gặp phải sự phản kháng của nhân dân.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dẫn dắt, soi sáng cho công tác xây dựng Đảng

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dẫn dắt, soi sáng cho công tác xây dựng Đảng

55 năm đã trôi qua, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị và tầm vóc thời đại. Di chúc của Người luôn là những chỉ dẫn quý báu, động lực tinh thần giúp toàn Đảng, toàn Dân vượt qua khó khăn, tận dụng thời cơ, vững bước trên con đường phát triển.
Nhận diện tín hiệu căng thẳng tài chính

Nhận diện tín hiệu căng thẳng tài chính

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hiện nay, những biến động bất ngờ trong môi trường kinh doanh, cùng với sự thay đổi liên tục về chính sách và thị trường tài chính, đã làm tăng tính phức tạp trong việc dự đoán rủi ro tài chính...
Kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025

Kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025

Năm 2024 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025.
Nhân tố ảnh hưởng đến ý định áp dụng tài chính xanh tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến ý định áp dụng tài chính xanh tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Tài chính xanh là công cụ giúp các quốc gia không chỉ đạt được mục tiêu kinh tế mà còn bảo vệ môi trường, thực hiện trách nhiệm xã hội hướng đến phát triển bền vững.
Xem thêm
Nhận thế chấp dự án và nhà ở hình thành trong tương lai từ chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại theo quy định mới

Nhận thế chấp dự án và nhà ở hình thành trong tương lai từ chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại theo quy định mới

Mục đích thế chấp theo Luật Nhà ở năm 2023 là để vay vốn đầu tư chính dự án nhà ở thương mại hoặc xây dựng nhà ở thuộc dự án nhà ở thương mại và bên nhận thế chấp chỉ có thể là tổ chức tín dụng tài trợ cho dự án hoặc tài trợ cho việc xây dựng nhà ở thuộc dự án.
Khơi thông dòng vốn tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô

Khơi thông dòng vốn tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) sẽ quyết tâm triển khai các giải pháp đã đề ra, đồng hành cùng hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) tháo gỡ những khó khăn để có thể bảo đảm cung ứng đầy đủ vốn tín dụng ngân hàng phục vụ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng trong nền kinh tế, hướng tới việc thực hiện những mục tiêu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, đóng góp công sức vào công cuộc chuyển mình, cất cánh của dân tộc Việt Nam.
Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long dự Diễn đàn "Kinh doanh và Pháp luật" năm 2025

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long dự Diễn đàn "Kinh doanh và Pháp luật" năm 2025

Ngày 09 10, tại Hà Nội, Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Trung ương đã tổ chức Diễn đàn Kinh doanh và Pháp luật năm 2025 với chủ đề Chung tay giải quyết các vấn đề pháp lý, góp phần tạo dựng môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp”.
Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Tín dụng xanh là một công cụ tài chính được thiết kế để hỗ trợ các dự án và hoạt động có lợi cho môi trường. Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp là quá trình mà các công ty áp dụng những phương pháp và chiến lược bền vững nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

Những tháng cuối năm, doanh nghiệp tập trung tăng cường sản xuất, kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng nên nhu cầu tín dụng cũng sẽ tăng theo.
Năm nguyên tắc cơ bản về truyền tải thông điệp chính sách của ngân hàng trung ương

Năm nguyên tắc cơ bản về truyền tải thông điệp chính sách của ngân hàng trung ương

Thông điệp truyền thông chính sách có tác động rất lớn đến cảm xúc, nhận thức của người tiếp nhận truyền thông, dẫn đến những thay đổi đáng kể trong hành vi, thói quen và đặc biệt là cách thức tương tác với nhau giữa các chủ thể truyền thông. Truyền thông đang tạo ra quá trình xã hội hóa người dùng nên thông điệp truyền thông chính sách ngày càng tác động lớn đến sự khuếch tán của nội dung truyền thông...
Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam và một số hàm ý chính sách

Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam và một số hàm ý chính sách

Bài viết thông qua phân tích nhanh các cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam giai đoạn 2020 - 2023 và trên cơ sở số liệu nghiên cứu kinh tế vĩ mô, nhận diện những hạn chế, bất cập, từ đó đề xuất một số hàm ý về chính sách cho mục tiêu tăng trưởng ổn định và bền vững...
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Lạm phát gia tăng toàn cầu sau đại dịch Covid-19, vốn đã ảnh hưởng đến cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, nhưng dường như đã “bỏ qua” châu Á. Một trong những lý do chính là sự phục hồi chậm của các nền kinh tế châu Á do các đợt “đóng cửa”, “phong tỏa”, “cách ly”, “giãn cách” kéo dài và lặp đi lặp lại.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Thông tư số 54/2024/TT-NHNN ngày 17/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 26/2021/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn giao dịch ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối

Thông tư số 53/2024/TT-NHNN ngày 04/12/2024 Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3