Đánh giá sức khỏe tài chính các ngân hàng Việt Nam theo phương pháp phân tích cụm

Nghiên cứu - Trao đổi
Sức khỏe tài chính của các ngân hàng rất quan trọng đối với nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 xảy ra do sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng.
aa

Tóm tắt: Nghiên cứu này sử dụng phương pháp phân tích thành phần chính (Principal Component Analysis - PCA) và phân tích cụm (Cluster Analysis) để đánh giá sức khỏe tài chính của 29 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) tại Việt Nam trong giai đoạn 2007 - 2023. Kết quả phân tích cho thấy, từ năm 2007, hệ thống ngân hàng Việt Nam chia thành 3 nhóm tương ứng với mức độ lành mạnh từ cao đến thấp. Trong đó, nhóm 1 có độ lành mạnh tài chính cao nhất, xét cả giai đoạn 2017 - 2023, có 3 ngân hàng góp mặt trong nhóm 1. Nhóm 2 có số lượng các ngân hàng góp mặt nhiều nhất, chủ yếu là các ngân hàng thuộc nhóm có tầm quan trọng trong hệ thống (SIB). Nếu tính cả giai đoạn 2007 - 2023, có đến 14 ngân hàng góp mặt trong nhóm này, chiếm khoảng 48%. Cuối cùng, trong giai đoạn 2007 - 2023 có 12 ngân hàng trong nhóm 3, chiếm khoảng 41% cho cả giai đoạn. Từ kết quả nghiên cứu, bài viết đề xuất một số khuyến nghị chính sách đến các cơ quan quản lý và giám sát hệ thống ngân hàng.

Từ khóa: Sức khỏe tài chính, phân tích cụm, NHTM.

ASSESSING THE FINANCIAL SOUNDNESS OF VIETNAMESE COMMERCIAL BANKS
USING THE CLUSTER ANALYSIS METHOD


Abstract: This study employs principal component analysis method and cluster analysis method to assess the financial soundness of 29 joint-stock commercial banks in Vietnam during the 2007 - 2023 period. The analysis results indicate that since 2007, the Vietnamese banking system has been pided into three groups, corresponding to the levels of financial soundness from highest to lowest. Group 1 consists of banks with the highest financial soundness, however, over the entire period, only 3 banks consistently remained in group 1. Group 2, which includes the majority of banks considered important in the system, had the most members. Over the 2007 - 2023 period, 14 banks were included in this group, accounting for approximately 48%. Lastly, 12 banks were placed in group 3 during the 2007 - 2023 period, representing about 41% of the total. Based on the study’s findings, the authors propose several policy recommendations for regulatory and supervisory authorities in the banking system.

Keywords: Financial soundness, cluster analysis, commercial bank.

1. Giới thiệu

Sức khỏe tài chính của các ngân hàng rất quan trọng đối với nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 xảy ra do sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng. Theo Afroj (2022); Cihak (2007); Salina và cộng sự (2021), sự lành mạnh tài chính của một ngân hàng là một điều kiện khi các chỉ số tài chính như an toàn vốn, chất lượng tài sản, thanh khoản và hiệu quả của ngân hàng nằm trong một giới hạn nhất định để bảo đảm ngân hàng có thể tồn tại khi gặp phải các cú sốc tiêu cực. Không bảo đảm được những tiêu chuẩn này sẽ chuyển một ngân hàng từ trạng thái lành mạnh sang trạng thái không lành mạnh. Các chỉ số tài chính này thay đổi liên tục do ảnh hưởng của những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và tài chính của mỗi quốc gia. Do đó, việc đánh giá sức khỏe tài chính của các ngân hàng là rất quan trọng đối với từng quốc gia.

Nghiên cứu về mức độ lành mạnh tài chính của các ngân hàng: (1) Cấp độ vĩ mô rất đa dạng, có Gaganis và cộng sự (2006); Ioannidis và cộng sự (2010); Fernandez Arias và cộng sự (2018); Bitetto và cộng sự (2023); (2) Ở cấp độ vi mô có Rahman (2017); Mittal và Mittal (2017); Ouma và Kirori (2019); Seyedi và Abdoli (2019); Suresh và cộng sự (2019); Afroj (2022). Các nghiên cứu sử dụng mẫu của nhiều quốc gia có thể cung cấp một số chuẩn mực quốc tế về tình hình tài chính của các ngân hàng, nhưng nghiên cứu này chưa cho thấy những khác biệt quan trọng giữa các ngân hàng ở từng quốc gia do có sự khác biệt về mức độ phát triển tài chính của các quốc gia khác nhau trong mẫu nghiên cứu. Do đó, các nghiên cứu sử dụng mẫu nhiều quốc gia có thể không cung cấp đầy đủ thông tin hữu ích cho các cơ quan giám sát và quản lý về tình hình sức khỏe tài chính của ngân hàng ở quốc gia mình. Do đó, nghiên cứu này đánh giá mức độ lành mạnh tài chính của các ngân hàng Việt Nam bằng cách kết hợp phân tích thành phần chính và phân tích cụm.

Trong 5 năm gần đây, đại dịch Covid-19; tình hình khó khăn của kinh tế thế giới và trong nước đã ảnh hưởng đến chất lượng tài sản của các ngân hàng Việt Nam, thể hiện qua sự gia tăng của tỉ lệ nợ xấu nội bảng từ mức 1,6% trong năm 2019 lên mức 4,55% trong năm 2023. Đến hết quý 2/2024, nợ xấu của hệ thống ngân hàng tăng 5,77% so với cuối năm 2023 với tỉ lệ nợ xấu nội bảng là 4,56%. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp kết hợp giữa phân tích thành phần chính và phân tích cụm để đánh giá sức khỏe tài chính của các ngân hàng tại Việt Nam. Phương pháp này có thể cung cấp một số tín hiệu cảnh báo sớm cho các cơ quan giám sát và quản lý để dự báo mức độ lành mạnh của ngân hàng.

2. Tổng quan các nghiên cứu đánh giá sức khỏe tài chính của ngân hàng

Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng của các quốc gia (Demirguc-Kunt và cộng sự, 2011; Fulford, 2015). Do vậy, sức khỏe tài chính của ngân hàng thu hút sự quan tâm của các cơ quan quản lý và nhà nghiên cứu. Sức khỏe tài chính của các ngân hàng thường đo lường thông qua một số nhóm chỉ tiêu chính như tỉ lệ sinh lời, chất lượng tài sản, tỉ lệ thanh khoản, tỉ lệ chi phí và nhiều chỉ số tài chính khác (Hanif và cộng sự, 2012; Harahap, 2018). Trong đó, các nhóm chỉ tiêu theo khung CAMELS là một công cụ hiệu quả để đánh giá sức khỏe tài chính và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng (Mohammed và cộng sự, 2015; Rafiq, 2016; Pekkaya và Demir, 2018; Todorović và cộng sự, 2018). Cụ thể, Jaffar và Manarvi (2011) so sánh hiệu quả hoạt động của các ngân hàng hồi giáo và ngân hàng thông thường bằng cách sử dụng khung CAMELS và họ nhận thấy rằng, các ngân hàng hồi giáo có thanh khoản tốt hơn trong khi các ngân hàng truyền thống có hoạt động quản lý hiệu quả hơn. Tương tự, Sun và cộng sự (2017) cho thấy mức độ an toàn vốn và hiệu quả quản lý có tác động đáng kể đến tình hình hoạt động của các ngân hàng. Gần đây, Nguyễn và cộng sự (2020) trong nghiên cứu về hiệu quả hoạt động của các ngân hàng tại Việt Nam nhận thấy rằng, hiệu quả hoạt động của tất cả ngân hàng đều bị ảnh hưởng đáng kể bởi các thành phần CAMELS ngoại trừ khả năng sinh lời. Ping và Kusairi (2020) đã đo lường hiệu quả hoạt động của ngân hàng bằng tỉ suất sinh lời trên tài sản và sau đó sử dụng các thành phần CAMELS làm yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động. Họ cũng cho thấy an toàn vốn và khả năng sinh lời có tác động tích cực, trong khi các yếu tố còn lại có tác động tiêu cực đến kết quả hoạt động ngân hàng.

Ngoài ra, các chỉ tiêu CAMELS còn được sử dụng để đánh giá sức khỏe tài chính ngân hàng thông qua chỉ số lành mạnh tài chính tổng hợp. Cụ thể, Öğüt và cộng sự (2012); Mashhadi và cộng sự (2022) đã tính toán chỉ số tổng hợp CAMELS để đánh giá mức độ lành mạnh tài chính của các ngân hàng. Afroj (2022) sử dụng các chỉ tiêu của khung CAMEL để đo lường chỉ số lành mạnh tài chính tổng hợp của các ngân hàng ở Bangladesh và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ số này.

Để tính chỉ số lành mạnh tài chính tổng hợp của ngân hàng, nhiều nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích nhân tố. Phân tích nhân tố có thể được sử dụng để hiểu rõ hơn về cấu trúc của các chỉ số CAMELS (Dash, 2021). Phân tích thành phần chính là phép trích được sử dụng phổ biến trong phân tích nhân tố. Phân tích thành phần chính được sử dụng để tóm tắt thông tin từ nhiều biến số bằng cách chuyển đổi chúng thành một tập hợp các thành phần chính không tương quan với nhau (Jolliffe, 2002). Yildirim (2021) đã áp dụng phương pháp phân tích thành phần chính trên số liệu đã được chuẩn hóa để đo lường sự lành mạnh tài chính của các ngân hàng. Phân tích thành phần chính cũng được Bitetto và cộng sự (2023) sử dụng để phân tích chỉ số lành mạnh tài chính tổng hợp của các định chế tài chính ở cấp độ quốc gia từ dữ liệu 17 chỉ số lành mạnh tài chính quốc gia của IMF.

Ngoài việc sử dụng phương pháp phân tích thành phần chính để tính các chỉ số lành mạnh tài chính tổng hợp, phương pháp phân tích cụm cũng được áp dụng để đánh giá sự lành mạnh của ngân hàng (Ioannidis và cộng sự, 2010). Theo Salina và cộng sự (2021), phân tích cụm thường được sử dụng khi dữ liệu là dạng ma trận gần nhau hoặc khoảng cách giữa các đối tượng hoặc điểm dữ liệu nằm trong không gian đa chiều. Salina (2017) cũng cho rằng, sử dụng phương pháp phân tích cụm để đánh giá mức độ lành mạnh của ngân hàng mang lại hiệu quả cao, ngay cả khi số mẫu nhỏ, không đạt phân phối chuẩn hay các phương pháp phân tích khác không xử lý được. Kết quả nghiên cứu của Cecchetti và cộng sự (2009) cũng nhận định, phương pháp phân tích cụm sẽ phân loại các ngân hàng có đặc điểm tương đồng nhau thành các cụm riêng biệt bằng cách làm tăng sự khác biệt giữa các cụm và giảm sự khác biệt trong cụm. Một số nghiên cứu khác cũng sử dụng phân tích cụm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Cụ thể, Dao và Khanh (2014), Penikas và cộng sự (2011), Shuai và cộng sự (2013) sử dụng phân tích cụm trong quản lý rủi ro. Trong khi đó, Zamini và Montazer (2018), Huang và cộng sự (2024) sử dụng phân tích cụm để phát hiện gian lận tài chính.

3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu

Dữ liệu của nghiên cứu này bao gồm 29 NHTMCP tại Việt Nam (gồm 3 NHTMCP có vốn nhà nước giữ cổ phần chi phối). Dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính đã kiểm toán hằng năm của các ngân hàng trong giai đoạn 2007 - 2023. Toàn bộ tập dữ liệu bao gồm 471 quan sát của 17 chỉ số tài chính được lựa chọn dựa trên các nghiên cứu có liên quan trước đây. Các chỉ số tài chính này phản ánh theo khung CAMELS với 6 nhóm chỉ tiêu gồm: (1) C - An toàn vốn; (2) A - Chất lượng tài sản; (3) M - Quản lý; (4) E - Sinh lời; (5) L - Thanh khoản; và (6) S - Độ nhạy với rủi ro thị trường (Bảng 1). Tuy nhiên, đối với chỉ tiêu độ nhạy với rủi ro thị trường, do hạn chế về mặt dữ liệu nên bài viết này sử dụng chỉ tiêu mức độ tập trung của tài sản và nguồn vốn của các ngân hàng làm chỉ tiêu thay thế.

Bảng 1: Các chỉ số đánh giá sức khỏe tài chính ngân hàng


Nguồn: Thu thập của nhóm tác giả

Trước khi thực hiện phân tích nhân tố khám phá (EFA), dữ liệu sẽ được chuẩn hóa theo phương pháp chuẩn hóa của Barron và Schmidt (1988) như sau:



Trong đó, là giá trị đã chuẩn hóa của biến i năm t; Max(Ii) là giá trị tối đa của biến i trong mỗi năm; Min(Ii) là giá trị tối thiểu của biến i trong mỗi năm. Giá trị sau chuẩn hóa sẽ dao động trong khoảng từ 0 đến 1.

Sau khi chuẩn hóa dữ liệu, nghiên cứu sử dụng phép trích thành phần chính thực hiện EFA nhằm xác định những chỉ số tài chính có ảnh hưởng đến sức khỏe tài chính của các ngân hàng. Sau đó, nghiên cứu còn sử dụng kỹ thuật phân tích cụm k-means để phân loại các ngân hàng theo 3 nhóm, gồm: Nhóm 1, nhóm 2 và nhóm 3 dựa trên điểm lành mạnh tài chính của mỗi ngân hàng trong từng năm và cho cả giai đoạn 2007 - 2023.

4. Kết quả nghiên cứu

4.1. Kết quả xếp hạng ngân hàng theo EFA

Kết quả tính toán ma trận xoay nhân tố cho thấy, nhân tố 1 chi phối 4 chỉ số (X15, X17, X16, X9), nhân tố 2 chi phối 4 chỉ số (X13, X3, X12, X14), nhân tố 3 chi phối 3 chỉ số (X7, X10, X11), nhân tố 4 chi phối 3 chỉ số (X2, X1, X8), và nhân tố 5 chi phối 3 chỉ số (X5, X4, X6). Các chỉ số được kết hợp thành 5 thành phần chính trình bày ở Bảng 2.

Bảng 2: Nhóm các chỉ số thành phần chính


Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả


Kết quả tính toán ma trận điểm nhân tố được thể hiện ở Bảng 3.

Bảng 3: Ma trận điểm nhân tố


Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

Từ kết quả trình bày ở Bảng 2 và 3, các f1, f2, f3, f4, và f5 được xác định như sau:

f1 = 0,054X1 + 0,113X2 – 0,018X3 + 0,057X4 + 0,028X5 – 0,017X6 + 0,155X7 + 0,010X8 + 0,078X9 – 0,028X10 – 0,041X11 + 0,005 X12 + 0,046X13 + 0,098X14 + 0,340X15 + 0,330X16 + 0,329X17.

f2 = 0,017X1 – 0,095X2 + 0,291X3 – 0,014X4 + 0,056X5 + 0,000X6 – 0,028X7 – 0,052X8 – 0,050X9 + 0,002X10 – 0,009X11 + 0,218X12 – 0,307X13 – 0,315X14 – 0,065X15 – 0,031X16 – 0,047X17.

f3 = – 0,053X1 – 0,079X2 – 0,037X3 + 0,126X4 – 0,051X5 – 0,023X6 + 0,074X7 + 0,329X8 – 0,071X9 + 0,328X10 + 0,368X11 + 0,016 X12 + 0,041X13 – 0,011X14 – 0,051X15 – 0,066X16 – 0,055X17.

f4 = 0,438X1 + 0,516X2 – 0,002X3 – 0,144X4 + 0,020X5 + 0,019X6 + 0,018X7 + 0,17X8 – 0,115X9 + 0,003X10 – 0,195X11 + 0,132X12 + 0,024X13 + 0,214X14 + 0,123X15 + 0,131X16 + 0,105X17.

f5 = 0,007X1 – 0,003X2 + 0,001X3 + 0,324X4 + 0,489X5 + 0,444X6 + 0,033X7 + 0,015X8 + 0,154X9 + 0,023X10 – 0,015X11 – 0,006X12 – 0,003X13 – 0,082X14 + 0,025X15 + 0,030X16 + 0,029X17.

Tiếp theo, lần lượt thay các giá trị X1 đến X17 vào công thức tính f1 đến f5, ta được giá trị f1 đến f5 của từng ngân hàng trong giai đoạn 2007 - 2023. Sau đó, tính F cho các ngân hàng theo từng năm bằng công thức:

F = d1f1 + d2f2 + d3f3 + d4f4 + d5f5.

Theo đó, ngân hàng có giá trị F càng cao thì mức độ lành mạnh tài chính càng lớn, với d là trọng số của từng f tương ứng hay bằng tỉ lệ đóng góp của từng nhân tố (d1 = 27,6%; d2 = 21,4%; d3 = 14,2%; d4 = 9,9%; d5 = 6,8%).

4.2. Phân loại sức khỏe tài chính các ngân hàng theo phân tích cụm

Sau khi tính toán điểm lành mạnh tài chính tổng hợp và xếp hạng các ngân hàng, nghiên cứu này sẽ tiến hành phân tích cụm từ điểm lành mạnh tài chính tổng hợp đã tính ở trên. Phân tích cụm trong trường hợp này sẽ phân loại các ngân hàng thành những nhóm riêng biệt tùy theo mức độ lành mạnh tài chính của họ. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp phân tích cụm k-means để xác định khoảng cách giữa các nhóm, được thực hiện cho từng năm cũng như cả giai đoạn 2007 - 2023.

Bảng 4: Giá trị trung vị của các nhóm ngân hàng


Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

Giá trị trung vị của các nhóm ngân hàng được xác định và trình bày trong Bảng 4. Giá trị trung vị này tương ứng với giới hạn của điểm lành mạnh tài chính của mỗi nhóm ngân hàng. Bảng 4 cho thấy giá trị trung vị của độ lành mạnh tài chính của các nhóm là khác nhau. Cụ thể, nhóm 1 (màu xanh) có giá trị trung vị cao nhất thể hiện các ngân hàng trong nhóm này có độ lành mạnh tài chính cao nhất, cả giai đoạn 2007 - 2023 thì có 3 ngân hàng góp mặt trong nhóm 1, và 3 ngân hàng này đều thuộc nhóm NHTMCP vốn nhà nước giữ cổ phần chi phối: NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (mã chứng khoán BID), NHTMCP Công thương Việt Nam (mã chứng khoán CTG) và NHTMCP Ngoại thương Việt Nam (mã chứng khoán VCB). Các ngân hàng khác được xếp vào nhóm 1 trong một số năm như NHTMCP Á Châu (mã chứng khoán ACB) (năm 2019, 2022, 2023), NHTMCP Kiên Long (mã chứng khoán KLB) (năm 2007), NHTMCP Quân đội (mã chứng khoán MBB) (năm 2023), NHTMCP Phương Đông (mã chứng khoán OCB) (năm 2013), NHTMCP Sài Gòn Công thương (mã chứng khoán SGB) (năm 2010, 2012 - 2017), NHTMCP Sài Gòn Thương Tín (mã chứng khoán STB) (năm 2013, 2014, 2021), NHTMCP Kỹ thương (mã chứng khoán TCB) (năm 2017, 2020, 2022, 2023). Đáng chú ý, NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng (mã chứng khoán VPB) là ngân hàng tư nhân trong nhóm ngân hàng có tầm quan trọng trong hệ thống duy nhất có mặt trong nhóm 1 trong khoảng thời gian khá dài từ 2016 - 2023.

Nhóm 2 (màu vàng) có giá trị trung vị thấp hơn nhóm 1, tuy vậy, số lượng các ngân hàng góp mặt trong nhóm này là nhiều nhất, chủ yếu là các ngân hàng có tầm quan trọng trong hệ thống. Nếu tính cả giai đoạn 2007 - 2023, có đến 14 ngân hàng góp mặt trong nhóm này, chiếm khoảng 48%. Cuối cùng, có 12 ngân hàng trong nhóm 3, chiếm khoảng 41% trong cả giai đoạn 2007 - 2023. (Bảng 5)

Bảng 5: Kết quả phân cụm ngân hàng dựa trên điểm lành mạnh tài chính



Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả


5. Kết luận và khuyến nghị chính sách

Bài nghiên cứu này sử dụng phương pháp phân tích thành phần chính và phân tích cụm để đánh giá sức khỏe tài chính của 29 NHTMCP tại Việt Nam trong giai đoạn 2007 - 2023. Kết quả phân tích cho thấy, từ năm 2007, hệ thống ngân hàng Việt Nam chia thành 3 nhóm tương ứng với mức độ lành mạnh từ cao nhất đến thấp nhất. Trong đó, nhóm 1 có độ lành mạnh tài chính cao nhất. Nhóm 2 có số lượng các ngân hàng góp mặt là nhiều nhất, có đến 14 ngân hàng góp mặt, chiếm khoảng 48%. Cuối cùng, trong giai đoạn 2007 - 2023 có 12 ngân hàng trong nhóm 3, chiếm khoảng 41% cho cả giai đoạn.

Dựa trên kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách sau:

(i) Về phía các cơ quan quản lý

Một là, cơ quan quản lý có thể sử dụng phân tích cụm như một công cụ hỗ trợ giám sát hệ thống ngân hàng.

Hai là, tăng cường giám sát và có những biện pháp hỗ trợ, can thiệp kịp thời đối với những ngân hàng liên tục xuất hiện trong nhóm 3.

Ba là, các ngân hàng cần minh bạch, công bố thông tin tài chính theo định kỳ và đặc biệt là các chỉ số về lành mạnh tài chính để các nhà đầu tư và công chúng có thêm hiểu biết và đánh giá chính xác hơn về mức độ lành mạnh tài chính của từng ngân hàng.

(ii) Về phía ban lãnh đạo ngân hàng

Thứ nhất, ban lãnh đạo ngân hàng nên tiếp tục cải tiến hệ thống đánh giá nội bộ, các kỹ thuật hiện đại như học máy để dự báo mức độ lành mạnh tài chính trong tương lai, từ đó, có những biện pháp và hành động phù hợp.

Thứ hai, chú ý các chỉ số có tỉ trọng cao trong phương pháp phân tích thành phần chính cho thấy, các yếu tố như tổng tài sản, dư nợ cho vay, tổng tiền gửi, chi phí lãi, tài sản thanh khoản cao là những biến số quan trọng trong việc đánh giá sức khỏe tài chính của ngân hàng và cần được kiểm soát tốt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Afroj, F. (2022). Financial strength of banking sector in Bangladesh: a CAMEL framework analysis. Asian Journal of Economics and Banking, 6(3), pages 353-372.

2. Barron, H., & Schmidt, C. P. (1988). Sensitivity analysis of additive multiattribute value models. Operations Research, 36(1), pages 122-127.

3. Bitetto, A., Cerchiello, P., & Mertzanis, C. (2023). Measuring financial soundness around the world: A machine learning approach. International Review of Financial Analysis, page 85, 102451.

4. Cecchetti, S. G., Kohler, M., & Upper, C. (2009). Financial crises and economic activity (No. w15379). National Bureau of Economic Research.

5. Cihak, M. (2007). Systemic loss: a measure of financial stability. Czech Journal of Economics and Finance, Vol. 57 Nos 1-2, pages 5-26.

6. Dao, B., & Khanh, P. (2014). Cluster analysis of Vietnamese banks. Available at SSRN 2543094.

7. Dash, M. (2021). Dimensionality of the CAMELS Model-A Case Study of Indian Banks. International Journal of Banking, Risk & Insurance, 9(2).

8. Demirguc-Kunt, A., Feyen, E., & Levine, R. (2011). Optimal Financial Structures and Development: The evolving importance of banks and markets. World Bank, mimeo.

9. Fernandez-Arias, D., Lopez-Martın, M., Montero-Romero, T., Martınez-Estudillo, F. and Fernandez-Navarro, F. (2018). Financial soundness prediction using a multi-classification model: evidence from current financial crisis in OECD banks. Computational Economics, Vol. 52 No. 1, pages 275-297.

10. Fulford, S. L. (2015). How important are banks for development? National banks in the United States, 1870-1900. Review of Economics and Statistics, 97(5), pages 921-938.

11. Gaganis, C., Pasiouras, F. and Zopounidis, C. (2006). A multicriteria decision framework for measuring banks’ soundness around the world. Journal of Multi-Criteria Decision Analysis, Vol. 14 Nos 1-3, pages 103-111.

12. Hanif, M., Tariq, M., & Tahir, A. (2012). Comparative performance study of conventional and Islamic banking in Pakistan. International Research Journal of Finance & Economics, (83).

13. Harahap, I. M. (2018). Impact of bank performance on profitability. Scholars Journal of Economics, Business and Management, 5(8), pages 727-733.

14. Huang, Z., Zheng, H., Li, C., & Che, C. (2024). Application of machine learning-based k-means clustering for financial fraud detection. Academic Journal of Science and Technology, 10(1), pages 33-39.

15. Ioannidis, C., Pasiouras, F., & Zopounidis, C. (2010). Assessing bank soundness with classification techniques. Omega, 38(5), pages 345-357.

16. Jaffar, M., & Manarvi, I. (2011). Performance comparison of Islamic and Conventional banks in Pakistan. Global journal of management and business research, 11(1), pages 61-66.

17. Jolliffe, I. T. (2002). Principal Component Analysis (Springer Series in Statistics), Springer.

18. Mashhadi, R., Ghaffari, F., Hosseini, S. S., & Peykarjou, K. (2022). The Impact of “CAMEL Composite Index” on Income Diversification: A Case Study of the Iranian Banking System. Journal of Money and Economy, 17(2), pages 161-182.

19. Mittal, S. and Mittal, M. (2017). Assessment of financial soundness of private and public sector banks in India. Research Review International Journal of Multidisciplinary, Vol. 2 No. 9, pages

72-75.

20. Mohammed, H. K., Wetere, Y. M., & Bekelecha, M. S. (2015). Soundness of Ethiopian banks. International Journal of Finance & Banking Studies (2147-4486), 4(2), pages 29-37.

21. Nguyen, A. H., Nguyen, H. T., & Pham, H. T. (2020). Applying the CAMEL model to assess performance of commercial banks: empirical evidence from Vietnam. Banks and Bank Systems, 15(2), pages 177-186.

22. Öğüt, H., Doğanay, M. M., Ceylan, N. B., & Aktaş, R. (2012). Prediction of bank financial strength ratings: The case of Turkey. Economic Modelling, 29(3), pages 632-640.

23. Ouma, M.O. and Kirori, G.N. (2019). Evaluating the financial soundness of small and medium-sized commercial banks in Kenya: an application of the bankometer model. International Journal of Economics and Finance, Vol. 11 No. 6, pages 1-93.

24. Pekkaya, M., & Demir, F. E. (2018). Determining the priorities of CAMELS dimensions based on bank performance. Global approaches in financial economics, banking, and finance, pages 445-463.

25. Penikas, H., Andrievskaya, I., Connolly, R., & Aivazian, S. (2011). Modeling risk patterns of Russian systemically important financial institutions. Review of Applied Socio-Economic Research, 1(1), pages 70-80.

26. Ping, K. G., & Kusairi, S. (2020). Analysis of CAMEL components and commercial bank performance: panel data analysis. Jurnal Organisasi Dan Manajemen, 16(1), pages 1-10.

27. Rafiq, M. R. I. (2016). Determining Bank performance using CAMEL rating: A comparative study on selected Islamic and Conventional Banks in Bangladesh. Asian Business Review, 6(3), pages 151-160.

28. Rahman, Z. (2017). Financial soundness evaluation of selected commercial banks in Bangladesh: an application of bankometer model. Research Journal of Finance and Accounting. Vol. 8 No. 2, pages 63-70.

29. Salina, A. P. (2017). Financial soundness of Kazakhstan banks: analysis and prediction (Doctoral dissertation).

30. Salina, A. P., Zhang, X., & Hassan, O. A. (2021). An assessment of the financial soundness of the Kazakh banks. Asian journal of accounting research, 6(1), pages 23-37.

31. Seyedi, S.A. and Abdoli, M.R. (2019). Modeling and rating financial soundness indicators of commercial banks using confirmatory factor analysis and TOPSIS method. Iranian Journal of Finance, Vol. 3 No. 3, pages 107-136.

32. Shuai, L., Lai, H., Xu, C., & Zhou, Z. (2013). The discrimination method and empirical research of inpidual credit risk based on bilateral clustering.

33. Sun, P. H., Mohamad, S., & Ariff, M. (2017). Determinants driving bank performance: A comparison of two types of banks in the OIC. Pacific-Basin Finance Journal, 42, pages 193-203.

34. Suresh, N., Ligori, A., Khan, S. and Khan, S.A. (2019). Comparative financial performance and financial soundness of banks in Bhutan: application of Dupont and bankometer models. International Journal of Psychosocial Rehabilitation, Vol. 23 No. 1, pages 441-448.

35. Todorović, V., Furtula, S., & Durkalić, D. (2018). Measuring performance of the Serbian Banking sector using CAMELS model. Teme, pages 961-977.

36. Yıldırım, F. (2021). Banking Soundness Index for Turkey: The Principal Component Analysis Approach. Ekonomi Politika ve Finans Araştırmaları Dergisi, 6(3), pages 845-861.


Trần Hùng Sơn, Hồ Hữu Tín, Trần Thị Út Linh
Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Bài viết phân tích những thách thức lớn đối với ổn định của hệ thống tài chính quốc tế trong bối cảnh bất ổn toàn cầu gia tăng, bao gồm bất định kinh tế vĩ mô, định giá tài sản cao, đòn bẩy tài chính và sự phát triển nhanh của khu vực phi ngân hàng. Các rủi ro mang tính hệ thống có thể làm khuếch đại cú sốc thị trường và lan truyền toàn cầu. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị chính sách như tăng cường quản trị rủi ro, kiểm soát đòn bẩy, mở rộng giám sát và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tài chính.
Xem thêm
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng