Chính sách tiền tệ trong bối cảnh Covid-19 ở một số nước phát triển và Việt Nam

Quốc tế
Dịch bệnh Covid-19 bùng phát từ cuối năm 2019 đến nay đã lan rộng ra toàn cầu và chưa có dấu hiệu kết thúc. Tác động của dịch bệnh đến kinh tế toàn cầu là vô cùng lớn khi các nền kinh tế lớn nhất thế...
aa

Dịch bệnh Covid-19 bùng phát từ cuối năm 2019 đến nay đã lan rộng ra toàn cầu và chưa có dấu hiệu kết thúc. Tác động của dịch bệnh đến kinh tế toàn cầu là vô cùng lớn khi các nền kinh tế lớn nhất thế giới đều ghi nhận mức tăng trưởng âm trong quý I/2020.

Để hạn chế những tác động tiêu cực của dịch bệnh đến nền kinh tế, ngân hàng trung ương (NHTW) các nước đều nhanh chóng đưa ra những chính sách mạnh mẽ, như cắt giảm lãi suất, hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại, thậm chí là hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù có sự khác nhau về công cụ mà NHTW các nước sử dụng nhưng nhìn chung, chính sách tiền tệ đã thể hiện tốt vai trò của mình trong việc hỗ trợ nền kinh tế.

1. Giới thiệu

Sự bùng phát của dịch bệnh Covid-19 là một cú sốc với quy mô và tính chất chưa từng có. Giải pháp chính được thực hiện cho đến nay để kiềm chế sự lây lan của dịch bệnh là phong tỏa và cách ly ở quy mô toàn cầu, điều này đã dẫn đến sự ngưng trệ của các nền kinh tế. Người lao động sụt giảm thu nhập, đặc biệt đối với lao động thời vụ, không có nguồn thu ổn định, làm phía cầu vốn bị sụt giảm nghiêm trọng do các biện pháp giãn cách xã hội. Điều này làm tăng nguy cơ nợ quá hạn đối với các khoản thế chấp và vay tiêu dùng. Các doanh nghiệp đối mặt với vấn đề suy giảm các hoạt động sản xuất và giảm dòng tiền, nhất là trong các lĩnh vực như ô tô, bán lẻ và du lịch. Những vấn đề về thanh khoản của hộ gia đình và doanh nghiệp, cùng với sự bất ổn ngày càng tăng cao đã tác động tiêu cực đến sự hoạt động của thị trường tài chính.

Tác động của dịch bệnh đến thị trường tài chính thế giới hiện nay là vô cùng lớn: Chứng khoán được hỗ trợ bằng tài sản và các khoản thế chấp đã đóng băng ở nhiều quốc gia; Thị trường giấy tờ thương mại đã gặp nhiều khó khăn ở các thị trường như Mỹ, Canada và khu vực sử dụng đồng Euro (nhóm các nước thành viên của Liên minh châu Âu sử dụng đồng Euro làm đơn vị tiền tệ chính thức) do những rủi ro không được thanh toán tăng cao; Thị trường vốn cổ phần (Equity market) gặp nhiều khó khăn, biến động ở hầu hết các loại tài sản; Thị trường trái phiếu kho bạc Mỹ đã trải qua một đợt bán tháo mạnh, dẫn đến tăng đột biến lãi suất dài hạn (Schaleighf, Shin và Sushko (2020); Thị trường trái phiếu Chính phủ Nhật Bản (JGB) chịu nhiều áp lực và những chênh lệch chủ quyền lan rộng đáng kể trong khu vực sử dụng đồng Euro.

Với những biến động tiêu cực trên khắp các thị trường tài chính, các NHTW đã phản ứng nhanh chóng và quyết liệt, thực hiện đúng nhiệm vụ và vai trò của họ, để duy trì hoạt động có hiệu quả của thị trường tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ hiệu quả. Bài viết đánh giá phản ứng của NHTW ở một số quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật, Anh, Canada và khu vực đồng Euro. Bên cạnh đó, đánh giá phản ứng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, để thấy sự khác nhau trong việc đối phó với khủng hoảng giữa NHTW nước đang phát triển và NHTW các nước phát triển.


2. Phản ứng của các NHTW ở một số nước phát triển

Phản ứng nhanh chóng và quyết liệt

Mục tiêu quan trọng nhất của các NHTW trong giai đoạn hiện nay là ngăn chặn suy giảm kinh tế bằng việc đảm bảo hoạt động xuyên suốt của hệ thống tài chính và tạo điều kiện cho dòng vốn tín dụng đến các hộ gia đình và doanh nghiệp.

NHTW các nước phát triển đã thực hiện vai trò truyền thống của mình trong khủng hoảng với tư cách là người cho vay cuối cùng đối với lĩnh vực tài chính. Bên cạnh việc hỗ trợ thanh khoản cho khu vực tài chính thì trong cuộc khủng hoảng lần này, các NHTW còn cung cấp thanh khoản cho cả khu vực phi tài chính tư nhân. Từ tháng 3 đến tháng 4/2020, NHTW của các quốc gia phát triển nêu trên đã triển khai toàn bộ các chính sách quản lý khủng hoảng. Các NHTW này đều cung cấp các hoạt động cho vay mới hoặc mở rộng các chương trình mua bán tài sản sẵn có hoặc chương trình mua bán tài sản mới. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Federal Reserve System - Fed), NHTW Canada và Ngân hàng Anh (NHTW của Vương quốc Anh) cũng cắt giảm lãi suất. Ngoài ra, ở quy mô nhỏ hơn, Ngân hàng Trung ương châu Âu (European Central Bank - ECB) và Ngân hàng Nhật Bản (NHTW của Nhật Bản) thông qua các nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ với các NHTW khác để cung cấp đồng tiền của mình cho các quốc gia khác.

Những kinh nghiệm có được từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 (Global Financial Crisis - GFC) đã giúp các NHTW đưa ra các giải pháp nhanh chóng. Các chính sách được thực hiện trong giai đoạn 2007-2015, chỉ mất vài tuần để triển khai ứng phó với đại dịch. Chính sách truyền thống khi có khủng hoảng, chính sách đầu tiên được các NHTW áp dụng là giảm lãi suất chính sách để giảm chi phí vay vốn và hỗ trợ tổng cầu. Ngoại trừ ở Nhật Bản và khu vực đồng Euro, nơi lãi suất chính sách đã thực sự âm và hạ xuống mức thấp nhất chỉ trong vòng chưa đầy một tháng, nhanh hơn nhiều so với giai đoạn xảy ra GFC.

Nghiệp vụ cho vay cũng được các NHTW nhanh chóng thực hiện. Các khoản cho vay ngắn hạn được các NHTW thực hiện nhằm hỗ trợ các ngân hàng thiếu hụt thanh khoản tạm thời và để ngăn chặn tình trạng đóng băng thị trường. Fed, NHTW Canada và Ngân hàng Nhật Bản đã tăng số lượng các giao dịch mua lại đồng thời kéo dài thời gian đáo hạn của các giao dịch này. Fed cũng khuyến khích sử dụng cửa sổ chiết khấu và thường xuyên can thiệp để giảm thiểu những khó khăn cho các thành viên chính trên thị trường, bằng cách cung cấp các khoản vay được bảo đảm bằng các trái phiếu có rủi ro thấp. Đối với các quỹ thị trường tiền tệ, Fed cho vay đối với các tổ chức nhận tiền gửi mà tài sản thế chấp là những tài sản mua từ những quỹ này. Ngân hàng Anh và Ngân hàng Canada lần đầu tiên kích hoạt các nghiệp vụ Repo kỳ hạn (Contingent Term Repo Facilities - CTRF) của họ kể từ khi thiết lập vào năm 2014 và 2015.

Một đặc điểm cơ bản trong chính sách của NHTW đối phó với khủng hoảng là việc triển khai rộng rãi các biện pháp cho vay dài hạn để hỗ trợ tín dụng cho các hộ gia đình và các tập đoàn phi tài chính. Fed, Ngân hàng Nhật Bản và Ngân hàng Anh đã thiết lập các chương trình cho vay có mục tiêu được thiết kế để cung cấp vốn cho các ngân hàng với kỳ hạn phù hợp, có điều kiện mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Fed đã kích hoạt lại nghiệp vụ cho vay có kỳ hạn với chứng khoán có tài sản bảo đảm, nghiệp vụ được sử dụng lần đầu tiên vào cuối năm 2008 để hỗ trợ phát hành chứng khoán bảo đảm bằng tài sản. Trong khu vực đồng Euro, ECB đã tăng quy mô của nghiệp vụ tái cấp vốn dài hạn mục tiêu thêm hai phần ba và giảm chi phí. ECB cũng cung cấp thêm các hoạt động tái cấp vốn dài hạn khẩn cấp đại dịch để cung cấp cho các ngân hàng các khoản tiền dài hạn bất kể mô hình cho vay của họ. Ngân hàng Canada kéo dài thời gian của các nghiệp vụ cho vay Repo lên tới 2 năm.

Các chương trình mua tài sản cũng đóng vai trò quan trọng trong các chính sách quản lý khủng hoảng, mặc dù mục tiêu các chương trình của các NHTW là khác nhau. Ở Mỹ, mua tài sản của khu vực công là công cụ để đảm bảo hoạt động trơn tru của thị trường trái phiếu kho bạc Mỹ và duy trì vai trò trong việc định giá tài sản tài chính. Một mục đích khác của các chương trình mua tài sản là để khôi phục niềm tin và tạo điều kiện cho sự phục hồi tổng cầu khi các lệnh phong tỏa được gỡ bỏ. Fed và Ngân hàng Nhật Bản đã công bố chính sách mua trái phiếu chính phủ không giới hạn, trong khi Ngân hàng Canada lần đầu tiên tham gia chương trình mua tài sản. ECB đã mở rộng chương trình mua tài sản hiện tại bằng cách cam kết mua thêm 120 tỷ Euro tài sản tư nhân và tài sản công đến cuối năm 2020. Sau giai đoạn này ECB đưa ra một chương trình mua tài sản tư và công trị giá 1,35 nghìn tỷ Euro với tên gọi là Chương trình mua bán khẩn cấp đại dịch (PEPP). Fed và NHTW Canada cũng lần đầu tiên thực hiện các chương trình mua tài sản phát hành bởi chính quyền địa phương.

Các NHTW trên cũng kích hoạt các chương trình mua tài sản của khu vực tư nhân được thiết kế để hỗ trợ tín dụng trực tiếp cho các công ty phi tài chính. Các NHTW này đều tăng quy mô hoặc thiết lập mới chương trình mua bán trái phiếu thương mại và trái phiếu doanh nghiệp, trong khi ECB bổ sung đối tượng tham gia là các tổ chức thương mại phi tài chính. Fed lần đầu tiên mua trái phiếu đầu tư và sau đó là mua cả trái phiếu bị mất giá một cách trực tiếp hoặc thông qua các quỹ giao dịch (ETF). Ngân hàng Nhật Bản tăng gấp bốn lần mua giấy thương mại và trái phiếu doanh nghiệp, trong khi Ngân hàng Anh tuyên bố rằng ít nhất 10% trong số 200 tỷ bảng thuộc chương trình mua bán tài sản (APF) sẽ được sử dụng để mua trái phiếu.

Các biện pháp thanh khoản ngoại hối đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm bớt các căng thẳng trên thị trường ngoại tệ. Tăng nghĩa vụ trả nợ bằng đồng USD, cùng với việc đồng USD tăng giá, khiến thị trường vốn bằng đồng USD chịu áp lực mạnh mẽ (Avdjiev, Eren và McGuire (2020). Fed đã phản ứng bằng cách giảm chi phí và kéo dài thời gian đáo hạn của các chương trình hoán đổi với các NHTW khác. Sau đó, Fed đã thực hiện lại các chương trình hoán đổi với 9 quốc gia khác, là những nước đã tham gia chương trình hoán đổi trong giai đoạn GFC. Một biện pháp khác để giúp các quốc gia gặp khó khăn về đồng USD mà không thuộc đối tượng được tham gia vào nghiệp vụ hoán đổi với Fed là Fed cho phép các quốc gia này vay USD với tài sản thế chấp là trái phiếu kho bạc Mỹ.

Cung cấp tín dụng cho các hộ gia đình và các doanh nghiệp phi tài chính

Đặc điểm nổi bật trong chính sách của các NHTW đối phó với Covid-19 là sử dụng các giải pháp để cung cấp tín dụng đến các hộ gia đình và doanh nghiệp phi tài chính. Các chính sách được thực hiện một cách trực tiếp và sâu rộng hơn so với các chính sách thực hiện trong giai đoạn GFC. Trái ngược với giai đoạn GFC, khi các NHTW tập trung hỗ trợ cho lĩnh vực tài chính, thì trong đại dịch Covid-19 lần này, chính sách của các NHTW lại tập trung vào các hộ gia đình và doanh nghiệp. Sự khác biệt này một phần phản ánh bản chất khác nhau của hai cuộc khủng hoảng. GFC tấn công thị trường tài chính trước tiên và sau đó từ từ lan truyền sang khu vực sản xuất, ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin và thắt chặt điều kiện tín dụng cho các doanh nghiệp và hộ gia đình. Ngược lại, trong đại dịch Covid-19 do các quy định cách ly và phong tỏa, khu vực sản xuất bị tác động đầu tiên, sau đó mới lan truyền sang lĩnh vực tài chính.

Trong bối cảnh này, ngoại trừ NHTW Canada, các NHTW khác đều có các chương trình tài trợ cho vay trong đại dịch Covid-19. Fed với chương trình cho vay Main Street đã cung cấp các khoản vay cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chương trình này sẽ cho các công ty có tình hình tài chính tốt trước khi khủng hoảng xảy ra vay vốn với thời hạn lên đến 4 năm. Lần đầu tiên Fed và NHTW Canada công bố chương trình mua bán trái phiếu doanh nghiệp. Mặc dù một số chính sách chưa được thực hiện nhưng số tiền đã thông báo đến cuối năm 2020 lớn hơn nhiều so với giai đoạn GFC. Ngân hàng Nhật Bản đã thông báo mua 20 nghìn tỷ yên giấy tờ thương mại và trái phiếu doanh nghiệp, gấp đôi số tiền đã mua trong GFC, trong khi chương trình tương tự của Ngân hàng Anh lớn hơn khoảng 10 lần. Nhìn chung, các biện pháp được thiết kế để cung cấp tín dụng cho khu vực tư nhân phi tài chính trong đại dịch Covid-19 sẽ làm tăng bảng cân đối của các NHTW lên trung bình khoảng 6,3% GDP, cao hơn nhiều so với khoảng 2,5% trong giai đoạn GFC.

Cho vay thanh khoản khẩn cấp đối với các ngân hàng là chức năng cho vay truyền thống của các NHTW, cho đến nay, có quy mô nhỏ hơn so với giai đoạn GFC. Nếu như vào tháng 11/2008, Fed hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng lên đến 5,1% GDP thì ở thời điểm tháng 3/2020, khi dịch Covid-19 bùng phát mạnh, khoản hỗ trợ thanh khoản của Fed chỉ là 2,2% GDP và tiếp tục giảm cho đến nay. Chỉ riêng NHTW Canada, các khoản hỗ trợ thanh khoản tăng lên khoảng 6,4% GDP.

Sự phối hợp của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa

Tác động mạnh mẽ của đại dịch đối với khu vực sản xuất đã buộc các quốc gia phải thực hiện cả chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Hai chính sách vĩ mô quan trọng được thực hiện một cách độc lập nhưng bổ trợ lẫn nhau (Alberola, Arslan, Cheng và Moessner 2020). Chính phủ, Bộ Tài chính các nước đã hỗ trợ NHTW thông qua nhiều kênh khác nhau. Trong một số trường hợp, chính phủ đã hỗ trợ tài chính cho các chính sách mới của NHTW. Kho bạc Mỹ đã hỗ trợ cho các chương trình khác nhau của Fed với tổng số tiền là 454 tỷ USD (195 tỷ USD đã được giải ngân), tương đương 2,1% GDP. Kho bạc Anh cung cấp bảo lãnh 100% khối lượng giấy tờ thương mại được mua bởi Ngân hàng Anh thông qua chương trình tài chính doanh nghiệp Covid (CCFF). Chính phủ cũng mở rộng bảo lãnh cho các khoản vay khu vực phi tài chính tư nhân. Trong một số trường hợp, khi kết hợp với các chính sách mở rộng điều kiện thế chấp, các khoản bảo lãnh này của chính phủ đã gián tiếp hỗ trợ cho các hoạt động cho vay và giúp các NHTW mở rộng cấp tín dụng. Chẳng hạn, bằng cách mở rộng điều kiện thế chấp bao gồm các khoản vay được chính phủ bảo lãnh, ECB cho phép các ngân hàng cung cấp các khoản vay mà trong điều kiện bình thường sẽ không đủ điều kiện để vay vốn. Nhìn chung, bằng cách giải quyết các mối lo ngại về rủi ro tín dụng, chính sách tài khóa đã hỗ trợ cho chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ tín dụng cho khu vực phi tài chính tư nhân.

Ngược lại, các NHTW lại hỗ trợ gián tiếp cho chính sách tài khóa mở rộng của chính phủ. Cắt giảm lãi suất, cho vay và thực hiện các chương trình mua bán tài sản công đều là những công cụ hỗ trợ cho chính sách tài khóa. Những biện pháp này đảm bảo cho việc phát hành trái phiếu chính phủ quy mô lớn mà không ảnh hưởng đến thị trường trái phiếu.

3. Chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Cho đến nay, Việt Nam là một trong số ít quốc gia kiểm soát tốt dịch bệnh Covid-19. Khi đại dịch xảy ra, nền kinh tế chịu những tác động nặng nề và NHNN đã nhanh chóng có những giải pháp để hỗ trợ thị trường tiền tệ.

Ngày 06/8, NHNN đã giảm thêm một số lãi suất điều hành với mức điều chỉnh 0,2 - 0,5% một năm. Đây là lần thứ ba trong năm 2020, NHNN giảm các loại lãi suất điều hành. Theo đó, lãi suất áp dụng cho tiền gửi dự trữ bắt buộc và vượt dự trữ bắt buộc tiền đồng giảm 0,5 điểm phần trăm xuống còn 0,5% một năm. Bên cạnh đó, NHNN cũng quy định mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam (VND) của các tổ chức, cá nhân tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 0,8%/năm xuống 0,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 5,0%/năm xuống 4,75%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng tại Quỹ tín dụng nhân dân, Tổ chức tài chính vi mô giảm từ 5,5%/năm xuống 5,25%/năm; lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên do tổ chức tín dụng ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường.

Bên cạnh việc cắt giảm các mức lãi suất điều hành, NHNN cũng hướng dẫn các ngân hàng thương mại cơ cấu lại các khoản cho vay, giảm lãi, và hoãn nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do dịch bệnh. Trên cơ sở đó, hệ thống ngân hàng thương mại đã dành khoản tiền 300 nghìn tỷ đồng để cho vay với lãi suất thấp và hỗ trợ 920.000 khách hàng dưới hình thức cơ cấu lại nợ, hoãn, miễn, và giảm lãi suất. Các tổ chức tài chính cũng giảm và miễn các khoản phí.

Các công ty bị ảnh hưởng bởi Covid-19 đủ điều kiện được vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (VBSP) để trả lương cho công nhân của họ, những người tạm thời nghỉ việc mà không phải trả lãi. Tổng giá trị khoản vay ước tính là 16,2 nghìn tỷ đồng (khoảng 0,2% GDP).

Ngoài ra, NHNN đã chỉ đạo các TCTD tích cực giảm tiền thưởng và tiền lương, cắt giảm chi phí hoạt động khác, điều chỉnh kế hoạch kinh doanh kịp thời (bao gồm không trả cổ tức bằng tiền mặt) và sử dụng các nguồn lực tiết kiệm để giảm lãi. NHNN tuyên bố rằng họ sẵn sàng bơm thanh khoản thông qua các cửa sổ tái cấp vốn cho VBSP và các TCTD khác để thực hiện các chương trình của Chính phủ và giúp các TCTD giải quyết nợ xấu. NHNN đã ban hành thông tư tái cấp vốn cho VBSP lên tới 16 nghìn tỷ đồng với lãi suất 0%.

Ngay khi đại dịch xảy ra và có dấu hiệu tác động tiêu cực đến nền kinh tế, Chính phủ đưa ra gói hỗ trợ tài chính trị giá 279 nghìn tỷ đồng (3,7% GDP) để hỗ trợ nền kinh tế. Các biện pháp bao gồm trả chậm thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp và phí thuê đất trong 5 tháng, hoãn trả thuế thu nhập cá nhân đến cuối năm (số tiền thanh toán trả chậm là 180 nghìn tỷ đồng, tương đương 2,4% GDP). Các biện pháp mới được phê duyệt bao gồm hoãn thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất trong nước, giảm tiền thuê đất, cắt giảm hoặc miễn các loại phí và lệ phí khác nhau, cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ và tăng khấu trừ thuế thu nhập cá nhân.

Một số biện pháp khác như: Miễn thuế cho thiết bị y tế; giảm phí đăng ký kinh doanh có hiệu lực từ ngày 25/2 (miễn thuế một năm của các thuế đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp hộ gia đình mới thành lập; miễn thuế đăng ký kinh doanh 3 năm đầu tiên cho các doanh nghiệp nhỏ); cho phép các công ty và người lao động chậm nộp bảo hiểm xã hội (tối đa 12 tháng) mà không bị phạt lãi (tổng đóng góp chậm được ước tính là 9,5 nghìn tỷ đồng hoặc 0,1% GDP). Chính phủ cũng đã thực hiện trợ cấp trực tiếp bằng tiền mặt trị giá 65 nghìn tỷ đồng cho các công nhân và hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Hơn 10% dân số ước tính sẽ được hưởng lợi từ chương trình này. Chính phủ cũng đang thúc đẩy mục tiêu giải ngân 100% vốn đầu tư công trị giá 686 nghìn tỷ đồng hoặc gần 9% GDP (trong đó 225 nghìn tỷ đồng được thực hiện từ các năm trước).

Cho đến nay, dịch bệnh vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc ở nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam, còn quá sớm để có thể đánh giá được hết những tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19 đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, với những giải pháp về chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đã giúp nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng ở mức 3,82% trong quý I và 0,36% trong quý II năm 2020. Đây là mức tăng trưởng khá giữa bối cảnh dịch bệnh bùng phát và nhiều nước trên thế giới ghi nhận tăng trưởng âm.

4. Kết luận

Có thể thấy, chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam trong việc đối phó với dịch bệnh Covid-19 khác với chính sách của NHTW các nước phát triển. Chính sách của NHNN Việt Nam chủ yếu mang tính chất gián tiếp thông qua các công cụ chính sách tiền tệ truyền thống và mang tính chất hành chính như cắt giảm lãi suất chính sách, chỉ đạo, hướng dẫn các ngân hàng thương mại thực hiện các biện pháp hỗ trợ đối với các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Trong khi đó, chính sách của NHTW ở các nước phát triển, bên cạnh việc cắt giảm lãi suất chính sách thì nhiều chính sách được thiết kế để cung cấp thanh khoản trực tiếp cho các tổ chức tín dụng hay gián tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua chấp nhận mua bán trái phiếu do các doanh nghiệp phát hành.

Mặc dù có sự khác nhau về công cụ thực hiện chính sách tiền tệ, nhưng có thể thấy chính sách tiền tệ của các NHTW trên thế giới đang rất có hiệu quả trong việc giúp nền kinh tế chống chọi với những tác động tiêu cực do đại dịch Covid-19 gây ra.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- Alberola, E, Y Arslan, G Cheng and R Moessner (2020): “The differential fiscal response to the coronavirus crisis in advanced and emerging market economies”, BIS Bulletin, forthcoming.

- Avdjiev, S, E Eren and P McGuire (2020): “Dollar funding costs during the Covid-19 crisis through the lens of the FX swap market”, BIS Bulletin, no 1, 1 April.

- Schrimpf, A, H S Shin and V Sushko (2020): “Leverage and margin spirals in fixed income markets during the Covid-19 crisis”, BIS Bulletin, no 2.

TS. Bùi Duy Hưng

Tạp chí Ngân hàng số 16/2020

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Xem thêm
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc