Kỷ niệm 70 năm Ngày giải phóng Thủ đô (10/10/1954 - 10/10/2024)

Thủ đô Hà Nội - 70 năm vượt qua thách thức, mở rộng và phát triển

Kinh tế - xã hội
Trên hành trình 70 năm, kể từ sau ngày giải phóng Thủ đô 10/10/1954, Hà Nội luôn vững vàng vượt qua mọi thách thức, cả trong phòng, chống cuộc chiến tranh phá hoại, cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng đô thị và phát triển kinh tế, ứng phó với thiên tai, dịch bệnh…
aa

Trên hành trình 70 năm, kể từ sau ngày giải phóng Thủ đô 10/10/1954, Hà Nội luôn vững vàng vượt qua mọi thách thức, cả trong phòng, chống cuộc chiến tranh phá hoại, cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng đô thị và phát triển kinh tế, ứng phó với thiên tai, dịch bệnh…

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hà Nội trở thành Thủ đô nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và sau đó là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thủ đô Hà Nội đã trải qua 4 lần điều chỉnh lớn về địa giới hành chính: Năm 1961 mở rộng diện tích, từ 152,2 km
2 với dân số 436.624 người (năm 1954)1 lên 586,13 km2 với dân số 913.400 người; năm 1978 mở rộng diện tích lên 2130,5 km2 với dân số 2.450.600 người; năm 1991, thu hẹp lại còn 922,8 km2 với dân số là 2.127.800 người; từ ngày 01/8/2008, Hà Nội sáp nhập với tỉnh Hà Tây diện tích tiếp tục mở rộng lên hơn 3.300 km2 (tương đương 334.470.02 ha) với dân số 6.232.940 người2… Thủ đô Hà Nội trở thành thành phố lớn thứ 17 trên thế giới hiện nay.

Thấm nhuần lời căn dặn của Bác Hồ: “Cả nước nhìn về Thủ đô ta. Thế giới trông vào Thủ đô ta. Tất cả chúng ta phải ra sức giữ gìn trật tự, an ninh, làm cho Thủ đô ta thành một Thủ đô bình yên, tươi đẹp, mạnh khỏe cả về vật chất và tinh thần”
3, Đảng, Nhà nước và toàn dân ta xác định: Phát triển Thủ đô Hà Nội "Văn hiến - Văn minh - Hiện đại” là nhiệm vụ chính trị quan trọng đặc biệt trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị; là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô Hà Nội…

1. Những thách thức và thành tựu trên hành trình phát triển Thủ đô

Thách thức lớn nhất và cũng là thành công lớn nhất mang tầm thời đại của Hà Nội là đã cùng cả nước vượt qua cuộc chiến hủy diệt Thủ đô Hà Nội bằng bom rải thảm từ B52 của đế quốc Mỹ, lập nên kỳ tích "Điện Biên Phủ trên không" diễn ra liên tục 12 ngày đêm của tháng 12/1972. Chiến thắng vẻ vang này góp phần quan trọng vào việc chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa danh hiệu Hà Nội của Việt Nam vang xa khắp năm châu bốn biển.

Sau thống nhất đất nước, Hà Nội đồng hành và chia sẻ cùng cả nước trước những khó khăn, thách thức trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo; tích cực đi đầu trong công cuộc kiến thiết đất nước, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới và hội nhập với kinh tế thế giới; khắc phục những quá tải hạ tầng kinh tế - xã hội của một Thủ đô đang đô thị hóa nhanh và đứng trước nhiều mục tiêu lớn, nâng tầm vị thế để thích ứng với yêu cầu mới trong bối cảnh mới.


Phát triển Thủ đô Hà Nội "Văn hiến - Văn minh - Hiện đại” là nhiệm vụ chính trị quan trọng đặc biệt trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Ảnh: Internet)


Sau điều chỉnh địa giới hành chính lần thứ tư năm 2008, Hà Nội đứng trước nhiều cơ hội, động lực mới tái cơ cấu cả về không gian kinh tế, lẫn hệ thống kết cấu hạ tầng và kiến trúc đô thị theo hướng văn minh, hiện đại. Sự bổ sung dân số và hàng ngàn di sản văn hóa vật thể và phi vật thể từ các địa phương góp phần gia tăng sức hấp dẫn của Thủ đô về nguồn nhân lực và văn hóa đa sắc vô giá, củng cố sức sống tự thân mãnh liệt bên trong của một thị trường có dung lượng lớn, cũng như tạo sức hút và lan tỏa mạnh mẽ, tăng tính liên kết, hoàn chỉnh và hấp dẫn hơn của thị trường Hà Nội với các địa phương và thị trường khác trong vùng, trong cả nước và với quốc tế.

Bên cạnh đó, Hà Nội cũng phải đối diện với nhiều thách thức và yêu cầu mới, phức tạp và quan trọng về nhận thức, công tác tổ chức, quy hoạch và đầu tư, giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương và dân tộc, bảo vệ môi trường, phòng chống các tệ nạn và tội phạm, quản lý đất đai, bảo đảm an ninh quốc phòng trong quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, thách thức lớn chưa từng có là đại dịch Covid-19 năm 2020 đã bùng phát nhanh chóng trên thế giới và cả nước, trong đó có Hà Nội, với hệ lụy toàn diện và kéo dài cả về y tế và kinh tế, trước mắt và tương lai…

Vượt qua rất nhiều thách thức trên chặng đường dài, Hà Nội từ một đô thị nhỏ bé, nghèo nàn, đã trở thành một đô thị rộng lớn với cơ sở hạ tầng và ngày càng khang trang, hiện đại, luôn giữ vị trí đầu tầu, nguồn động lực phát triển kinh tế khu vực và cả nước. Với dân số hiện nay khoảng 10 triệu người, tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 73,2% vào cuối năm 2023, Hà Nội là nơi thu hút khoảng 2/3 tổng số nhân lực về khoa học công nghệ trình độ cao, nơi đặt trụ sở chính của các viện nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện hàng đầu, là trung tâm văn hóa lớn nhất cả nước; là đầu mối giao thương, kết nối với các tỉnh, thành phố và quốc tế.

Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn Hà Nội từ 2008 đến nay đều hoàn thành và vượt kế hoạch được Trung ương giao. Hà Nội đã thu hút được trên 4.500 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 33 tỉ USD; các doanh nghiệp FDI đã đóng góp trên 10% thu ngân sách nhà nước, 11% số lao động trong các doanh nghiệp, 11% vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.

Theo Cục Thống kê Thành phố Hà Nội, Hà Nội luôn duy trì tăng trưởng cao, bình quân giai đoạn 2011 - 2022, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tăng gấp 1,12 lần so với mức tăng chung cả nước. Năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh được cải thiện, năng suất lao động năm 2022 đạt 291,3 triệu đồng/lao động (giá hiện hành), gấp 2,34 lần năm 2011 (124,5 triệu đồng/lao động) và gấp 1,6 lần bình quân cả nước (181,1 triệu đồng/lao động); tốc độ tăng trung bình giai đoạn 2012 - 2022 đạt 5,24%.

GRDP giai đoạn 2011 - 2022 (theo quy mô GRDP điều chỉnh) GRDP tăng bình quân 6,67%/năm. Riêng năm 2023, GRDP theo giá so sánh năm 2023 sơ bộ tăng 6,27% so với năm 2022. Chỉ số giá tiêu dùng giảm từ mức 18% năm 2011 còn 2,04% năm 2023, góp phần quan trọng ổn định tình hình kinh tế vĩ mô cả nước.

Xuất, nhập khẩu duy trì tăng trưởng, giai đoạn 2011 - 2023, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 4,57%, nhập khẩu tăng 3,28%. Năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hơn 54 tỉ USD, gấp 1,54 lần so với năm 2011 (35,13 tỉ USD).

Năm 2019 (trước dịch Covid-19), ngành du lịch Thủ đô Hà Nội đón 21,92 triệu lượt khách nội địa (gấp 1,9 lần năm 2011) và 7,02 triệu lượt khách quốc tế (gấp 3,7 lần năm 2011), chiếm trên 37% lượng khách quốc tế của cả nước. Đến năm 2023, ngành du lịch phục hồi mạnh mẽ trở lại sau đại dịch Covid-19, khách nội địa đạt 20 triệu lượt và khách quốc tế đạt 4,72 triệu lượt - vượt mục tiêu đề ra, đóng vai trò là trung tâm điều phối du lịch lớn nhất khu vực phía Bắc. Hà Nội được xếp hạng trong nhóm 10 thành phố có tăng trưởng du lịch nhanh nhất thế giới, đứng thứ 15 trong danh sách 25 điểm đến du lịch phổ biến nhất trên thế giới, sở hữu bộ sưu tập nhiều danh hiệu vinh dự của Tổ chức Giải thưởng Du lịch thế giới, như “Điểm đến du lịch thành phố hàng đầu châu Á năm 2023”, “Điểm đến du lịch thành phố hàng đầu châu Á cho kỳ nghỉ ngắn ngày năm 2023” và “Cơ quan quản lý du lịch Thành phố hàng đầu châu Á”; “Điểm đến Du lịch 19 Thành phố hàng đầu Thế giới 2023”. Hà Nội còn là Thành phố đầu tiên của Việt Nam gia nhập Mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO.

Đặc biệt, 100% các huyện và xã của Thành phố đã đạt chuẩn nông thôn mới. Thành phố hiện có 285 mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; giá trị sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao chiếm khoảng 40% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Đẩy mạnh ứng dụng Hệ thống truy xuất nguồn gốc nông, lâm, thủy sản thực phẩm Hà Nội. Lũy kế đến nay, Thành phố có 2.167 sản phẩm OCOP. Một số lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao đã có bước phát triển khá như: Điều khiển kỹ thuật số, tự động hóa, rô-bốt, nano, plasma, laser, công nghệ sinh học. Thực hiện chủ trương phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực, trong hai năm 2021 - 2022 đã có 55 doanh nghiệp với 79 sản phẩm; năm 2023 có 33 sản phẩm của 24 doanh nghiệp được công nhận là sản phẩm công nghiệp chủ lực của Thành phố. Bình quân giai đoạn 2021 - 2023, tốc độ tăng năng suất lao động đạt 5,4%.

Trong giai đoạn 2011 - 2022, năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) của Hà Nội luôn tăng trưởng ổn định, phản ánh những nỗ lực trong cải cách thể chế và nâng cao năng suất các nhân tố sản xuất của Thành phố. Cụ thể, giai đoạn 2011 - 2015, đóng góp của TFP bình quân đạt 46,29%; giai đoạn 2016 - 2020, con số này tăng lên 49,24%. Đến giai đoạn 2021 - 2022, tỉ trọng đóng góp của TFP tăng lên 52,65%, cho thấy nền kinh tế đã dần phục hồi sau đại dịch và các chính sách khuyến khích đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất đã có tác động tích cực. Tỉ trọng đóng góp của TFP vào tăng trưởng GRDP của Hà Nội tăng dần qua các năm, phản ánh xu hướng tích cực trong việc dịch chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất.

Hạ tầng thương mại nội địa như trung tâm logistics, cảng cạn, trung tâm thương mại, siêu thị, chợ… được chú trọng phát triển; các hình thức thanh toán trên nền tảng công nghệ hiện đại, thương mại điện tử tăng mạnh, hiện chiếm khoảng 7% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ.

Giai đoạn 2011 - 2023, tổng thu ngân sách nhà nước đạt 3,08 triệu tỉ đồng, tăng bình quân 10,65%/năm. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội huy động gần 4,16 triệu tỉ đồng, tăng hằng năm 9,47%. Cơ cấu đầu tư xã hội dịch chuyển rõ nét: Khu vực nhà nước giảm từ 51% năm 2010 xuống còn khoảng 34,3% năm 2023; khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh, từ 35,3% lên khoảng 59%. Xã hội hóa đầu tư được đẩy mạnh, nhất là đối với các lĩnh vực: Cấp nước, bãi đỗ xe, xử lý chất thải, nước thải, hạ tầng công nghệ thông tin, giáo dục, y tế...

Hà Nội hiện có 1.350 làng nghề và làng có nghề, thu hút hàng chục nghìn lao động, trong đó 313 làng được công nhận là làng nghề, làng nghề truyền thống. Hà Nội cũng là địa phương luôn dẫn đầu cả nước về doanh thu công nghiệp ICT (đạt khoảng 320 nghìn tỉ đồng), với khoảng gần 8.500 doanh nghiệp công nghệ thông tin và có 2/5 khu công nghiệp công nghệ thông tin tập trung của cả nước.

Chuyển đổi số trong các cơ quan hành chính nhà nước Thành phố Hà Nội được chỉ đạo triển khai quyết liệt. Việc triển khai Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030” (Đề án 06) trên địa bàn Thành phố đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, được Chính phủ đánh giá cao với vai trò là đơn vị làm điểm của cả nước. Xếp hạng chỉ số thương mại điện tử của Hà Nội đứng thứ hai trên toàn quốc, tỉ lệ dân số trưởng thành có điện thoại thông minh đạt 78%, tỉ lệ hộ gia đình có truy nhập Internet băng rộng đạt 90%. Mạng lưới khám, chữa bệnh trực tuyến đã kết nối thêm 1.000 cơ sở y tế khám chữa bệnh từ xa, nhờ vậy, tỉ lệ chuyển tuyến giảm xuống dưới 10%, giúp tiết kiệm hàng nghìn tỉ đồng và giảm tải cho hệ thống y tế. Thành phố hiện đã có 4,4 triệu người có thẻ bảo hiểm y tế được đồng bộ dữ liệu, có thể sử dụng căn cước công dân để đi khám chữa bệnh; có 503 cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế đã áp dụng sử dụng căn cước công dân tra cứu khám chữa bệnh.

Theo Chương trình Chuyển đổi số của Thành phố Hà Nội đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Hà Nội phấn đấu đến năm 2030 là Trung tâm khởi nghiệp sáng tạo của cả nước và lọt vào top 3 địa phương dẫn đầu cả nước về chuyển đổi số, về công nghệ thông tin, về chỉ số cạnh tranh, về đổi mới sáng tạo, về an toàn, an ninh mạng; giá trị đạt được của kinh tế số chiếm trên 40% GRDP và năng suất lao động tăng bình quân trên 7,5%/năm… Thành phố cũng tích cực đẩy mạnh các hoạt động thu hút đầu tư, tiêu biểu như các dự án trong Khu công nghệ cao Hòa Lạc: Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia; Trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp khu vực phía Bắc; Trung tâm ươm tạo và đào tạo công nghệ cao…

Cũng theo Cục Thống kê Thành phố Hà Nội, 9 tháng năm 2024, kinh tế Thủ đô tiếp tục tăng cả về lượng và chất, cả trong công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp; GRDP của Thành phố tăng khoảng 6,12% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng khoảng 2,47%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,74%; khu vực dịch vụ tăng 6,76%; thuế sản phẩm (trừ trợ cấp sản phẩm) tăng 3,54%. Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Thành phố đạt 351,8 nghìn tỉ đồng, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, vốn Nhà nước đạt 130,3 nghìn tỉ đồng, tăng 17,8%; vốn ngoài nhà nước đạt 198,3 nghìn tỉ đồng, tăng 5,2%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 23,2 nghìn tỉ đồng, tăng 7,7%. Toàn Thành phố thu hút 1,5 tỉ USD vốn FDI. Thành phố đã cấp giấy chứng nhận cho 21,8 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với vốn đăng ký 199 nghìn tỉ đồng; 7,6 nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại… Tỉ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng được duy trì 100%, đảm bảo chất lượng và đúng hạn.

Thị trường trong nước tăng khá, với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 619,7 nghìn tỉ đồng, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước. Hà Nội đã thu hút gần 4,6 triệu lượt khách du lịch, tăng 31,3%; trong đó, khách quốc tế đạt 3.156 nghìn lượt người, tăng 41,5%... Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 14,4 tỉ USD, tăng 16,8%; kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 30,5 tỉ USD, tăng 13%. Bình quân 9 tháng năm 2024, CPI tăng 4,88% so với bình quân cùng kỳ năm trước, trong đó 10/11 nhóm hàng CPI bình quân tăng. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn Thành phố tăng khoảng 23,1%; tổng chi ngân sách địa phương tăng 20,2%.

Các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng. Theo đó, các TCTD trên địa bàn đã thực hiện nghiêm quy định về lãi suất do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định, lãi suất huy động tương đối ổn định, mặt bằng lãi suất huy động ở mức thấp. Tính đến cuối tháng 9/2024, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn Thành phố đạt khoảng 5.611 nghìn tỉ đồng, so với thời điểm cuối tháng trước và thời điểm kết thúc năm 2023, tăng 0,71% và tăng 5,16%; trong đó tiền gửi đạt 4.961 nghìn tỉ đồng, tăng 0,8% và tăng 6,24%; phát hành giấy tờ có giá đạt 650 nghìn tỉ đồng, tăng 0,04% và giảm 2,43%. Tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn Thành phố đạt 4.072 nghìn tỉ đồng, so với cuối tháng trước và so với thời điểm cuối năm 2023, tăng 0,78% và tăng 12,59%. Tỉ lệ nợ xấu của các TCTD chiếm 1,69% trong tổng dư nợ; tình hình thanh khoản của các TCTD trên địa bàn đảm bảo. Cho vay theo chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp chiếm 13,97% trong tổng dư nợ cho vay nền kinh tế; cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 18,9%; cho vay chương trình nông nghiệp, nông thôn chiếm 8,93%; cho vay xuất khẩu chiếm 5,14%; cho vay công nghiệp hỗ trợ chiếm 2,32%...

Hạ tầng kinh tế - xã hội Thủ đô ngày càng đồng bộ và hiện đại. Nhiều khu đô thị hiện đại và dự án giao thông quan trọng được triển khai, có tính liên vùng: Dự án đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô; tuyến đường kết nối đường Pháp Vân - Cầu Giẽ và đường Vành đai 3; tuyến đường cao tốc Đại lộ Thăng Long, đoạn nối từ Quốc lộ 21 đến cao tốc Hòa Lạc - Hòa Bình…; một số công trình giao thông trọng điểm, cấp bách trên địa bàn đã được hoàn thành như: đường Vành đai 2 đoạn Nhật Tân - Cầu Giấy, đoạn Ngã Tư Sở - Ngã Tư Vọng; nút giao thông trung tâm quận Long Biên; cầu vượt nút Bắc Hồng (huyện Đông Anh); đường Vành đai 1 đoạn Ô Đông Mác - Nguyễn Khoái… Hiện nay, Thủ đô đang tăng cường hiện đại hóa các tuyến đường trục giao thông chính của Thủ đô, phát triển hệ thống giao thông công cộng đồng bộ có sức chở lớn, bến, bãi đỗ xe và đẩy nhanh tiến độ các dự án giao thông trên cao, đường sắt đô thị nổi và ngầm, các công trình ngầm gắn với khả năng kết nối đồng bộ giữa các loại hình vận tải hành khách công cộng… Tổng chiều dài đường bộ trên địa bàn Thủ đô hiện đạt trên 23.400 km (tăng khoảng 3.700 km so với năm 2010). Tỉ trọng diện tích đất dành cho giao thông trên đất đô thị đạt 10,07%. Mạng lưới xe buýt Hà Nội gồm 154 tuyến đã tiếp cận 30/30 quận, huyện, thị xã và kết nối với 7 tỉnh thành lân cận như: Hưng Yên, Hà Nam, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hòa Bình, Vĩnh Phúc. Sản lượng vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt đạt khoảng 340 triệu lượt hành khách/năm.

2. Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế Thủ đô thời gian tới

Trong từng giai đoạn xây dựng và phát triển, Thủ đô Hà Nội luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, của các cấp, các ngành, địa phương và của Nhân dân cả nước. Bộ Chính trị đã ban hành nhiều nghị quyết để lãnh đạo công cuộc xây dựng, phát triển Thủ đô, tiêu biểu là Nghị quyết số 15-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) ngày 15/12/2000 "Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ 2001 - 2010", Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 06/01/2012 của Bộ Chính trị về “Phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011 - 2020” và mới đây nhất là Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 05/5/2022 về “Phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô
Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Nghị quyết 15-NQ/TW).

Nghị quyết số 15-NQ/TW không chỉ thể hiện sự nhất quán và tiếp nối tinh thần các nghị quyết trước, mà còn bổ sung nhiều định hướng, chủ trương lớn, yêu cầu nhiệm vụ mới và cao hơn, mục tiêu đi xa hơn, khát vọng cháy bỏng hơn cho Thủ đô năm 2030, tầm nhìn năm 2045 phù hợp với tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; đặc biệt, Nghị quyết đề ra 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, trong đó:

Nâng cao nhận thức về xây dựng Thủ đô Hà Nội "Văn hiến - Văn minh - Hiện đại", trung tâm đầu não chính trị - hành chính của quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, kinh tế và hội nhập quốc tế; phát huy mạnh mẽ truyền thống cách mạng, ngàn năm văn hiến, anh hùng, hòa bình, hữu nghị, tinh thần chủ động, sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên của cán bộ, đảng viên và nhân dân Hà Nội.

Phát triển kinh tế Thủ đô nhanh và bền vững trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, lấy khoa học, công nghệ cao và đổi mới sáng tạo là động lực then chốt để phát triển kinh tế - xã hội; phát huy hiệu quả nguồn lực trí tuệ con người, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ và thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số và các mô hình kinh tế mới gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động. Hỗ trợ phát triển bền vững, đồng bộ các thị trường; xây dựng một số ngành, sản phẩm công nghiệp sử dụng công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, giá trị gia tăng cao; phát triển các sản phẩm làng nghề, nhất là các làng nghề truyền thống và các dịch vụ đặc trưng của Thủ đô. Ưu tiên phát triển sản xuất công nghiệp - công nghệ cao và các loại dịch vụ có giá trị gia tăng cao, công nghiệp văn hóa, du lịch; phát triển nông nghiệp sinh thái, công nghệ cao; phấn đấu trở thành địa phương đi đầu trong phát triển nông nghiệp sinh thái…; Thu hút có chọn lọc đầu tư nước ngoài gắn với quá trình tái cơ cấu kinh tế; tạo thuận lợi và tiết giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế.

Xây dựng Hà Nội thực sự là trung tâm hội tụ, kết tinh văn hóa, là trung tâm lớn về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế của cả nước, trở thành nguồn lực phát triển mới cho Thủ đô; xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh, bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân Thủ đô. Xây dựng Hà Nội trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo, nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ hàng đầu của cả nước và khu vực, thu hút, phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu trong nước và quốc tế vào sự nghiệp xây dựng, phát triển Thủ đô. Thực hiện đồng bộ các chính sách xã hội, phấn đấu không còn hộ nghèo theo chuẩn của Thủ đô; giải quyết hiệu quả các tệ nạn xã hội.

Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, thực hiện nghiêm việc quản lý quy hoạch, vừa phát huy tiềm năng, lợi thế sẵn có, vừa tạo ra nguồn lực, không gian và động lực phát triển mới cho Thủ đô, gắn kết hài hòa, hợp lý, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các địa phương khác trong vùng và cả nước; trọng tâm là Quy hoạch Thủ đô thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050…; xây dựng mô hình thành phố trực thuộc Thủ đô và đô thị thông minh; phát triển không gian ngầm đô thị, không gian xanh và không gian công cộng…

Tập trung đầu tư phát triển, nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của Thủ đô một cách tổng thể, đồng bộ, hiện đại và hiệu quả, liên kết vùng đô thị phía Bắc và cả nước. Khai thác, sử dụng có hiệu quả và bền vững nguồn lực về tài nguyên, nhất là đất đai; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu; hướng tới xây dựng Thủ đô xanh, sạch, đẹp, phát triển bền vững; cải thiện chất lượng không khí; xử lý cơ bản ô nhiễm môi trường nước các hệ thống sông, hồ.

Bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội Thủ đô trong mọi tình huống. Đẩy mạnh công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế, hợp tác phát triển, nâng cao vị thế, uy tín của Thủ đô.

Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có năng lực, trình độ cao, chuyên nghiệp, có bản lĩnh, phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có ý chí vươn lên, khát vọng cống hiến cho sự nghiệp phát triển Thủ đô. Có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm thu hút, trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước và quốc tế; thực hiện tốt cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, vì lợi ích chung theo quy định.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về Thủ đô với cơ chế, chính sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu phát triển Thủ đô trong giai đoạn mới. Tăng cường phân cấp, phân quyền cho Thủ đô trên một số lĩnh vực nhằm tạo sự chủ động, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Thủ đô gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực; các chương trình, dự án kết nối liên vùng, liên tỉnh, phục vụ đa mục tiêu, kết nối hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực của vùng…

Nghị quyết số 15-NQ/TW cũng chính là cơ sở để hoàn chỉnh hệ thống Luật Thủ đô, hoàn thiện hệ thống pháp luật với các cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội cho Thủ đô với mục tiêu cao nhất xây dựng Thủ đô Hà Nội trở thành Thành phố "Văn hiến - Văn minh - Hiện đại".

Theo đó, Luật Thủ đô năm 2024 đã được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 7 sáng 28/6/2024, với hai nhóm cơ chế chính sách có hiệu lực từ ngày 01/01/2025 và từ ngày 01/7/2025; trong đó, nổi lên hai vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tạo đột phá trong cả nhận thức và thể chế về đầu tư trên địa bàn Thủ đô: Lần đầu tiên Hà Nội được phép lập Quỹ đầu tư mạo hiểm có sử dụng ngân sách Nhà nước để đầu tư vốn vào các doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trong các lĩnh vực trọng điểm về khoa học, công nghệ của Thành phố nhằm hỗ trợ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và thương mại hóa sản phẩm khoa học, công nghệ. Nếu được thiết kế tốt và có quy mô đủ lớn, được vận hành nghiêm túc và chuyên nghiệp, thì đây sẽ là công cụ mới đầy sức mạnh và hiệu quả được kỳ vọng sẽ tạo đột phá trong dùng ngân sách Nhà nước đầu tư mới, tạo tác động lan tỏa phát triển khoa học công nghệ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực công nghệ cao và phát triển mô hình kinh doanh mới trên địa bàn Thủ đô.

Hơn nữa, với sự phân cấp mạnh về thẩm quyền đầu tư không giới hạn quy mô vốn với các dự án không dùng vốn ngân sách Nhà nước và được nhận ủy quyền cho phép quyết định đầu tư các dự án dùng vốn ngân sách Nhà nước thuộc thẩm quyền Quốc hội và Chính phủ, với điều kiện không làm tăng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách trung ương, nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi của nước ngoài... thì thực sự Hà Nội đã có trong tay bộ công cụ rất mạnh để tạo đột phá trong đầu tư các dự án trọng điểm trên địa bàn Thủ đô.

Với những nội dung phân cấp, phân quyền mới mang tính đột phá, Luật Thủ đô là minh chứng mới nhất và bền vững cho lòng tin yêu, sự tin cậy và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và cả nước với Thủ đô. Thực hiện tốt Luật Thủ đô vừa là quyền lợi to lớn, vừa là trách nhiệm cao cả của Thành phố Hà Nội và cả nước.

Để tạo sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động của toàn Đảng bộ, hệ thống chính trị và Nhân dân Thủ đô
Hà Nội trong triển khai Nghị quyết số 15-NQ/TW và Luật Thủ đô năm 2024, Đảng bộ và chính quyền Thành phố Hà Nội đã phối hợp với các cơ quan Trung ương tổ chức nghiêm túc các hoạt động tuyên truyền, quán triệt và phổ biến nội dung và tinh thần; xây dựng và triển khai Chương trình hành động số 16-CTr/TU của Đảng bộ thành phố thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW. Chương trình hành động đã xác định 4 mục đích, yêu cầu, các nhóm chỉ tiêu đến năm 2025, đến năm 2030 và 8 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu được cụ thể hóa thành hơn 130 nhiệm vụ, đề án để ưu tiên tập trung lãnh đạo, chỉ đạo. Đồng thời, thành lập tổ công tác liên ngành triển khai Luật Thủ đô.

Thành phố cũng cần đẩy mạnh hoạt động đối ngoại phục vụ kinh tế, đưa các quan hệ hợp tác đối tác đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; củng cố và phát triển mối quan hệ với các đối tác láng giềng hữu nghị truyền thống, các nước lớn, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện đang có đà phát triển thuận lợi và các đối tác tiềm năng khác; tăng cường quảng bá hình ảnh và thúc đẩy các cơ hội hợp tác đầu tư, thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu hút đầu tư nước ngoài vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập và nâng cao vị thế Thủ đô…; thúc đẩy công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị theo hướng thông minh, xanh và bền vững, cải thiện các chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; khắc phục tình trạng trì trệ, chồng chéo, xử lý nghiêm cán bộ sợ sai, sợ trách nhiệm, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm khi thực thi công vụ...; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và người dân tiếp cận nguồn vốn với chi phí thấp hơn; đẩy mạnh các hoạt động khuyến công và khuyến khích thu hút đầu tư các cụm công nghiệp, hình thành các khu công nghiệp xanh, sinh thái, thông minh; phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực và phát triển nông nghiệp sinh thái, xanh, tuần hoàn; tăng tốc đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế lấy khoa học và công nghệ cao làm trục xuyên suốt; nâng cao mức đóng góp của TFP và kinh tế số trong GRDP; phát triển hạ tầng số làm nền tảng cho xây dựng chính quyền số, kinh tế số, xã hội số; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, gắn đào tạo nghề với nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp, thị trường lao động, đáp ứng yêu cầu phát triển; tập trung phát triển các ngành, lĩnh vực có lợi thế, tiềm năng của Thành phố, gồm: Công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp bán dẫn, dịch vụ logistics, thương mại điện tử, du lịch, giáo dục, y tế...; hình thành mạng lưới kinh doanh thương mại hiện đại khu vực ngoại thành.

Đặc biệt, Hà Nội cần đoàn kết thống nhất, hành động quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm; phân công thực hiện “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời gian thực hiện, rõ hiệu quả, rõ sản phẩm” như tinh thần cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo; đa dạng hóa và gia tăng các nguồn lực, làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống từ đổi mới tư duy, đổi mới phương thức cách làm và đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển các chuỗi liên kết sản xuất và mô hình kinh doanh mới, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ, kinh tế ban đêm, củng cố và phát huy hiệu quả các giá trị văn hóa, phẩm chất con người Thủ đô Hà Nội…

Tóm lại, trong thời gian tới, cần xác lập nền tảng quan trọng và tạo bước chuyển có tính đột phá trong huy động sức mạnh tổng hợp, cộng hưởng và khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế của Thủ đô, mang lại hiệu quả tích cực trong công cuộc xây dựng và phát triển Hà Nội theo "tầm nhìn mới - tư duy mới”, "cơ hội mới - giá trị mới" để từng bước trở thành Thủ đô "Văn hiến - Văn minh - Hiện đại", “Thành phố Thông minh”, “Thành phố sáng tạo”, xanh, sạch, đẹp, an ninh, an toàn, thực sự xứng đáng là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ và hội nhập quốc tế; phát triển nhanh, bền vững, có sức lan tỏa, để cùng thúc đẩy vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước cùng phát triển, góp phần hiện thực hóa khát vọng xây dựng Tổ quốc Việt Nam hùng cường, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh… theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng và vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu theo di nguyện thiêng liêng của Hồ Chủ tịch..!


1 Điều chỉnh địa giới hành chính Thành phố Hà Nội (1961 - 2008), https://baotanghanoi.com.vn/tin-tuc-su-kien/dieu-chinh-dia-gioi-hanh-chinh-thanh-pho-ha-noi-1961-2008-25571

2 Báo Quân đội nhân dân, 15 năm mở rộng địa giới hành chính Thủ đô cuộc kiến tạo mang tầm vóc lịch sử. https://media.qdnd.vn/
3 Báo Quân đội nhân dân. https://www.qdnd.vn/ho-so-su-kien/loi-bac-day-nam-xua/ca-nuoc-nhin-ve-thu-do-ta-the-gioi-trong-vao-thu-do-ta-551528

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Kết luận của Bộ Chính trị về Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Đồ án Điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065.
3. Luật Thủ đô năm 2020.
4. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội Hà Nội hằng tháng và cả năm giai đoạn từ 2008 - 2020.
5. Quyết định số 4279/QĐ-UBND ngày 17/8/2024 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội thành lập Tổ công tác, Tổ giúp việc triển khai thi hành Luật Thủ đô.
6. Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 22/02/2022 của Thành ủy Hà Nội về phát triển công nghiệp văn hóa trên địa bàn Thủ đô giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
7.
https://bvhttdl.gov.vn/ha-noi-phat-trien-thanh-pho-sang-tao-thanh-san-pham-du-lich-sang-tao-20240308103509448.htm
8. https://dangcongsan.vn/tieu-diem/vung-vang-vuot-qua-moi-kho-khan-thach-thuc-hoan-thanh-thang-loi-muc-tieu-da-de-ra-629177.html
9. https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/276/ha-noi-mo-rong---nhung-co-hoi-va-thach-thuc-moi.aspx
10. https://www.qdnd.vn/xa-hoi/cac-van-de/ha-noi-thanh-tuu-va-thach-thuc-sau-15-nam-mo-rong-744280
11. https://tuyengiao.vn/ha-noi-thanh-tuu-thoi-co-thach-thuc-va-phat-trien-67327

12. https://special.nhandan.vn/lang-nghe-pho-nghe-cong-nghiep-van-hoa-thu-do/index.html

TS. Nguyễn Minh Phong

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Những thách thức về biến đổi khí hậu và hàm ý chính sách đối với nợ công

Những thách thức về biến đổi khí hậu và hàm ý chính sách đối với nợ công

Biến đổi khí hậu là thách thức toàn cầu, đòi hỏi đầu tư tài chính lớn, đặc biệt từ ngân sách nhà nước và sự hỗ trợ của các nước phát triển. Việc cân bằng giữa mục tiêu khí hậu và tính bền vững nợ công là vấn đề phức tạp. Bài viết phân tích những hạn chế tài chính mà các nhà hoạch định chính sách gặp phải và đề xuất một số hàm ý chính sách.
Gợi mở hướng đi cho ngân hàng Việt vươn ra thế giới trong kỷ nguyên số

Gợi mở hướng đi cho ngân hàng Việt vươn ra thế giới trong kỷ nguyên số

Ngày 05/5/2025, tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà, Thời báo Ngân hàng đã tổ chức Diễn đàn “Đưa thương hiệu Việt Nam ra thế giới và gợi ý với hệ thống ngân hàng”, với sự tham dự của 150 đại biểu là đại diện lãnh đạo các vụ, cục thuộc NHNN; các bộ, ngành liên quan; các chuyên gia, tổ chức tài chính uy tín trong nước và quốc tế… Tại Diễn đàn, các chuyên gia đều nhấn mạnh, thương hiệu là giá trị vô cùng quan trọng của doanh nghiệp và cơ sở để xây dựng thương hiệu chính là niềm tin của người dùng.
Thủ tướng: Năm 2025, dự kiến quy mô kinh tế Việt Nam trên 500 tỷ USD

Thủ tướng: Năm 2025, dự kiến quy mô kinh tế Việt Nam trên 500 tỷ USD

Trình bày Báo cáo của Chính phủ tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ 11 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới, với mục tiêu năm 2025 tăng trưởng GDP từ 8% trở lên, quy mô nền kinh tế đạt trên 500 tỷ USD (dự kiến đứng thứ 30 trên thế giới, tăng 2 bậc), GDP bình quân đầu người đạt trên 5.000 USD.
Thư chúc mừng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nhân dịp kỷ niệm 74 năm thành lập ngành Ngân hàng Việt Nam

Thư chúc mừng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nhân dịp kỷ niệm 74 năm thành lập ngành Ngân hàng Việt Nam

Tạp chí Ngân hàng trân trọng giới thiệu Thư chúc mừng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nhân dịp kỷ niệm 74 năm thành lập ngành Ngân hàng Việt Nam (6/5/1951 - 6/5/2025).
Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Sáng 30/4, Tổng Bí thư Tô Lâm đã đọc diễn văn tại Lễ kỷ niệm, diễu binh, diễu hành 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025). Trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của đồng chí Tô Lâm.
Bức thư gửi về quá khứ

Bức thư gửi về quá khứ

Trong không khí tươi vui của những ngày mừng Xuân đại thắng, "Bức thư gửi về quá khứ" không chỉ là lời tri ân sâu sắc đến thế hệ cha ông đã hi sinh vì độc lập dân tộc, mà còn là nhịp cầu kết nối giữa quá khứ huy hoàng và tương lai rạng rỡ, giữa những năm tháng lịch sử gian lao và một non sông hôm nay hùng cường, thịnh vượng, vững vàng bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Một số giải pháp chính sách thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội tại Việt Nam

Một số giải pháp chính sách thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội tại Việt Nam

Mặc dù Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và hỗ trợ nguồn lực để phát triển nhà ở xã hội, nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu thực tế của người dân, nhất là ở các đô thị lớn và khu công nghiệp. Bài viết đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội, dựa trên việc đánh giá các chính sách qua các giai đoạn từ khi có Luật Nhà ở đầu tiên.
Thực thi ESG: Chiến lược phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới

Thực thi ESG: Chiến lược phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới

Chiều 23/4/2025, Báo Dân trí tổ chức Diễn đàn ESG Việt Nam lần thứ nhất với chủ đề “Chiến lược phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới”. Diễn đàn đã khẳng định, ESG không chỉ là xu hướng, mà đang trở thành kim chỉ nam cho Việt Nam phát triển bền vững, tạo lợi thế cạnh tranh và hội nhập toàn cầu trong thời đại chuyển đổi xanh và số hóa nền kinh tế.
Xem thêm
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc