Những tác động tiêu cực của suy thoái sâu

Quốc tế
Một phân tích về hậu quả của các cuộc khủng hoảng kinh tế ở 24 quốc gia trong hơn 50 năm qua đã chỉ ra rằng, việc các nền kinh tế quay trở lại mức tăng trưởng trước đó sau suy thoái là khó dự đoán, vì còn phụ thuộc vào độ sâu của suy thoái. Những tác động tiêu cực của suy thoái nghiêm trọng mang tính dai dẳng và lâu dài.
aa

Một phân tích về hậu quả của các cuộc khủng hoảng kinh tế ở 24 quốc gia trong hơn 50 năm qua đã chỉ ra rằng, việc các nền kinh tế quay trở lại mức tăng trưởng trước đó sau suy thoái là khó dự đoán, vì còn phụ thuộc vào độ sâu của suy thoái. Những tác động tiêu cực của suy thoái nghiêm trọng mang tính dai dẳng và lâu dài.

Triển vọng kinh tế ngắn hạn đối với thế giới là khá ảm đạm

Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), trong bối cảnh lạm phát cao nhất trong nhiều thập kỉ, khủng hoảng năng lượng, đại dịch Covid-19 kéo dài và xung đột quân sự ở Ukraine, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ giảm gần một nửa trong năm 2023 so với mức 6% của năm 2022 và tốc độ giảm thậm chí mạnh hơn đến mức trì trệ 2,7% vào năm 2023. Liệu các nền kinh tế lớn có tránh được suy thoái trong bối cảnh bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ để chống lạm phát - là câu hỏi luôn được đưa ra trong các cuộc thảo luận. Trong khi đó, việc các nền kinh tế quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng trong tương lai là điều không gây bàn cãi.

Tuy nhiên, trong thực tế, điều này không phải lúc nào cũng đúng. Chẳng hạn, sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng trưởng GDP ở nhiều nước phát triển vẫn thấp hơn đáng kể so với xu hướng trước khủng hoảng trong một thời gian dài. Năm 2015, 23 quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) mất bình quân 8,4% sản lượng tiềm năng, tương đương 4,3 nghìn tỉ USD - tổn thất về sản lượng tiềm năng có sự khác biệt giữa các nước, dao động từ gần như bằng 0 ở Thụy Sĩ và Úc đến hơn 30% ở Hy Lạp, Hungary và Ireland (Laurence B. Ball, 2014). Có hai kết luận có thể rút ra từ dữ liệu trên: (i) Ở hầu hết các quốc gia, tổn thất sản lượng tiềm năng lớn gần bằng mức thiếu hụt sản lượng thực tế so với xu hướng trước khủng hoảng. Điều này ngụ ý rằng hiệu ứng trễ đã rất mạnh trong cuộc Đại suy thoái 2008 - 2009; (ii) Tại các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi suy thoái, tốc độ tăng trưởng của sản lượng tiềm năng ngày nay thấp hơn đáng kể so với trước năm 2008. Tốc độ tăng trưởng chậm lại này có nghĩa là mức sản lượng tiềm năng có thể sẽ còn giảm sâu hơn nữa so với xu hướng trước khủng hoảng trong những năm tới.

Ngay cả những tác động ngắn hạn cũng có thể có hậu quả lâu dài - khủng hoảng có thể để lại "vết sẹo" cho nền kinh tế, đó là lí do tại sao khả năng phục hồi hoàn toàn là khó xảy ra.

Tuy nhiên, làm thế nào để xác định được liệu một cuộc khủng hoảng cụ thể có để lại “vết sẹo” hay không? Để trả lời câu hỏi này, nhóm tác giả bao gồm David Aikman, Giáo sư tài chính tại Trường Kinh doanh Hoàng gia London; Mikael Juselius, cố vấn nghiên cứu tại Ngân hàng Phần Lan; Matthias Dremann, nhà nghiên cứu tại Ngân hàng Thanh toán quốc tế và Xiaochuan Xing từ Đại học Yale đã thực hiện nghiên cứu các hiệu ứng đối với tăng trưởng từ các đợt suy giảm sâu. Nhóm tác giả kết luận rằng, thông thường, chỉ suy thoái sâu mới có tác động kìm hãm tăng trưởng dài hạn, trong khi những hiệu ứng của việc hạ cánh mềm có thể được các nền kinh tế xử lí tương đối nhanh chóng mà không ảnh hưởng đến quỹ đạo tăng trưởng (David Aikman et al., 2022).



Tích lũy vốn trong quá trình mở rộng kinh tế có thể có tác động tích cực dài hạn đến tăng trưởng GDP (Ảnh internet)


Khủng hoảng đặc biệt nguy hiểm

Sau khi nghiên cứu các cuộc khủng hoảng trong vòng 50 năm kể từ năm 1970 tại 24 quốc gia (19 nước phát triển và 5 nước đang phát triển); so sánh quỹ đạo dự báo tăng trưởng trước khủng hoảng của các nền kinh tế này trong 10 năm tới với quỹ đạo thực tế sau khủng hoảng, Aikman và các cộng sự nhận thấy, trong hầu hết các trường hợp, nền kinh tế nhanh chóng quay trở lại tốc độ tăng trưởng dài hạn trước khủng hoảng.

Các cuộc khủng hoảng có ảnh hưởng đến động lực của GDP 10 năm sau đó chiếm tỉ trọng khoảng 20% trong mẫu nghiên cứu. Những “vết sẹo” tăng tỉ lệ thuận với độ sâu của suy thoái. Những "vết sẹo" sâu nhất vẫn còn sau những cuộc suy thoái sâu nhất, trung bình khoảng 5%: Sau các đợt suy thoái sâu, tăng trưởng kinh tế trong 10 năm sau đó ở mức 4,25 điểm phần trăm, thấp hơn so với khi chưa diễn ra khủng hoảng. Với mức giảm nhỏ hơn 3 - 4 lần, GDP thực trong thập kỉ sau đó đã chậm lại trung bình 1,05 điểm phần trăm (David Aikman et al., 2022).

Các cuộc suy thoái ít sâu hơn, nghĩa là, 80% còn lại trong mẫu nghiên cứu thường không gây ra hậu quả lâu dài. Sau “điểm tới hạn”, độ sâu của suy thoái để lại “vết sẹo”, có sự khác biệt tùy thuộc vào phương pháp đánh giá; tuy nhiên, kết luận chỉ ra một cuộc suy thoái tương đối mạnh mới gây ra tác động tiêu cực lâu dài đã được xác nhận bằng bất kì phương pháp tính toán, cho bất kì quốc gia và bất kì thời kì nào.

Để tìm hiểu xem liệu tất cả các cuộc suy thoái sâu hay chỉ một trong số chúng có thể gây ra các tổn thất dài hạn hay không, nghiên cứu tập trung vào một mẫu khảo sát gồm 198 cuộc suy thoái kinh tế tồi tệ nhất (từ 5% trở lên), sau khi xác định nguyên nhân của chúng. Hầu hết các cuộc suy thoái này đều do một trong ba nguyên nhân: 100 trường hợp - khủng hoảng tài chính ngân hàng; 19 trường hợp - cú sốc dầu mỏ đầu những năm 1970; 51 trường hợp - thắt chặt tiền tệ.

Các tính toán đã chỉ ra rằng, một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng làm chậm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trong 10 năm tới, trung bình 5,6 điểm phần trăm, tác động của chính sách thắt chặt tiền tệ có cường độ yếu gần gấp đôi. Các cuộc khủng hoảng dầu mỏ để lại những "vết sẹo" sâu sắc nhất - chúng làm chậm tốc độ tăng trưởng nền kinh tế trong dài hạn gấp 1,5 lần so với cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng nhất. Nhưng nói chung, nguyên nhân cụ thể của suy thoái kinh tế không có ý nghĩa đối với việc, liệu nó có “đánh bật” nền kinh tế khỏi quỹ đạo tăng trưởng trước đó hay không.


Hậu quả của các cuộc khủng hoảng

Các cuộc suy thoái gây ra bởi những cú sốc bên ngoài cũng như những sai lầm trong chính sách kinh tế vĩ mô và khủng hoảng chính trị có thể dẫn đến tổn thất dài hạn cho nền kinh tế là một trong những gợi ý đầu tiên vào những năm 2000 của các nhà kinh tế IMF Valerie Serra và Sveta Chaman Saxena. Theo tính toán của họ, dựa trên dữ liệu từ 190 quốc gia kể từ năm 1960, khủng hoảng cán cân thanh toán dẫn đến tổn thất dài hạn trung bình khoảng 5 điểm phần trăm tăng trưởng, khủng hoảng ngân hàng khoảng 10 điểm phần trăm tăng trưởng và nếu nó đi kèm với khủng hoảng tiền tệ, thì tổng thiệt hại dài hạn có thể lên tới 15 điểm phần trăm (Valerie Cerra et al.,2018).

Các nghiên cứu kinh tế đã phân tích một số cơ chế gây nên những “vết sẹo” sau khủng hoảng trên “cơ thể” nền kinh tế. Những "vết sẹo" này có thể do trong thời kì suy thoái, các hoạt động đổi mới mang lại ít lợi nhuận hơn và doanh nghiệp giảm đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D), làm "đóng băng" sự phát triển của công nghệ trong một thời gian dài; xói mòn nguồn nhân lực do thất nghiệp kéo dài; thay đổi hành vi kinh tế và niềm tin của người dân; cú sốc cầu kìm hãm tăng trưởng sản lượng; sự suy giảm năng suất trong dài hạn do sự phá sản của các công ty có năng suất lao động cao và quá trình “zombification” nền kinh tế¹; làm suy yếu động lực theo đuổi các cải cách dài hạn của chính phủ. Ở giai đoạn này, quá trình phi toàn cầu hóa và phân mảnh nền kinh tế thế giới do đại dịch Covid-19 và xung đột quân sự kích hoạt, có thể trở thành một xúc tác bổ sung.

Nhưng nếu suy thoái mạnh có tác động tiêu cực trong dài hạn, thì các giai đoạn tăng trưởng nhanh có thể có tác động dài hạn tương tự, nhưng liệu có tích cực hay không? Khả năng này xuất phát từ lí thuyết tăng trưởng nội sinh, theo đó, tích lũy vốn trong quá trình mở rộng kinh tế có thể có tác động tích cực dài hạn đến động lực GDP do lợi nhuận không thể giảm theo quy mô. Tuy nhiên, các tính toán cho thấy rằng, ngay cả tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trên thực tế cũng không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng tiếp theo trong khoảng thời gian 10 năm (sau một thời gian mở rộng, chúng sẽ tiệm cận gần mức trung bình được quan sát trước khi tăng tốc).

Do đó, các tác động dài hạn là phi tuyến tính và bất đối xứng. Trong khi suy thoái kinh tế mạnh ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, thì suy thoái nông không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Các tác giả cho biết, kết quả của nghiên cứu mang ý nghĩa tức thời đối với các nhà hoạch định chính sách. Điều đầu tiên và quan trọng nhất là những cú sốc kinh tế mạnh có thể làm chậm tốc độ tăng trưởng GDP trong nhiều năm, vì vậy, nỗ lực chính của những người ra quyết định trong lĩnh vực chính sách tiền tệ, tài khóa, điều tiết vĩ mô cần tập trung vào việc ngăn chặn các đợt suy thoái kinh tế sâu. Thứ hai, nếu một cuộc suy thoái nghiêm trọng đã xảy ra thì không nên kì vọng rằng nền kinh tế sẽ sớm trở lại xu hướng trước khủng hoảng. Một ảo tưởng như vậy có thể dẫn đến việc đánh giá sai lầm chênh lệch sản lượng - chỉ số cho thấy mức độ tiệm cận sản lượng hiện tại với mức sản lượng tiềm năng dài hạn và mức chênh lệch sản lượng mà ngân hàng trung ương tính đến trong chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn cảnh báo, những cuộc suy thoái sâu kéo theo thời gian dài tăng trưởng thấp có thể gây khó khăn cho việc duy trì mức nợ bền vững - cho cả cá nhân và nhà nước.

Năm 2014, Olivier Blanchard, nguyên Cố vấn kinh tế và Trưởng bộ phận nghiên cứu của IMF, khi suy ngẫm về những bài học của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, đã nhấn mạnh bài học chủ yếu cho chính sách rất đơn giản: “Hãy tránh xa những góc tối” - những tình huống, trong đó, nền kinh tế có thể gặp trục trặc nghiêm trọng. Với một số biến động lớn đã xảy ra trong những năm gần đây, câu hỏi quan trọng hiện nay là liệu các nhà hoạch định chính sách có các công cụ để tránh hiện thực hóa những góc tối như vậy hay không? Aikman và cộng sự lập luận rằng: Có thể tác động của cuộc khủng hoảng hiện tại bị hạn chế, nhưng cũng có thể, ví dụ, sự gián đoạn nguồn cung sẽ trở nên tồi tệ hơn hoặc đại dịch sẽ bùng phát trở lại. “Nhưng điều rõ ràng là việc tập trung vào các mô hình kinh tế vĩ mô chuẩn với giả định rằng nền kinh tế chắc chắn sẽ phục hồi theo xu hướng trước đó sau một cú sốc, có thể gây hiểu nhầm, đặc biệt là vào những thời điểm rủi ro cao”.


¹The zombification of the economy đề cập đến tình huống, trong đó, các chương trình hỗ trợ của chính phủ và hoạt động cho vay của ngân hàng khiến các doanh nghiệp không thể sống sót vẫn tồn tại trên thị trường (doanh nghiệp zombie).

Tài liệu tham khảo

1. David Aikman et al. (2022). The scarring effects of deep contractions. Bank of Finland Research Discussion Papers. 12.2022.
2. Đại dịch doanh nghiệp zombie lan tràn khắp thế giới. https://cafebiz.vn/dai-dich-doanh-nghiep-zombie-lan-tran-khap-the-gioi176221121090824981.chn
3. Glenn Schepens et al (2020). Zombification in Europe in times of pandemic. https://cepr.org/voxeu/columns/zombification-europe-times-pandemic
4. Laurence M. Ball (2014). Long-term damage from the Great Ression in OECD countries. NBER.
5. Olivier Blanchard (2014). Where danger lurks. Finance & Development, September 2014, Vol 52, No 3.
6. Valerie Cerra et al. (2018). The Economic Scars of Crises and Recessions. https://www.imf.org/en/Blogs/Articles/2018/03/21/the-economic-scars-of-crises-and-recessions, truy cập ngày 15/12/2022.


Nhật Trung
Đại học Hòa Bình
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Xem thêm
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng