Luật Bảo hiểm tiền gửi: Sau 10 năm kiến tạo hành lang pháp lý cho chính sách bảo hiểm tiền gửi

Chính sách
Luật Bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13 là văn bản pháp lý cao nhất và toàn diện nhất về bảo hiểm tiền gửi (BHTG), xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức BHTG, cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của tổ chức tham gia BHTG, đối tượng được BHTG, tiền gửi được bảo hiểm, thời điểm chi trả bảo hiểm...
aa

Luật Bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13 là văn bản pháp lý cao nhất và toàn diện nhất về bảo hiểm tiền gửi (BHTG), xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức BHTG, cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của tổ chức tham gia BHTG, đối tượng được BHTG, tiền gửi được bảo hiểm, thời điểm chi trả bảo hiểm... qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động BHTG, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), đảm bảo sự phát triển an toàn và lành mạnh của hoạt động ngân hàng.

Ngay sau khi Luật BHTG được thông qua, một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành Luật được ban hành, đồng thời các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan cũng được rà soát, sửa đổi, bổ sung thay thế để đảm bảo hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về BHTG được cập nhật, thống nhất, phù hợp với Luật BHTG. Sau 10 năm đi vào cuộc sống, Luật BHTG đã phát huy hiệu quả tích cực và đạt được những kết quả nhất định.

Cụ thể, Luật BHTG quy định chi tiết các loại tiền gửi được bảo hiểm đảm bảo phù hợp và đồng bộ với chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam. Bên cạnh đó, Luật BHTG quy định đối tượng bảo hiểm là cá nhân có tiền gửi bằng đồng Việt Nam được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Quy định này đã thay đổi căn bản đối tượng được BHTG, hướng tới bảo vệ người gửi tiền là cá nhân không có nhiều cơ hội tiếp cận thông tin về tình hình tài chính ngân hàng.

Việc quy định rõ ràng loại tiền gửi không được bảo hiểm của các cá nhân có quyền lợi trực tiếp liên quan đến hoạt động của tổ chức tham gia BHTG giúp ngăn chặn hiện tượng trục lợi bảo hiểm cũng như nâng cao trách nhiệm của các cá nhân này trong việc điều hành tổ chức tham gia BHTG, qua đó, bảo vệ hiệu quả, minh bạch, thống nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.

Để đảm bảo tính linh hoạt trong việc quyết định mức phí BHTG và hạn mức chi trả bảo hiểm phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, mức sống của người dân trong từng thời kỳ, Luật BHTG không quy định cụ thể một mức phí và hạn mức chi trả mà giao Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí BHTG cũng như hạn mức trả tiền theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN). Đến nay, hạn mức chi trả BHTG là 125 triệu đồng đã có thể bảo vệ toàn bộ số tiền gửi cho hơn 91% số người gửi tiền được bảo hiểm tại Việt Nam.

Khi Quyết định số 32/2021/QĐ-TTg ngày 20/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về hạn mức trả tiền bảo hiểm có hiệu lực, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) đã thay đổi và cấp lại toàn bộ mẫu Chứng nhận tham gia BHTG và bản sao Chứng nhận tham gia BHTG cho 1.283 tổ chức tham gia BHTG, gồm: 97 ngân hàng, 01 ngân hàng hợp tác xã, 1.181 quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) và 04 tổ chức tài chính vi mô. Việc cấp Chứng nhận tham gia BHTG và bản sao được thực hiện kịp thời, tạo điều kiện để các tổ chức tham gia BHTG chấp hành đúng quy định về niêm yết bản sao Chứng nhận tham gia BHTG tại điểm giao dịch có nhận tiền gửi của cá nhân. Động thái này là một cam kết công khai tới người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG, tăng niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng, từ đó thu hút người dân có nguồn tiền nhàn rỗi gửi tại các tổ chức tham gia BHTG.

Nghiệp vụ giám sát từ xa luôn được BHTGVN chú trọng và nâng cao chất lượng để phân loại hoạt động của các TCTD. Qua đó, BHTGVN phát hiện một số trường hợp các tổ chức tham gia BHTG vi phạm quy định về BHTG cũng như quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro có thể gây mất an toàn trong hệ thống, từ đó có báo cáo, kiến nghị NHNN xử lý các trường hợp vi phạm. Đến nay, báo cáo giám sát định kỳ theo Quý của BHTGVN được NHNN coi như một kênh cảnh báo đáng tin cậy.

Từ năm 2013 đến nay, BHTGVN đã thực hiện gần 3.500 lượt kiểm tra tại chỗ việc chấp hành các quy định của pháp luật về BHTG tại tất cả các tổ chức tham gia BHTG. Ngoài ra, từ năm 2019, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Thống đốc NHNN, BHTGVN thực hiện kiểm tra đối với 46 QTDND, theo dõi và tham gia xử lý đối với các QTDND được kiểm soát đặc biệt (KSĐB) và cử cán bộ tham gia Ban KSĐB tại QTDND. Những nhiệm vụ này được BHTGVN chủ động phối hợp thực hiện, hỗ trợ chức năng kiểm tra của NHNN trong việc chấn chỉnh, tăng cường phòng, chống, ngăn ngừa vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động trong hệ thống QTDND.

Với sự lớn mạnh không ngừng về mọi mặt, BHTGVN từng bước tạo dựng, nâng cao, chiếm lĩnh được niềm tin của công chúng và các cơ quan, ban, ngành, đưa chính sách BHTG đi vào cuộc sống. Cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền chính sách BHTG trên các báo, tạp chí trong và ngoài Ngành, trong năm 2021, một số kênh truyền thông có lượng khán giả lớn đã được BHTGVN khai thác như VTV1, VTV2, VOV giao thông... Các chính sách mới về BHTG được tuyên truyền trên những kênh thông tin đại chúng một cách sâu rộng, đồng bộ đã tạo được hiệu ứng tích cực trong các tầng lớp dân cư. Đặc biệt, việc tuyên truyền về hạn mức trả tiền BHTG đã tạo được sức lan tỏa và dấu ấn trên các kênh truyền thông, hoàn thành mục tiêu truyền thông đối với hạn mức trả tiền bảo hiểm mới.

Trong thời gian tới, BHTGVN đang tích cực tập trung nguồn lực nghiên cứu, đề xuất nội dung sửa đổi, bổ sung Luật BHTG phù hợp với định hướng của NHNN, đảm bảo đồng bộ với quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD và định hướng Chiến lược phát triển BHTG. Chú trọng đề xuất bổ sung chức năng, nhiệm vụ để BHTGVN có thể tăng cường năng lực tài chính, sử dụng hiệu quả nguồn lực sẵn có khi thực hiện các nhiệm vụ được giao, trở thành công cụ hữu hiệu của Chính phủ, NHNN trong việc tái cơ cấu TCTD yếu kém nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi người gửi tiền và từng bước khắc phục những bất cập, hạn chế trong quá trình thực thi chính sách BHTG, trong đó tập trung vào những nội dung chính sau:

Một là, hoàn thiện quy định về phí BHTG: Chính sách về phí BHTG là chính sách lớn trong hoạt động BHTG. Việc nghiên cứu để đưa ra mức phí áp dụng cho từng tổ chức tham gia BHTG có ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống TCTD, hệ thống tài chính ngân hàng. Chính sách về phí đưa ra phù hợp và thuyết phục sẽ đảm bảo công bằng với các tổ chức tham gia BHTG, khuyến khích các tổ chức tham gia BHTG nâng cao hiệu quả hoạt động, giảm thiểu rủi ro, góp phần làm lành mạnh hệ thống ngân hàng và bảo vệ, phục vụ tốt hơn cho người gửi tiền.

Thực tế thời gian qua, ở Việt Nam, đang áp dụng mức phí đồng hạng 0,15% trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Việc áp dụng mức phí đồng hạng như hiện nay giúp BHTGVN tăng trưởng ổn định, từ đó tích lũy quỹ dự phòng nghiệp vụ ngày càng tăng, giúp BHTGVN sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ đối với người được BHTG khi tổ chức tham gia BHTG lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả dẫn đến đổ vỡ. Hiện nay, có 63 tổ chức trong tổng số 109 tổ chức BHTG trên thế giới (khoảng 58%) áp dụng hệ thống phí BHTG đồng hạng, trong đó có các tổ chức ở Nhật Bản, Indonesia, Philippines.

Việc áp dụng mức phí bảo hiểm phân biệt giữa các TCTD là phù hợp với xu thế phát triển cạnh tranh, tạo sự công bằng cho các tổ chức tham gia BHTG, khuyến khích các tổ chức tham gia BHTG có hoạt động tốt sẽ được hưởng mức phí BHTG thấp hơn và ngược lại. Tuy nhiên, việc áp dụng mức phí phân biệt cũng có những khó khăn nhất định. Hệ thống các TCTD Việt Nam vẫn đang trong quá trình cơ cấu lại, gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các TCTD yếu kém. Việc áp dụng phí BHTG phân biệt sẽ làm tăng gánh nặng tài chính đối với các tổ chức tham gia BHTG, đặc biệt là những TCTD có độ rủi ro cao, gia tăng khó khăn cho quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu của các tổ chức này. Mặt khác, theo quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD thì các TCTD được KSĐB được miễn nộp phí BHTG. Do vậy, để triển khai được việc áp dụng mức phí phân biệt cần thiết phải có lộ trình áp dụng để tránh những ảnh hưởng tiêu cực tới hệ thống các TCTD, niềm tin của công chúng.

Hai là, nâng cao năng lực tài chính, hoạt động của tổ chức BHTG: Hiện nay, BHTGVN đ­ược sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN và gửi tiền tại NHNN. Việc nghiên cứu hướng tới đa dạng hóa danh mục đầu tư của tổ chức BHTG đảm bảo sinh lời, an toàn và có cơ chế phòng ngừa rủi ro hiệu quả để BHTGVN có thể chủ động tăng cường tích lũy nguồn lực tài chính nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.

Ba là, bổ sung quyền và nghĩa vụ của BHTGVN theo hướng nâng cao vai trò, năng lực của tổ chức bảo hiểm trong việc: (i) Tham gia tái cơ cấu đối với các TCTD yếu kém; (ii) Phối hợp với NHNN kiểm tra, giám sát tổ chức tham gia BHTG theo phạm vi, nội dung, thời hạn do NHNN quyết định; (iii) Cử người tham gia xử lý TCTD được KSĐB phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của BHTGVN theo yêu cầu của NHNN; (iv) Tuyên truyền về hoạt động của tổ chức BHTG; (v) Đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức về BHTG đối với tổ chức, cá nhân có liên quan đến chính sách BHTG. Việc bổ sung quyền và nghĩa vụ của BHTGVN nhằm xác định rõ vị thế và vai trò của tổ chức, giúp bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.

Bốn là, hoàn thiện quy định pháp luật để BHTGVN tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu TCTD yếu kém tại Việt Nam: Đối với phương án chuyển giao bắt buộc, sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp, BHTGVN nghiên cứu, đề xuất bổ sung quyền, nghĩa vụ của BHTGVN bao gồm: (i) Phối hợp với Ban KSĐB đánh giá tính khả thi của phương án chuyển giao bắt buộc, sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp; (ii) Thực hiện biện pháp hỗ trợ đặc biệt là về tài chính theo quyết định của cấp có thẩm quyền đối với tổ chức tham gia hỗ trợ thực hiện phương án tái cơ cấu. Ngoài ra, BHTGVN nghiên cứu đề xuất việc mua tài sản của tổ chức được KSĐB dựa trên tham khảo kinh nghiệm quốc tế của tổ chức BHTG tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Mỹ...

Trong trường hợp BHTGVN tham gia vào phương án phá sản đối với TCTD, cần phải bổ sung quy định để BHTGVN phối hợp với Ban KSĐB thực hiện kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện phương án phá sản đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Bên cạnh đó, cũng cần bổ sung quy định cụ thể về việc BHTGVN quản lý, sử dụng, xử lý tài sản trong quá trình thực hiện các biện pháp hỗ trợ khi tham gia cơ cấu lại các TCTD được KSĐB theo quy định của pháp luật.

Năm là, hoàn thiện quy định về thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, thời hạn trả tiền bảo hiểm đảm bảo tính kịp thời, hiệu quả: Hiện nay, trong thời hạn 60 ngày kể từ thời điểm NHNN có văn bản chấm dứt KSĐB hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tham gia BHTG vẫn lâm vào tình trạng phá sản hoặc NHNN có văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài là tổ chức tham gia BHTG mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền, BHTGVN có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người được BHTG.

BHTGVN đang nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm theo hướng sớm hơn; quy định về thời hạn trả tiền bảo hiểm theo hướng nhanh hơn đối với trường hợp khoản tiền gửi của người được BHTG đã được kiểm tra, xác định đủ điều kiện chi trả kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm nhằm chi trả sớm hơn cho người gửi tiền.

Trong thời kỳ dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, lan rộng trên toàn cầu cũng như tình hình chính trị - kinh tế thế giới có nhiều biến động, thực tế ghi nhận nhiều quốc gia như Canada, Hàn Quốc, Malaysia... đã có động thái sửa đổi, bổ sung chính sách BHTG theo hướng nâng cao vị thế, tăng cường năng lực về nghiệp vụ và tài chính cũng như quyền hạn cho tổ chức BHTG nhằm đảm bảo khả năng ứng phó hiệu quả với những khó khăn có thể xảy ra đối với hệ thống tài chính - ngân hàng. Theo đó, việc nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật BHTG tại Việt Nam vào thời điểm này là cần thiết nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, phù hợp với thông lệ quốc tế, nâng cao vị thế và vai trò của BHTGVN để tham gia sâu hơn, hiệu quả hơn vào quá trình cơ cấu lại hệ thống TCTD, nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.

Phạm Bảo Lâm
Chủ tịch HĐQT Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của ngành Ngân hàng, doanh số giải ngân chương trình cho vay lãi suất ưu đãi đối với chủ đầu tư, người mua nhà các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ (chương trình 145 nghìn tỉ đồng) đã có sự cải thiện qua thời gian, tháng sau cao hơn tháng trước, tương ứng với nguồn cung nhà ở xã hội gia tăng.
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Xem thêm
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng