Luật Bảo hiểm tiền gửi: Sau 10 năm kiến tạo hành lang pháp lý cho chính sách bảo hiểm tiền gửi

Chính sách
Luật Bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13 là văn bản pháp lý cao nhất và toàn diện nhất về bảo hiểm tiền gửi (BHTG), xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức BHTG, cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của tổ chức tham gia BHTG, đối tượng được BHTG, tiền gửi được bảo hiểm, thời điểm chi trả bảo hiểm...
aa

Luật Bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13 là văn bản pháp lý cao nhất và toàn diện nhất về bảo hiểm tiền gửi (BHTG), xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức BHTG, cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của tổ chức tham gia BHTG, đối tượng được BHTG, tiền gửi được bảo hiểm, thời điểm chi trả bảo hiểm... qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động BHTG, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), đảm bảo sự phát triển an toàn và lành mạnh của hoạt động ngân hàng.

Ngay sau khi Luật BHTG được thông qua, một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành Luật được ban hành, đồng thời các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan cũng được rà soát, sửa đổi, bổ sung thay thế để đảm bảo hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về BHTG được cập nhật, thống nhất, phù hợp với Luật BHTG. Sau 10 năm đi vào cuộc sống, Luật BHTG đã phát huy hiệu quả tích cực và đạt được những kết quả nhất định.

Cụ thể, Luật BHTG quy định chi tiết các loại tiền gửi được bảo hiểm đảm bảo phù hợp và đồng bộ với chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam. Bên cạnh đó, Luật BHTG quy định đối tượng bảo hiểm là cá nhân có tiền gửi bằng đồng Việt Nam được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Quy định này đã thay đổi căn bản đối tượng được BHTG, hướng tới bảo vệ người gửi tiền là cá nhân không có nhiều cơ hội tiếp cận thông tin về tình hình tài chính ngân hàng.

Việc quy định rõ ràng loại tiền gửi không được bảo hiểm của các cá nhân có quyền lợi trực tiếp liên quan đến hoạt động của tổ chức tham gia BHTG giúp ngăn chặn hiện tượng trục lợi bảo hiểm cũng như nâng cao trách nhiệm của các cá nhân này trong việc điều hành tổ chức tham gia BHTG, qua đó, bảo vệ hiệu quả, minh bạch, thống nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.

Để đảm bảo tính linh hoạt trong việc quyết định mức phí BHTG và hạn mức chi trả bảo hiểm phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, mức sống của người dân trong từng thời kỳ, Luật BHTG không quy định cụ thể một mức phí và hạn mức chi trả mà giao Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí BHTG cũng như hạn mức trả tiền theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN). Đến nay, hạn mức chi trả BHTG là 125 triệu đồng đã có thể bảo vệ toàn bộ số tiền gửi cho hơn 91% số người gửi tiền được bảo hiểm tại Việt Nam.

Khi Quyết định số 32/2021/QĐ-TTg ngày 20/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về hạn mức trả tiền bảo hiểm có hiệu lực, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) đã thay đổi và cấp lại toàn bộ mẫu Chứng nhận tham gia BHTG và bản sao Chứng nhận tham gia BHTG cho 1.283 tổ chức tham gia BHTG, gồm: 97 ngân hàng, 01 ngân hàng hợp tác xã, 1.181 quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) và 04 tổ chức tài chính vi mô. Việc cấp Chứng nhận tham gia BHTG và bản sao được thực hiện kịp thời, tạo điều kiện để các tổ chức tham gia BHTG chấp hành đúng quy định về niêm yết bản sao Chứng nhận tham gia BHTG tại điểm giao dịch có nhận tiền gửi của cá nhân. Động thái này là một cam kết công khai tới người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG, tăng niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng, từ đó thu hút người dân có nguồn tiền nhàn rỗi gửi tại các tổ chức tham gia BHTG.

Nghiệp vụ giám sát từ xa luôn được BHTGVN chú trọng và nâng cao chất lượng để phân loại hoạt động của các TCTD. Qua đó, BHTGVN phát hiện một số trường hợp các tổ chức tham gia BHTG vi phạm quy định về BHTG cũng như quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro có thể gây mất an toàn trong hệ thống, từ đó có báo cáo, kiến nghị NHNN xử lý các trường hợp vi phạm. Đến nay, báo cáo giám sát định kỳ theo Quý của BHTGVN được NHNN coi như một kênh cảnh báo đáng tin cậy.

Từ năm 2013 đến nay, BHTGVN đã thực hiện gần 3.500 lượt kiểm tra tại chỗ việc chấp hành các quy định của pháp luật về BHTG tại tất cả các tổ chức tham gia BHTG. Ngoài ra, từ năm 2019, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Thống đốc NHNN, BHTGVN thực hiện kiểm tra đối với 46 QTDND, theo dõi và tham gia xử lý đối với các QTDND được kiểm soát đặc biệt (KSĐB) và cử cán bộ tham gia Ban KSĐB tại QTDND. Những nhiệm vụ này được BHTGVN chủ động phối hợp thực hiện, hỗ trợ chức năng kiểm tra của NHNN trong việc chấn chỉnh, tăng cường phòng, chống, ngăn ngừa vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động trong hệ thống QTDND.

Với sự lớn mạnh không ngừng về mọi mặt, BHTGVN từng bước tạo dựng, nâng cao, chiếm lĩnh được niềm tin của công chúng và các cơ quan, ban, ngành, đưa chính sách BHTG đi vào cuộc sống. Cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền chính sách BHTG trên các báo, tạp chí trong và ngoài Ngành, trong năm 2021, một số kênh truyền thông có lượng khán giả lớn đã được BHTGVN khai thác như VTV1, VTV2, VOV giao thông... Các chính sách mới về BHTG được tuyên truyền trên những kênh thông tin đại chúng một cách sâu rộng, đồng bộ đã tạo được hiệu ứng tích cực trong các tầng lớp dân cư. Đặc biệt, việc tuyên truyền về hạn mức trả tiền BHTG đã tạo được sức lan tỏa và dấu ấn trên các kênh truyền thông, hoàn thành mục tiêu truyền thông đối với hạn mức trả tiền bảo hiểm mới.

Trong thời gian tới, BHTGVN đang tích cực tập trung nguồn lực nghiên cứu, đề xuất nội dung sửa đổi, bổ sung Luật BHTG phù hợp với định hướng của NHNN, đảm bảo đồng bộ với quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD và định hướng Chiến lược phát triển BHTG. Chú trọng đề xuất bổ sung chức năng, nhiệm vụ để BHTGVN có thể tăng cường năng lực tài chính, sử dụng hiệu quả nguồn lực sẵn có khi thực hiện các nhiệm vụ được giao, trở thành công cụ hữu hiệu của Chính phủ, NHNN trong việc tái cơ cấu TCTD yếu kém nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi người gửi tiền và từng bước khắc phục những bất cập, hạn chế trong quá trình thực thi chính sách BHTG, trong đó tập trung vào những nội dung chính sau:

Một là, hoàn thiện quy định về phí BHTG: Chính sách về phí BHTG là chính sách lớn trong hoạt động BHTG. Việc nghiên cứu để đưa ra mức phí áp dụng cho từng tổ chức tham gia BHTG có ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống TCTD, hệ thống tài chính ngân hàng. Chính sách về phí đưa ra phù hợp và thuyết phục sẽ đảm bảo công bằng với các tổ chức tham gia BHTG, khuyến khích các tổ chức tham gia BHTG nâng cao hiệu quả hoạt động, giảm thiểu rủi ro, góp phần làm lành mạnh hệ thống ngân hàng và bảo vệ, phục vụ tốt hơn cho người gửi tiền.

Thực tế thời gian qua, ở Việt Nam, đang áp dụng mức phí đồng hạng 0,15% trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Việc áp dụng mức phí đồng hạng như hiện nay giúp BHTGVN tăng trưởng ổn định, từ đó tích lũy quỹ dự phòng nghiệp vụ ngày càng tăng, giúp BHTGVN sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ đối với người được BHTG khi tổ chức tham gia BHTG lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả dẫn đến đổ vỡ. Hiện nay, có 63 tổ chức trong tổng số 109 tổ chức BHTG trên thế giới (khoảng 58%) áp dụng hệ thống phí BHTG đồng hạng, trong đó có các tổ chức ở Nhật Bản, Indonesia, Philippines.

Việc áp dụng mức phí bảo hiểm phân biệt giữa các TCTD là phù hợp với xu thế phát triển cạnh tranh, tạo sự công bằng cho các tổ chức tham gia BHTG, khuyến khích các tổ chức tham gia BHTG có hoạt động tốt sẽ được hưởng mức phí BHTG thấp hơn và ngược lại. Tuy nhiên, việc áp dụng mức phí phân biệt cũng có những khó khăn nhất định. Hệ thống các TCTD Việt Nam vẫn đang trong quá trình cơ cấu lại, gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các TCTD yếu kém. Việc áp dụng phí BHTG phân biệt sẽ làm tăng gánh nặng tài chính đối với các tổ chức tham gia BHTG, đặc biệt là những TCTD có độ rủi ro cao, gia tăng khó khăn cho quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu của các tổ chức này. Mặt khác, theo quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD thì các TCTD được KSĐB được miễn nộp phí BHTG. Do vậy, để triển khai được việc áp dụng mức phí phân biệt cần thiết phải có lộ trình áp dụng để tránh những ảnh hưởng tiêu cực tới hệ thống các TCTD, niềm tin của công chúng.

Hai là, nâng cao năng lực tài chính, hoạt động của tổ chức BHTG: Hiện nay, BHTGVN đ­ược sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN và gửi tiền tại NHNN. Việc nghiên cứu hướng tới đa dạng hóa danh mục đầu tư của tổ chức BHTG đảm bảo sinh lời, an toàn và có cơ chế phòng ngừa rủi ro hiệu quả để BHTGVN có thể chủ động tăng cường tích lũy nguồn lực tài chính nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.

Ba là, bổ sung quyền và nghĩa vụ của BHTGVN theo hướng nâng cao vai trò, năng lực của tổ chức bảo hiểm trong việc: (i) Tham gia tái cơ cấu đối với các TCTD yếu kém; (ii) Phối hợp với NHNN kiểm tra, giám sát tổ chức tham gia BHTG theo phạm vi, nội dung, thời hạn do NHNN quyết định; (iii) Cử người tham gia xử lý TCTD được KSĐB phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của BHTGVN theo yêu cầu của NHNN; (iv) Tuyên truyền về hoạt động của tổ chức BHTG; (v) Đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức về BHTG đối với tổ chức, cá nhân có liên quan đến chính sách BHTG. Việc bổ sung quyền và nghĩa vụ của BHTGVN nhằm xác định rõ vị thế và vai trò của tổ chức, giúp bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.

Bốn là, hoàn thiện quy định pháp luật để BHTGVN tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu TCTD yếu kém tại Việt Nam: Đối với phương án chuyển giao bắt buộc, sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp, BHTGVN nghiên cứu, đề xuất bổ sung quyền, nghĩa vụ của BHTGVN bao gồm: (i) Phối hợp với Ban KSĐB đánh giá tính khả thi của phương án chuyển giao bắt buộc, sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp; (ii) Thực hiện biện pháp hỗ trợ đặc biệt là về tài chính theo quyết định của cấp có thẩm quyền đối với tổ chức tham gia hỗ trợ thực hiện phương án tái cơ cấu. Ngoài ra, BHTGVN nghiên cứu đề xuất việc mua tài sản của tổ chức được KSĐB dựa trên tham khảo kinh nghiệm quốc tế của tổ chức BHTG tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Mỹ...

Trong trường hợp BHTGVN tham gia vào phương án phá sản đối với TCTD, cần phải bổ sung quy định để BHTGVN phối hợp với Ban KSĐB thực hiện kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện phương án phá sản đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Bên cạnh đó, cũng cần bổ sung quy định cụ thể về việc BHTGVN quản lý, sử dụng, xử lý tài sản trong quá trình thực hiện các biện pháp hỗ trợ khi tham gia cơ cấu lại các TCTD được KSĐB theo quy định của pháp luật.

Năm là, hoàn thiện quy định về thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, thời hạn trả tiền bảo hiểm đảm bảo tính kịp thời, hiệu quả: Hiện nay, trong thời hạn 60 ngày kể từ thời điểm NHNN có văn bản chấm dứt KSĐB hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tham gia BHTG vẫn lâm vào tình trạng phá sản hoặc NHNN có văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài là tổ chức tham gia BHTG mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền, BHTGVN có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người được BHTG.

BHTGVN đang nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm theo hướng sớm hơn; quy định về thời hạn trả tiền bảo hiểm theo hướng nhanh hơn đối với trường hợp khoản tiền gửi của người được BHTG đã được kiểm tra, xác định đủ điều kiện chi trả kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm nhằm chi trả sớm hơn cho người gửi tiền.

Trong thời kỳ dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, lan rộng trên toàn cầu cũng như tình hình chính trị - kinh tế thế giới có nhiều biến động, thực tế ghi nhận nhiều quốc gia như Canada, Hàn Quốc, Malaysia... đã có động thái sửa đổi, bổ sung chính sách BHTG theo hướng nâng cao vị thế, tăng cường năng lực về nghiệp vụ và tài chính cũng như quyền hạn cho tổ chức BHTG nhằm đảm bảo khả năng ứng phó hiệu quả với những khó khăn có thể xảy ra đối với hệ thống tài chính - ngân hàng. Theo đó, việc nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật BHTG tại Việt Nam vào thời điểm này là cần thiết nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, phù hợp với thông lệ quốc tế, nâng cao vị thế và vai trò của BHTGVN để tham gia sâu hơn, hiệu quả hơn vào quá trình cơ cấu lại hệ thống TCTD, nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.

Phạm Bảo Lâm
Chủ tịch HĐQT Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Nghiên cứu này đã hệ thống hóa khung pháp lý toàn cầu và thực tiễn Việt Nam về phát triển ngân hàng bền vững, qua đó làm nổi bật xu hướng hội tụ giữa tiêu chuẩn quốc tế và nỗ lực địa phương hóa. Nghiên cứu cũng khẳng định xu hướng tất yếu là hài hòa hóa tiêu chuẩn toàn cầu, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết về minh bạch hóa thông tin và hợp tác đa bên để cân bằng giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm môi trường.
Xem thêm
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc