Hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu - Kinh nghiệm từ châu Á và gợi ý cho Việt Nam

Quốc tế
Xếp hạng tín nhiệm không phải là một thuật ngữ xa lạ trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đặc biệt là đối với hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn.
aa

Tóm tắt: Bài viết phân tích kinh nghiệm pháp luật của một số quốc gia và vùng lãnh thổ tại châu Á liên quan đến hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế nhằm đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp nhỏ và vừa khi các chủ thể này có nhu cầu huy động vốn thông qua thị trường trái phiếu. Đây có thể là một giải pháp giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa xây dựng lòng tin vào các nhà đầu tư, qua đó tiếp cận hiệu quả với thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, bài viết gợi ý một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp phát hành trái phiếu tại Việt Nam; qua đó, cung cấp các giải pháp cần thiết để doanh nghiệp có quy mô nhỏ tại Việt Nam có thể khơi thông dòng vốn từ thị trường trái phiếu.

Từ khóa: Hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa, châu Á, trái phiếu doanh nghiệp, nhà đầu tư.

ALTERNATIVE CREDIT RATING OF SMALL AND MEDIUM-SIZED ENTERPRISES - EXPERIENCE
FROM ASIA AND SUGGESTION FOR VIETNAM

Abstract: The article focuses on analyzing the legal experience of several Asian countries and territories related to alternative credit rating systems that promote the debt repayment ability of small and medium-sized enterprises when these entities need to mobilize capital through the bond market. This can be a solution to help and medium-sized enterprises build trust in investors, and thereby effectively accessing the corporate bond market. On that basis, the article proposes recommendations for perfecting the law on corporate credit ratings for corporate bond issuance in Vietnam, thereby providing necessary solutions for small and medium sized enterprises in our country can mobilize capital from the bond market.

Keywords: Alternative credit rating systems, small and medium-sized enterprises, Asia, corporate bonds, investors.

1. Xếp hạng tín nhiệm

Xếp hạng tín nhiệm không phải là một thuật ngữ xa lạ trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đặc biệt là đối với hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn. Đây là cơ chế đánh giá các tổ chức phát hành và công cụ nợ; theo đó, một bên thứ ba độc lập đánh giá dựa trên nhiều nguồn dữ liệu khác nhau để đưa ra ý kiến về khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính của một doanh nghiệp cụ thể1. Một doanh nghiệp muốn huy động vốn, ngoài việc kêu gọi vốn góp từ thành viên hoặc cổ đông, còn có thể tìm kiếm tài trợ doanh nghiệp từ phát hành trái phiếu. Việc đi vay nợ không phải là dễ dàng và doanh nghiệp vay cần phải chứng minh được khả năng trả nợ trong tương lai nhằm củng cố lòng tin và tạo động lực để các nhà đầu tư chấp nhận giải ngân, cung cấp tài trợ cho doanh nghiệp đó. Chính vì vậy, hoạt động xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc kiểm tra, đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp phát hành trái phiếu; đó cũng là thước đo để các nhà đầu tư tham khảo, cân nhắc khi lựa chọn trái phiếu doanh nghiệp là kênh đầu tư để giải ngân.

Từ những phân tích trên có thể thấy, sự phát triển ổn định của thị trường trái phiếu doanh nghiệp không thể thiếu vai trò của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm. Đây là cơ sở quan trọng để nhà đầu tư trái phiếu doanh nghiệp có thể đặt lòng tin vào thị trường và quyết định giải ngân dựa trên tham khảo kết quả xếp hạng tín nhiệm được cung cấp bởi các đơn vị xếp hạng tín nhiệm.

Hoạt động xếp hạng tín nhiệm được xem là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp, tuy nhiên cũng có thể tạo ra những khó khăn nhất định đối với một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi muốn tiếp cận với nguồn vốn trái phiếu. Tổ chức phát hành có năng lực tài chính hạn chế hoặc mới khởi nghiệp sẽ khó có khả năng đáp ứng được tiêu chuẩn, điều kiện để tham gia xếp hạng tín nhiệm, do vậy, cơ hội tiếp cận thị trường trái phiếu doanh nghiệp là rất mong manh. Cùng với đó là bài toán liên quan đến chi phí đối với hoạt động xếp hạng tín nhiệm, hiện nay đa phần được thanh toán bởi tổ chức phát hành cũng là một áp lực không nhỏ đối với cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa khi muốn tiếp cận với thị trường trái phiếu doanh nghiệp.

Vậy giải pháp nào cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khi muốn tiếp cận nguồn tài trợ trái phiếu doanh nghiệp và gia tăng lòng tin của các nhà đầu tư? Một số quốc gia và vùng lãnh thổ tại châu Á đã xây dựng khung pháp lý dành cho hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế (alternative credit rating systems - ACRS). Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), ở khu vực châu Á hiện nay chỉ có ba quốc gia và vùng lãnh thổ đang áp dụng ACRS, đó là: Hàn Quốc, Malaysia và Hồng Kông (Trung Quốc)2. Đây là giải pháp mà ở đó, một hệ thống xếp hạng tín nhiệm được thành lập nhằm thực thi các chức năng của một tổ chức xếp hạng tín nhiệm3. Việc phân tích các quy định về ACRS sẽ là gợi ý quan trọng thúc đẩy hoạt động xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp, qua đó, nâng cao chất lượng thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam.

2. Quy định về hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế tại một số quốc gia và vùng lãnh thổ ở châu Á

2.1. Hàn Quốc

Ở Hàn Quốc, các nhà hoạch định chính sách đã thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng Hàn Quốc (KODIT), là tổ chức tài chính được thành lập vào năm 1976 với mục tiêu hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa. KODIT được xem như cánh tay nối dài của Chính phủ Hàn Quốc và Ủy ban Dịch vụ tài chính trong nỗ lực thúc đẩy phát triển hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ bằng việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh tín dụng và bảo hiểm tín dụng.

Đặc biệt, vào năm 2021, KODIT đã giới thiệu một chương trình với tên gọi là cơ chế bảo lãnh nghĩa vụ trái phiếu có thế chấp (P-CBO)4 với mục đích tạo khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính với chi phí hợp lý dành cho cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hàn Quốc. Với giải pháp này, các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hàn Quốc có thể nhận tài trợ trực tiếp từ thị trường tài chính thông qua phương thức phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

Với P-CBO, KODIT đã dùng hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ để đánh giá rủi ro tín dụng của các tổ chức phi tài chính nhằm hỗ trợ tài chính với chi phí thấp hơn, qua đó, cho phép các nhà đầu tư, tổ chức có thể tiếp cận được với trái phiếu doanh nghiệp có chất lượng cao. Các chương trình mà KODIT cung cấp liên quan đến việc cấp bảo đảm tín dụng cho các doanh nghiệp tầm trung cũng như doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Hàn Quốc gồm: (i) Bảo lãnh P-CBO cho ngành phụ tùng ô tô; (ii) Bảo lãnh P-CBO hỗ trợ ngành công nghiệp then chốt; (iii) Bảo lãnh P-CBO để phản ứng với dịch Covid-19; và (iv) Bảo lãnh P-CBO để ổn định thị trường.

Với chương trình do KODIT cung cấp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Hàn Quốc không phải thuê các công ty xếp hạng tín nhiệm có chi phí cao mà hoàn toàn có thể sử dụng dịch vụ tài chính với chi phí thấp từ KODIT để bảo đảm cho khả năng tiếp cận thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Với biện pháp này, cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hàn Quốc có thêm một sự lựa chọn khả thi hơn để đáp ứng các điều kiện pháp lý khi chuẩn bị phát hành trái phiếu huy động vốn, thông qua đó có thể tiếp cận được với nhà đầu tư có nhu cầu.

2.2. Malaysia

Malaysia là một trong ba quốc gia và vùng lãnh thổ sử dụng hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế tại châu Á. Với mục tiêu tương tự như Hàn Quốc, hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế tại Malaysia được thành lập nhằm mục đích hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại nước này trong vấn đề tiếp cận nguồn vốn thông qua hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

Hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế này được thực hiện bởi Tập đoàn SMEs Malaysia (SME Corp. Malaysia) - tổ chức được thành lập với nhiệm vụ là cơ quan điều phối trung tâm được quản lý bởi Bộ Doanh nhân và Phát triển Hợp tác xã (MECD)5. Đây là nơi tích hợp và cung cấp các thông tin tham chiếu về doanh nghiệp nhỏ và vừa cho nhà đầu tư tại Malaysia. SME Corp. Malaysia đã cung cấp nhiều chương trình về tài chính nhằm hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa nước này có thể tiếp cận trực tiếp với thị trường vốn thông qua phát hành trái phiếu. Theo đó, SME Corp. Malaysia thiết lập Bảng Xếp hạng nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SCORE)6 nhằm tạo động lực để cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa của nước này tăng cường khả năng cạnh tranh và đẩy mạnh hiệu quả hoạt động. Đây cũng là công cụ quan trọng để nhà đầu tư trái phiếu tại Malaysia tham khảo nhằm đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp với khẩu vị của mình.

SCORE được chính thức áp dụng thí điểm vào năm 2007, để đánh giá hiệu quả những khoản tài trợ mà các công ty trong lĩnh vực sản xuất nhận được7. Với SCORE, SME Corp. Malaysia đã tạo ra một công cụ đo lường khả năng cạnh tranh cũng như năng lực trả nợ của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp được xếp hạng theo SCORE sẽ được đánh giá bằng sao, dựa trên các tiêu chí gồm: (i) Sức mạnh tài chính; (ii) Hiệu quả kinh doanh; (iii) Nguồn nhân lực; (iv) Tiếp thu và áp dụng công nghệ; (v) Chứng nhận; (vi) Sự hiện diện trên thị trường.

Với sự hiện diện của SME Corp. Malaysia, Malaysia đã tạo nên một trong những hệ thống xếp hạng tín nhiệm đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á dành riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa mà không cần thông qua các tổ chức xếp hạng tín nhiệm truyền thống, qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp có quy mô nhỏ tại đất nước này có thể nhận được cơ hội tài trợ từ các nhà đầu tư.

2.3. Hồng Kông (Trung Quốc)

Tương tự như Hàn Quốc và Malaysia, các nhà chức trách tại Hồng Kông (Trung Quốc) cũng đã tạo ra một hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế tại vùng lãnh thổ này. Với tên gọi là Hệ thống chấm điểm tín dụng thay thế (The alternative credit scoring system in Hong Kong), đây là cơ sở dữ liệu chấm điểm và xếp hạng dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm mục tiêu tiếp cận nguồn vốn trên thị trường thông qua các phương thức huy động được pháp luật Hồng Kông cho phép, trong đó có trái phiếu doanh nghiệp8.

Hệ thống chấm điểm tín dụng thay thế tại Hồng Kông sử dụng công nghệ mới để thu thập dữ liệu, thông tin của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, sau đó đánh giá để cung cấp những thông tin có giá trị cũng như mức độ tin cậy tín dụng. Các thông tin này liên quan đến khoản thanh toán thương mại, hồ sơ giao dịch bán hàng, báo cáo tín dụng và đặc điểm hành vi của các nhà điều hành kinh doanh.

Với phương thức xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp phát hành trái phiếu truyền thống, khi mà các tổ chức xếp hạng tín nhiệm sẽ dựa vào thông tin về tài sản có giá trị và báo cáo tài chính của doanh nghiệp phát hành để chấm điểm tín nhiệm. Vì vậy, các doanh nghiệp muốn huy động vốn từ thị trường trái phiếu phải thể hiện một lịch sử tín dụng tốt hoặc sở hữu tài sản thế chấp có giá trị. Điều này có thể xem là bất khả thi đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa. Chính vì vậy, hệ thống chấm điểm tín dụng thay thế tại Hồng Kông đã sử dụng các thông tin có tính khả thi cao nhằm đánh giá khả năng trả nợ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang có nhu cầu huy động vốn. Những thông tin này dựa trên tài sản truyền thống để đánh giá mức độ tin cậy của một doanh nghiệp nhỏ và vừa khi dự định đi vay trên thị trường trái phiếu.

Những thông tin được sử dụng để chấm điểm tín dụng thay thế được gọi là dữ liệu thay thế. Dữ liệu thay thế này được cung cấp bởi bên thứ ba như công ty viễn thông, các doanh nghiệp cung cấp tiện ích xã hội, các nền tảng phương tiện truyền thông xã hội. Dữ liệu thay thế này cũng tích hợp cả những thông tin được đánh giá dựa trên những phương pháp phi truyền thống như thông tin được thiết lập bởi phương pháp tâm lý học hay thông tin được tìm kiếm dữ liệu từ hoạt động kỹ thuật số trên các nền tảng mạng xã hội. Tất cả những dữ liệu được khai thác phi truyền thống như trên đều có thể được sử dụng để đánh giá rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa phát hành trái phiếu tại Hồng Kông.

Về nội dung, dữ liệu thay thế này được chia làm hai loại chính: Dữ liệu giao dịch và dữ liệu phi giao dịch. Dữ liệu giao dịch bao gồm các dữ liệu chi tiết khác, gồm: Dữ liệu về dòng tiền, dữ liệu phi dòng tiền. Trong khi đó, dữ liệu phi giao dịch lại tích hợp báo cáo bên ngoài, đặc điểm hành vi và những thông tin tham khảo khác. Các dữ liệu thứ cấp này tiếp tục được cấu thành bởi nhiều dữ liệu chi tiết khác, tạo cho việc đánh giá chấm điểm tín nhiệm các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hồng Kông có độ tin cậy rất cao.

3. Kinh nghiệm của một số quốc gia và vùng lãnh thổ tại châu Á về việc sử dụng hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế

Từ kinh nghiệm pháp luật của một số quốc gia và vùng lãnh thổ tại châu Á, có thể thấy, việc phát triển hệ thống tín nhiệm thay thế là một trong những sáng kiến để giải bài toán tiếp cận thị trường trái phiếu đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây vốn là những chủ thể có khả năng tiếp cận nguồn vốn vay trên thị trường nợ rất hạn chế, do chủ nợ không có đủ thông tin để đánh giá khả năng trả nợ của những chủ thể này. Với sự ra đời của hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế tại Hàn Quốc, Malaysia và Hồng Kông, những quốc gia và vùng lãnh thổ này đã cung cấp nhiều kinh nghiệm cũng như bài học quý báu để các nước trên thế giới và khu vực châu Á, trong đó có Việt Nam tiếp thu, học hỏi.

Ở Việt Nam, hiện nay, chưa phát triển hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc gọi vốn thông qua thị trường trái phiếu đối với các chủ thể này vẫn là bất khả thi do hành lang pháp lý liên quan đến vấn đề này chưa được thiết lập. Do đó, trong tương lai, để thúc đẩy sự phát triển của thị trường nợ, cũng như gia tăng khả năng kết nối của nhà đầu tư với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước, cần xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động huy động vốn bằng phát hành trái phiếu của chủ thể này. Qua đó, hoạt động xếp hạng tín nhiệm thay thế sẽ là một công cụ đắc lực hỗ trợ cho hoạt động gọi vốn cộng đồng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta.

Một số kinh nghiệm rút ra từ Hàn Quốc, Malaysia và Hồng Kông về hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế như sau:

Một là, thiết lập hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc sở hữu của Nhà nước. Dễ dàng nhận thấy, hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế của một số quốc gia và vùng lãnh thổ tại châu Á hiện nay đều thuộc sở hữu nhà nước. Điều đó phản ánh vai trò tối quan trọng của nhà nước trong việc quản lý cũng như hỗ trợ hoạt động gọi vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên thị trường. Đây là cách làm mà các nước có hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế hiện nay đều áp dụng. Nhà nước cần thể hiện vai trò đi đầu trong việc hỗ trợ sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó, tạo mọi điều kiện để các chủ thể này có thể tiếp cận được với nguồn vốn đến từ các nhà đầu tư thông qua các khoản vay trái phiếu.

Hai là, vận dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ nhằm tối ưu hóa hoạt động và tiết giảm chi phí của hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Với tư cách là một công cụ được tạo ra nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc đánh giá khả năng trả nợ, qua đó là cơ sở để góp phần giúp chủ thể có thể tiếp cận được với những nhà đầu tư tiềm năng trên thị trường trái phiếu, hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế tỏ ra ưu việt hơn so sới phương thức xếp hạng tín hạng tín nhiệm truyền thống về mặt chi phí. Đây là một hạn chế không nhỏ của phương thức xếp hạng tín nhiệm truyền thống vốn đòi hỏi chi phí cao mà không phải doanh nghiệp nào, đặc biệt là doanh nghiệp mới gia nhập thị trường cũng có thể đáp ứng được9. Do đó, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật thông qua phát triển các thuật toán khiến cho hệ thống chấm điểm tín dụng doanh nghiệp phát hành khoản vay sẽ là cách làm giảm bớt gánh nặng kinh tế trong quá trình vận hành hệ thống. Qua đó, tiếp tục tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tiếp cận với nguồn vốn vay từ thị trường trái phiếu.

Ba là, thu thập thông tin của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm dựa trên nguồn dữ liệu và các phương pháp thu thập thông tin phi truyền thống.

Có thể thấy, để tạo ra hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế, các quốc gia và vùng lãnh thổ đang sử dụng hệ thống này đều đã nỗ lực tìm kiếm thông tin của doanh nghiệp nhỏ và vừa để xây dựng cơ sở dữ liệu về cộng đồng doanh nghiệp nhằm phục vụ chấm điểm tín nhiệm doanh nghiệp. Các thông tin được sử dụng để xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa không giống với các doanh nghiệp khác, do đặc thù về quy mô vốn cũng như lịch sử tín dụng chưa được hoàn thiện. Kinh nghiệm của Hàn Quốc, Malaysia và Hồng Kông đều rất đáng học hỏi khi thu thập các thông tin từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, bao gồm thông tin về doanh nghiệp nhỏ và vừa trên các nền tảng mạng xã hội, các phương tiện truyền thông. Điều này giúp cho cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp cần được chấm điểm trở nên đầy đủ hơn, tạo cơ sở để việc chấm điểm tín nhiệm doanh nghiệp có tính tin cậy cao hơn.

4. Một số gợi ý hoàn thiện pháp lý về hệ thống xếp hạng tín nhiệm ở Việt Nam

Thứ nhất, cần cho phép doanh nghiệp nhỏ và vừa được quyền huy động vốn bằng phương thức phát hành trái phiếu.

Để phát triển hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế tại Việt Nam, điều đầu tiên cần thực hiện đó chính là cho phép doanh nghiệp nhỏ và vừa được quyền huy động vốn bằng phát hành trái phiếu. Pháp luật hiện hành chưa cho phép doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn trên thị trường trái phiếu, đó chính là điểm nghẽn khiến cho doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam chưa thể khơi thông được dòng vốn từ thị trường nợ. Do đó, để bổ sung kênh huy động vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần tạo điều kiện về mặt pháp lý cho các doanh nghiệp phát hành trái phiếu, từ đó, mở ra khả năng áp dụng hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế với tư cách là một công cụ cần thiết nhằm gia tăng khả năng của doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như là cơ sở để thu hút nhà đầu tư trái phiếu rót vốn vào chủ thể này.

Thứ hai, xây dựng và vận hành hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế dưới sự quản lý trực tiếp của cơ quan nhà nước.

Từ kinh nghiệm của các nước, có thể thấy, hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế với mục tiêu hỗ trợ cho hoạt động huy động vốn trên thị trường nợ của doanh nghiệp nhỏ và vừa đều được quản lý trực tiếp bởi các cơ quan nhà nước. Vấn đề thiết lập hành lang pháp lý để kết nối giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhà đầu tư chỉ có thể được thực hiện bởi các nhà hoạch định chính sách và pháp luật. Do đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần thể hiện vai trò chủ động, đi đầu trong việc xây dựng và hỗ trợ sự phát triển của hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế. Tại Việt Nam, việc quản lý hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế có thể được đảm nhiệm bởi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hoặc Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Việc xem xét cơ quan nào là cơ quan chủ quản của hệ thống xếp hạng tín nhiệm cần căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan cũng như mục tiêu của hệ thống xếp hạng tín nhiệm nhằm hướng tới hiệu quả của hoạt động huy động vốn cũng như hoạt động đầu tư của các chủ thể liên quan.

Thứ ba, thiết lập một hệ thống dữ liệu nhằm thu thập các thông tin liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm đánh giá khả năng trả nợ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa làm tiền đề cho hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế.

Để đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp nhỏ và vừa, việc tạo cơ sở dữ liệu về các chủ thể này là vô cùng quan trọng. Do đó, càng có nhiều thông tin về doanh nghiệp nhỏ và vừa được thu thập, càng có thêm căn cứ quan trọng đánh giá và chấm điểm tín nhiệm cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo kinh nghiệm của các nước châu Á, cần xây dựng một hệ thống hoặc nền tảng tập trung vào doanh nghiệp nhỏ và vừa, là nơi các chủ thể mới gia nhập thị trường có thể chủ động cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý, vừa là địa chỉ để các nhà đầu tư có thể tìm kiếm, lựa chọn những doanh nghiệp phù hợp để đưa ra quyết định cấp vốn. Chính vì vậy, việc thiết lập hệ thống dữ liệu tập trung cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta nên được thực hiện sớm nhất nhằm xây dựng tiền đề cho hệ thống xếp hạng tín nhiệm cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, qua đó, tạo điều kiện mở rộng quy mô cũng như chất lượng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.

Thứ tư, sử dụng công nghệ vận hành hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế hiệu quả.

5. Kết luận

Hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế có thể được xem là một trong những sáng kiến hiệu quả để giải quyết bài toán huy động vốn rất nan giải của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam và các nước trong khu vực. Việc tham khảo kinh nghiệm từ một số quốc gia và vùng lãnh thổ tại châu Á có thể giúp cơ quan lập pháp tại Việt Nam rút ra được một số gợi mở quan trọng nhằm hoàn thiện pháp luật về trái phiếu doanh nghiệp nói chung và hệ thống xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp nói riêng. Quan trọng hơn nữa, đó chính là sự tham gia của cơ quan nhà nước trong việc xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý về huy động vốn cho doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo nói riêng. Có như vậy, thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam mới có thể tiếp tục đạt được nhiều thành tựu và tạo thêm nhiều đóng góp cho nền kinh tế nước nhà.


1 Lê Hồng Khang, Xếp hạng tín nhiệm góp phần phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp minh bạch, hiệu quả, Tạp chí Tài chính kỳ 1, tháng 12/2021. https://s.net.vn/rLyK, truy cập ngày 23/6/2022.
2 OECD, Corporate bond markets in Asia: Challenges and Opportunities for Growth Companies, https://s.net.vn/AeBE, truy cập ngày

14/4/2024.

3 OECD, Corporate bond markets in Asia: Challenges and Opportunities for Growth Companies, ltđd, http://s.net.vn/AeBE truy cập ngày 14/4/2024.
4 Korea Credit Guarantee Fund (2023), Sustainability Financing Framework, https://s.net.vn/X7kG, truy cập ngày 14/4/2024.
5 SME Corp. Malaysia, https://www.smecorp.gov.my/index.php/en/, truy cập ngày 16/4/2024.
6 SME Competitiveness Rating for Enhancement.
7 SME Competitiveness Rating for Enhancement (SCORE), https://s.net.vn/XvDP, truy cập ngày 16/4/2024.
8 Hong Kong Monetary Authority (2018), Alternative Credit Scroring of Micro-, Small and Meidum-Sized Enterprises, page 5.
9 Lê Hồng Khang, Xếp hạng tín nhiệm góp phần phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp minh bạch, hiệu quả, https://s.net.vn/ThMQ, Tạp chí Tài chính online, truy cập ngày 02/4/2024.

Tài liệu tham khảo:

1. Lê Hồng Khang, Xếp hạng tín nhiệm góp phần phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp minh bạch, hiệu quả, Tạp chí Tài chính kỳ 1, tháng 12/2021.

2. OECD, Corporate bond markets in Asia: Challenges and Opportunities for Growth Companies, https://s.net.vn/AeBE

3. Korea Credit Guarantee Fund (2023), Sustainability Financing Framework, https://s.net.vn/X7kG

4. SME Corp. Malaysia, https://www.smecorp.gov.my/index.php/en/

5. SME Competitiveness Rating for Enhancement (SCORE), https://s.net.vn/XvDP

6. Hong Kong Monetary Authority (2018), Alternative Credit Scroring of Micro-, Small and Meidum-Sized Enterprises.


Trần Thị Nhật Anh
Trường Đại học Luật, Đại học Huế


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Xem thêm
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng