Cung tiền của các nước Asean giai đoạn 2000 - 2020 và hàm ý khu vực

Quốc tế
Cung tiền là một tham số kinh tế vĩ mô quan trọng, trong đó, có M0 gồm giấy bạc và tiền xu đang lưu hành; M1 gồm M0 và tiền gửi không kỳ hạn; M2 gồm M1 và tiền gửi kỳ hạn. M3 gồm M2 và giấy tờ có giá khác như cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, thương phiếu (Mishkin F.S., 2021). M2 là tham số được sử dụng chủ yếu khi đề cập đến chính sách tiền tệ của một quốc gia với số liệu thống kê công bố chính thức hàng năm bởi cơ quan tiền tệ quốc gia.
aa

Tóm tắt: Bài viết đề cập tốc độ tăng trưởng cung tiền M2 hằng năm của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) giai đoạn 2000 - 2020 cùng với tỷ trọng cung tiền so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Các nước ASEAN có sự khác biệt rất lớn hai chỉ số này. Điều đó cho thấy tính phức tạp trong xây dựng chính sách tiền tệ ASEAN thống nhất, nên cần có cơ chế đặc thù để phát huy khả năng hợp tác chính sách tiền tệ hiệu quả giữa các nước ASEAN hướng tới Cộng đồng ASEAN (AC) năm 2025.


Từ khóa: ASEAN, cung tiền, hàm ý khu vực.

1. Giới thiệu

Cung tiền là một tham số kinh tế vĩ mô quan trọng, trong đó, có M0 gồm giấy bạc và tiền xu đang lưu hành; M1 gồm M0 và tiền gửi không kỳ hạn; M2 gồm M1 và tiền gửi kỳ hạn. M3 gồm M2 và giấy tờ có giá khác như cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, thương phiếu (Mishkin F.S., 2021). M2 là tham số được sử dụng chủ yếu khi đề cập đến chính sách tiền tệ của một quốc gia với số liệu thống kê công bố chính thức hằng năm bởi cơ quan tiền tệ quốc gia.

Các tham số cung tiền này gồm tỷ trọng cung tiền với GDP và tốc độ tăng cung tiền hằng năm (%). Tham số thứ nhất phản ánh tốc độ vòng quay của tiền1. Nếu tốc độ càng lớn, lượng tiền thu hồi nhanh và đưa ra lưu thông cao, quy mô lượng tiền cung ứng không quá lớn và ngược lại, vòng quay chậm, quy mô lượng tiền cung ứng phải tăng lên nhằm đáp ứng nhu cầu tiền cho nền kinh tế. Tham số thứ hai phản ánh tốc độ tăng trưởng cung tiền hằng năm thể hiện quy mô mở rộng nền kinh tế. Nếu tốc độ tăng trưởng ổn định, tăng trưởng cung tiền tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng giai đoạn tiếp theo. Nếu tốc độ tăng cung tiền lớn, có thể dẫn đến lạm phát hoặc tăng giao dịch ngầm.

ASEAN là khu vực có 10 nước thành viên, quy mô dân số trên 661,8 triệu người, tổng GDP khoảng 3 nghìn tỷ USD năm 2020 (ASEAN stat, 2021) và đây là khu vực có nhiều triển vọng phát triển thành một khu vực kinh tế thống nhất cùng với thượng tầng kiến trúc hài hòa có khả năng ảnh hưởng cao đến khu vực châu Á và phần còn lại của thế giới. ASEAN đặt mục tiêu thành lập AC đầy đủ với 03 trụ cột là Cộng đồng chính trị - an ninh (APSC), Cộng đồng kinh tế (AEC) và Cộng đồng văn hóa - xã hội (ASCC) vào năm 2025. Mặc dù tác động của đại dịch Covid-19 làm chậm tiến trình thành lập AC trong khoảng hơn 02 năm, song, mục tiêu và thời hạn thành lập AC vẫn không thay đổi. Để AC thành lập hiệu quả, trụ cột AEC cần được đẩy nhanh, trong đó, có sự phối hợp chính sách tiền tệ. So với sự phát triển của liên kết nội bộ Liên minh châu Âu (EU) với việc thành lập Liên minh tiền tệ châu Âu (EMS) từ năm 1996 để bảo đảm sự ra đời của đồng EUR thay thế dần việc sử dụng đồng tiền của các nước thành viên được lưu hành hiện tại, ASEAN cần phải chuẩn bị nhiều điều kiện để hướng tới một thể chế tiền tệ thống nhất và có thể phát hành đồng tiền chung. Lý thuyết không gian tiền tệ tối ưu (Mongelli, 2002) là cơ sở lý thuyết quan trọng để hình thành liên minh tiền tệ này có thể tham chiếu với khu vực ASEAN. Việc đánh giá tình hình cung tiền của các nước ASEAN giai đoạn 2000 - 2020 tạo điều kiện để hiểu rõ khả năng hợp tác tiền tệ hướng tới thành lập AEC đúng lộ trình đã đặt ra. Đây là nền tảng để hội nhập sâu hơn trong ASEAN theo đúng quy luật vận động của khối, trước mắt nhằm phục vụ hình thành AC đến năm 2025.

Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh tốc độ tăng cung tiền và tỷ trọng cung tiền M2 so với GDP của 10 nước thành viên ASEAN giai đoạn 2000 - 2020 dựa trên kỹ thuật thống kê mô tả. Đây là căn cứ để xem xét khả năng hợp tác tiền tệ nội bộ ASEAN. Dữ liệu được thu thập từ Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), ASEAN và các nguồn thông tin chính thức khác.

2. Cung tiền các quốc gia ASEAN

2.1. Cung tiền của Brunei Darussalam

Trong giai đoạn 2000 - 2020, cung tiền của Brunei Darussalam tăng trưởng ổn định trung bình năm cả giai đoạn là 3,8%/năm; trong đó, năm cao nhất là năm 2004 với 15,8% và năm thấp nhất là năm 2005 với -4,5%. Lượng tiền M2 trong lưu thông cả giai đoạn chiếm 70,2% GDP/năm. Năm có tỷ trọng thấp nhất là năm 2006 với 51,3% và năm có tỷ trọng lớn nhất là năm 2016 với 92,6%. (Hình 1). Có thể thấy, thời điểm cung tiền có tỷ trọng lớn nhất so với GDP cũng là thời điểm GDP bị giảm quy mô khá sâu, chỉ 15,74 tỷ USD so với 17,77 tỷ USD năm 2015 và 16,74 tỷ USD năm 2017.

Hình 1: Cung tiền của Brunei Darussalam so với GDP

và thay đổi theo năm giai đoạn 2000 - 2020


Nguồn: ADB


2.2. Cung tiền của Campuchia

Trong giai đoạn 2000 - 2020, cung tiền của Campuchia có sự biến động mạnh, trung bình tăng trưởng cả giai đoạn đạt 24,8%/năm; trong đó, năm cao nhất là năm 2007 với 81,8% và năm thấp nhất là năm 2011 với 3,9%. Lượng tiền M2 trong lưu thông trung bình cả giai đoạn chiếm 50,4% GDP/năm. Năm có tỷ trọng thấp nhất là năm 2000 với 13% và năm có tỷ trọng cao nhất là năm 2020 với 133% (Hình 2). Điểm đặc biệt là năm 2019, GDP của Campuchia có quy mô lớn nhất trong cả giai đoạn, nhưng tăng trưởng cung tiền ở mức thấp và tỷ trọng cung tiền so với GDP khá cao đạt 107,7% GDP.

Hình 2: Cung tiền của Campuchia so với GDP

và thay đổi theo năm giai đoạn 2000 - 2020



Nguồn: ADB


2.3. Cung tiền của Indonesia

Trong giai đoạn 2000 - 2020, cung tiền trung bình năm của Indonesia tăng trưởng ổn định cả giai đoạn đạt 11,9%/năm; trong đó, năm cao nhất là năm 2007 với 19,3% và năm thấp nhất là năm 2002 với 4,7%. Lượng tiền M2 trong lưu thông cả giai đoạn chiếm 42% GDP/năm. Năm có tỷ trọng cao nhất là năm 2000 với 53,8% và năm có tỷ trọng thấp nhất là năm 2010 với 36%. (Hình 3).

Hình 3: Cung tiền của Indonesia so với GDP

và thay đổi theo năm giai đoạn 2000 - 2020


Nguồn: ADB


Năm có tăng trưởng cung tiền cao nhất không phải có tăng trưởng GDP cao nhất và năm có tăng trưởng cung tiền thấp nhất không phải có tăng trưởng GDP thấp nhất. Nói cách khác, không có mối quan hệ tương quan chặt chẽ giữa tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP ở Indonesia. Nếu so sánh với trường hợp của Brunei Darussalam trong giai đoạn tương tự, có thể thấy, tỷ trọng cung tiền trung bình so với GDP của Brunei Darussalam cao hơn tỷ trọng cung tiền này của Indonesia, nhưng tốc độ tăng cung tiền trung bình năm của Indonesia cao hơn Brunei Darussalam.

2.4. Cung tiền của Lào

Trong giai đoạn 2000 - 2020, cung tiền của Lào tăng trưởng không ổn định, trung bình năm cả giai đoạn đạt 23,1%/năm; trong đó, năm cao nhất là năm 2000 với 45,9% và năm thấp nhất là năm 2005 với 8,2%. Lượng tiền M2 trong lưu thông cả giai đoạn chiếm tỷ trọng trung bình 36,4% GDP/năm. Năm có tỷ trọng thấp nhất là năm 2000 với 17,4% và năm có tỷ trọng lớn nhất là năm 2019 với 53,2% (Hình 4). Có thể thấy, thời điểm cung tiền có tỷ trọng lớn nhất so với GDP cũng là thời điểm GDP có quy mô lớn nhất trong cả giai đoạn (năm 2019). Tuy nhiên, thời điểm quy mô GDP gần như nhỏ nhất trong cả giai đoạn thì đó cũng là thời điểm tỷ trọng cung tiền không phải nhỏ nhất và tăng trưởng cung tiền ở mức vừa phải (năm 2008).

Hình 4: Cung tiền của Lào so với GDP

và thay đổi theo năm giai đoạn 2000 - 2020


Nguồn: ADB

2.5. Cung tiền của Malaysia

Trong giai đoạn 2000 - 2020, cung tiền của Malaysia tăng trưởng ổn định trung bình năm cả giai đoạn này đạt 7,8%/năm; trong đó, năm cao nhất là năm 2011, với 14,3% và năm thấp nhất là năm 2001 với 2,9%. Lượng tiền M2 trong lưu thông trung bình hàng năm cả giai đoạn chiếm 133% GDP/năm. Năm có tỷ trọng thấp nhất là năm 2008 với 121% và năm có tỷ trọng lớn nhất là năm 2020 với 148,47%. (Hình 5). Có thể thấy, thời điểm cung tiền có tỷ trọng gần như lớn nhất so với GDP cũng là thời điểm GDP có quy mô lớn nhất trong cả giai đoạn này, đạt 364,68 tỷ USD. Năm 2009, quy mô GDP có sự sụt giảm nhẹ và có sự giảm nhẹ của tăng trưởng cung tiền, tuy nhiên, tỷ trọng cung tiền so với GDP có xu hướng tăng lên.

Hình 5: Cung tiền của Malaysia so với GDP

và thay đổi theo năm giai đoạn 2000 - 2020


Nguồn: ADB


2.6. Cung tiền của Myanmar

Trong giai đoạn 2000 - 2020, cung tiền của Myanmar tăng trưởng trung bình năm cả giai đoạn đạt 26,7%/năm, trong đó, năm cao nhất là năm 2000 với 42,2% và năm thấp nhất là năm 2003 với 0,7%. Lượng tiền M2 trung bình trong lưu thông cả giai đoạn chiếm 35,5% GDP/năm. Năm có tỷ trọng thấp nhất là năm 2008 với 17,2% và năm có tỷ trọng lớn nhất là năm 2020 với 78,5% (Hình 6). Có thể thấy, thời điểm cung tiền có tỷ trọng gần như lớn nhất so với GDP cũng là thời điểm GDP có quy mô lớn nhất trong cả giai đoạn này, đạt 79,84 tỷ USD (năm 2019). Năm 2010, tốc độ tăng cung tiền khá cao (42,5%) và đây cũng là năm tốc độ tăng trưởng GDP khá cao.

Hình 6: Cung tiền của Myanmar so với GDP

và thay đổi theo năm giai đoạn 2000 - 2020


Nguồn: ADB


2.7. Cung tiền của Philippines

Trong giai đoạn 2000 - 2020, cung tiền của Philippines tăng trưởng không thật ổn định trung bình năm cả giai đoạn đạt 11,9%/năm, trong đó, năm cao nhất là năm 2013 với 31,8% và năm thấp nhất là năm 2003 với 3,3%. Lượng tiền M2 trong lưu thông trung bình cả giai đoạn chiếm 51,8% GDP/năm. Năm có tỷ trọng thấp nhất là năm 2004 với 38,2% và năm có tỷ trọng lớn nhất là năm 2020 với 80,8% (Hình 7).

Hình 7: Cung tiền của Philippines so với GDP

và thay đổi theo năm giai đoạn 2000 - 2020


Nguồn: ADB


Có thể thấy, thời điểm cung tiền có tỷ trọng gần như lớn nhất so với GDP trong cả giai đoạn cũng là thời điểm GDP có quy mô lớn nhất, đạt 376,82 tỷ USD. Năm 2009, quy mô GDP giảm so với năm 2008 nhưng cung tiền tăng trưởng 9,9% và tỷ trọng cung tiền so với GDP trong năm này là chiếm 48,6%.

2.8. Cung tiền của Singapore

Trong giai đoạn 2000 - 2020, cung tiền của Singapore tăng trưởng ổn định, trung bình năm cả giai đoạn đạt 7,0%/năm; trong đó, năm thấp nhất là năm 2000 với -2% và năm cao nhất là năm 2006 với 19,4%. Lượng tiền M2 trong lưu thông trung bình cả giai đoạn có tỷ trọng 120,1% GDP/năm. Năm có tỷ trọng thấp nhất là năm 2000 với 103,2% và năm có tỷ trọng lớn nhất là năm 2020 với 145,8% (Hình 8). Có thể thấy, thời điểm quy mô GDP đạt được lớn nhất trong cả giai đoạn 2000 - 2020 là 376 tỷ USD cũng là thời điểm tỷ trọng cung tiền so với GDP thấp hơn tỷ trọng trung bình cả giai đoạn này là 0,4%. Năm có tốc độ tăng cung tiền thấp nhất -2% trong cả giai đoạn này lại có quy mô lớn hơn cả quy mô GDP năm 2001 và năm 2002 có tốc độ tăng trưởng cung tiền tương ứng là 5,9% và -0,3%, tỷ trọng cung tiền các năm này đều cao hơn 100%.

Hình 8: Cung tiền của Singapore so với GDP

và thay đổi theo năm giai đoạn 2000 - 2020


Nguồn: ADB


2.9. Cung tiền của Thái Lan

Trong giai đoạn 2000 - 2020, cung tiền của Thái Lan tăng trưởng ổn định, trung bình năm cả giai đoạn đạt 6,5%/năm, trong đó, năm cao nhất là năm 2011 với 15,1% và năm thấp nhất là năm 2001 với 1,5%. Lượng tiền M2 trong lưu thông trung bình cả giai đoạn chiếm 117,4% GDP/năm. Năm có tỷ trọng thấp nhất là năm 2007 với 100,4% và năm có tỷ trọng lớn nhất là năm 2020 với 141,9% (Hình 9).

Hình 9: Cung tiền của Thái Lan so với GDP

và thay đổi theo năm giai đoạn 2000 - 2020


Nguồn: ADB


Có thể thấy, thời điểm quy mô GDP lớn nhất 544,26 tỷ USD (năm 2019), cung tiền trong năm này có tỷ trọng 123,2%GDP, cao hơn mức trung bình cả giai đoạn. Quy mô GDP năm 2009 có sự giảm nhẹ so với năm 2008 nhưng tỷ trọng cung tiền so với GDP tăng nhẹ trong khi có sự suy giảm tăng trưởng cung tiền từ 9,2% năm 2008 xuống 6,8% năm 2009.

2.10. Cung tiền của Việt Nam

Trong giai đoạn 2000 - 2020, cung tiền của Việt Nam tăng trưởng ổn định, trung bình năm cả giai đoạn này đạt 24%/năm; trong đó, năm cao nhất là năm 2000 với 56,2% và năm thấp nhất là năm 2011 với 12,1%. Lượng tiền M2 trong lưu thông trung bình cả giai đoạn chiếm 114,2% GDP/năm. Năm có tỷ trọng cung tiền/GDP thấp nhất là năm 2000 với 50,5% và năm có tỷ trọng lớn nhất là năm 2020 với 182,5% (Hình 10). Thời điểm quy mô GDP lớn nhất đạt 271,2 tỷ USD, năm 2020, cung tiền có tỷ trọng bằng 182,52% GDP, cao hơn mức trung bình cả giai đoạn. Quy mô GDP năm 2017 chỉ đạt 223,8 tỷ USD nhưng tăng trưởng cung tiền giảm nhẹ so với năm 2016, chỉ đạt 15,0% so với 18,4% năm 2016.

Hình 10: Cung tiền của Việt Nam so với GDP

và thay đổi theo năm giai đoạn 2000 - 2020


Nguồn: ADB


3. So sánh cung tiền của các nước ASEAN

Trên cơ sở kết quả thống kê mô tả các tham số liên quan đến cung tiền trên đây với kỹ thuật xây dựng xu thế cung tiền trong giai đoạn 2000 - 2020, có thể so sánh về cung tiền giữa các nước ASEAN ở Bảng 1.

Bảng 1: Tổng hợp tham số cung tiền theo thời gian của các nước ASEAN


Nguồn: Tác giả tổng hợp

Các nước có tốc độ vòng quay trung bình của tiền cao như Campuchia, Malaysia, Việt Nam, Singapore và Thái Lan. Nước có tốc độ vòng quay trung bình như Indonesia, còn lại là các nước có tốc độ vòng quay của tiền thấp. Về xu thế, hệ số tỷ trọng cung tiền/GDP trung bình cả giai đoạn của tất cả các nước đều dương cho thấy tỷ trọng cung tiền so với GDP tăng liên tục trừ trường hợp Indonesia. Tuy nhiên, các nước đều có hiện tượng giảm tăng trưởng cung tiền trừ Philippines, Singapore và Thái Lan. Mức độ phụ thuộc của tỷ trọng cung tiền/GDP và tốc độ tăng trưởng cung tiền vào thời gian khá thấp. Nói cách khác, có nhiều yếu tố khác ngoài yếu tố thời gian chi phối đến cung tiền của các nước như yếu tố tiền tệ ngoài M2 hoặc giao dịch kinh tế ngầm giữa các nước ASEAN như hoạt động giao dịch thương mại và đầu tư phi chính thức. Các phương tiện giao dịch có bản chất tiền như cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, thương phiếu, kỳ phiếu là yếu tố chi phối đáng kể đến biến động cung tiền.

4. Kết luận và hàm ý

Từ các số liệu và phân tích trên đây, có thể có một số kết luận và hàm ý sau:

Một là, độ phân tán trong cung tiền là rất lớn giữa các nước ASEAN cho nên khó có thể hợp tác chặt chẽ về tiền tệ giữa các nước này trong tương lai gần để đạt đến sự thống nhất cao. Cơ chế cung ứng tiền tệ minh bạch và sự hợp tác tiền tệ cần được coi trọng giữa các nước thành viên nhằm hướng tới một thể chế tiền tệ thống nhất, tạo điều kiện để thúc đẩy giao dịch thương mại và đầu tư khu vực.

Hai là, mức độ tự chủ về cung tiền của các quốc gia rất lớn cho nên khó có thể xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ASEAN như cuộc khủng hoảng năm 1997 hay chịu tác động quá lớn của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu năm 2008.

Ba là, cần tăng cường hợp tác nhiều hơn trong cung tiền ASEAN như hợp tác nghiên cứu và phát triển mô hình lý thuyết, cơ chế hợp tác tiền tệ ASEAN để triển khai mô hình, cơ chế cảnh báo sớm để tránh rủi ro đột ngột gắn với cung tiền tăng đột biến, lạm phát tăng và giao dịch kinh tế ngầm mở rộng. Do đó, cơ chế hợp tác tiền tệ thông qua các hiệp định tiền tệ giữa các nước ASEAN cần được xây dựng và vận hành hiệu quả.

Bốn là, cơ hội khai thác tác động của hệ thống tiền tệ quốc tế rất lớn do tính đa dạng cao và nhiều chương trình hợp tác có thể triển khai độc lập giữa từng nước ASEAN với các nước ngoài ASEAN cũng như với các trung tâm tài chính - tiền tệ thế giới. Các quốc gia thành viên với những đặc thù phát triển có thể xây dựng cơ chế hợp tác tiền tệ độc lập với phần còn lại của thế giới để chuẩn bị dần điều kiện hợp tác tiền tệ nội bộ ASEAN theo hướng nâng cấp lên trình độ mới.

Năm là, Việt Nam nên chủ động, tích cực và trách nhiệm thậm chí là điểm tựa đáng tin cậy trong kết nối tất cả các quốc gia thành viên ASEAN về chính sách tiền tệ, nhất là sau đại dịch Covid-19 và tận dụng tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự thay đổi đáng kể trong chính sách tiền tệ khu vực để sử dụng chính sách tiền tệ như một công cụ thúc đẩy thương mại và đầu tư, tạo vị thế cao của đất nước trong ASEAN.

1 Theo lý thuyết tiền tệ, tốc độ vòng quay của tiền xác định theo công thức V = GDP/M trong đó V là tốc độ vòng quay của tiền hay số vòng quay 1 năm, GDP là tổng sản phẩm quốc nội và M là khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông.

Tài liệu tham khảo:

1. ASEANstat (2021), ASEAN: Socio-economic indicator, https://www.aseanstats.org/wp-content/

uploads/2021/10/ASEANStats_Leaflet_

2021_15Oct.pdf.

2. ADB (2020), Số liệu về cung tiền của các nước, https://kidb.adb.org/economies.

3. ASEAN, ASEAN Community Vision 2025, https://www.asean.org/wp-content/uploads/images/2015/November/aec-page/ASEAN-Community-Vision-2025.pdf

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội XIII.

5. Mishkin F.S. (2021), Kinh tế học về tiền, ngân hàng và thị trường tài chính. Nhà xuất bản

Tài chính.

6. Mongelli F.P. (2002), “New” view on the optimal curency area theory: What is EMU telling us? Working Paper 138, https://www.ecb.europa.eu/pub/pdf/scpwps/ecbwp138.pdf


PGS., TS. Nguyễn Thường Lạng
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Xem thêm
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của ngành Ngân hàng, doanh số giải ngân chương trình cho vay lãi suất ưu đãi đối với chủ đầu tư, người mua nhà các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ (chương trình 145 nghìn tỉ đồng) đã có sự cải thiện qua thời gian, tháng sau cao hơn tháng trước, tương ứng với nguồn cung nhà ở xã hội gia tăng.
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng