Thực hiện tín dụng chính sách đối với phát triển nông nghiệp – nông thôn tại Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Kinh tế - xã hội
TS. Trần Thế Sao Trong 3 năm gần đây, cả nước nói chung và Ngân hàng chính sách xã hội (NHCS XH) Việt Nam nói riêng tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng và kế hoạch phát triển k...
aa

TS. Trần Thế Sao

Trong 3 năm gần đây, cả nước nói chung và Ngân hàng chính sách xã hội (NHCS XH) Việt Nam nói riêng tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, giai đoạn 2016-2020 của Chính phủ, trong đó có lĩnh vực phát triển nông nghiệp - nông thôn (NO-NT). Giải pháp rất quan trọng để phát triển lĩnh vực này đó là chính sách tín dụng nông nghiệp, nông thôn ban hành theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP, cùng các chính sách khác có liên quan của Chính phủ về tín dụng ưu đãi. Các chính sách này đang được ngành ngân hàng triển khai mạnh mẽ, đồng bộ, với sự tham gia của đông đảo các loại hình ngân hàng, chủ lực là Agribank và Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi của nhà nước. Bài viết tập trung làm rõ nội dung thực hiện tín dụng chính sách đối với phát triển NO-NT tại NHCSXH Việt Nam.

1. Kết quả cho vay theo lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
Tính đến hết tháng 7/2018, tổng nguồn vốn tín dụng chính sách tại NHCS XH Việt Nam đạt 188.368 tỷ đồng; tổng dư nợ tín dụng chính sách trên địa bàn toàn quốc đạt 182.420 tỷ đồng, với hơn 6,7 triệu hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác đang còn dư nợ của trên 20 chương trình tín dụng đang được triển khai. Tín dụng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực hoạt động chủ yếu của NHCSXH, chiếm 94% tổng dư nợ tín dụng tại ngân hàng này. Đến hết tháng 7/2018, dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn đạt 171.374 tỷ đồng. Phân tích cơ cấu dư nợ NO-NT tại NHCSXH Việt Nam đến hết tháng 7/2018 được phân loại theo từng nhóm đối tượng của từng khu vực như sau:
Đối tượng là hộ gia đình, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, dư nợ đạt 169.257 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng lớn nhất (98,7%) đối với cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tại NHCSXH; trong đó, dư nợ cho vay hỗ trợ sản xuất kinh doanh là 120.434 tỷ đồng, cho vay tiêu dùng là 45.226 tỷ đồng. Dư nợ đối tượng là hộ gia đình, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được phân chia theo các khu vực: miền núi phía Bắc 38.595 tỷ đồng; Đồng bằng sông Hồng 28.502 tỷ đồng; Bắc Trung Bộ 46.550 tỷ đồng; Tây Nguyên 15.434 tỷ đồng; Đông Nam Bộ 10.938 tỷ đồng; Đồng bằng sông Cửu Long 29.238 tỷ đồng.

Đối tượng là doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, dư nợ đạt 90 tỷ đồng, chiếm 0,05% trong dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn tại NHCSXH; trong đó cho vay hỗ trợ sản xuất kinh doanh là 27 tỷ đồng, cho vay tiêu dùng là 23 tỷ đồng... Dư nợ đối tượng là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được phân chia theo các khu vực: miền núi phía Bắc 11 tỷ đồng; Đồng bằng sông Hồng 46 tỷ đồng; Bắc Trung Bộ 8 tỷ đồng; Tây Nguyên 01 tỷ đồng; Đông Nam Bộ 13 tỷ đồng; Đồng bằng sông Cửu Long 11 tỷ đồng.
Đối tượng là hợp tác xã, chủ trang trại đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, dư nợ đạt 5 tỷ đồng ; trong đó chủ yếu là cho vay hỗ trợ sản xuất kinh doanh. Dư nợ đối tượng là hợp tác xã, chủ trang trại hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được phân chia theo các khu vực: miền núi phía Bắc 1,52 tỷ đồng; Đồng bằng sông Hồng 0,96 tỷ đồng; Bắc Trung Bộ 1,12 tỷ đồng; Tây Nguyên 0,53 tỷ đồng; Đồng bằng sông Cửu Long 0,65 tỷ đồng.
Các đối tượng khác, dư nợ đạt 2.022 tỷ đồng, chiếm 1,17% trong dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn tại NHCSXH; trong đó cho vay hỗ trợ sản xuất kinh doanh là là 1.738 tỷ đồng, cho vay tiêu dùng là 91 tỷ đồng...

2. Đánh giá thực trạng triển khai tín dụng chính sách phát triển nông nghiệp - nông thôn tại Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam
Về phương thức quản lý tín dụng
Để chuyển tải vốn tín dụng chính sách đúng đối tượng thụ hưởng trong lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng, hỗ trợ tối đa cho người nghèo trong điều kiện tiết giảm chi phí quản lý, chi phí xã hội..., NHCSXH Việt Nam đã và đang thực hiện phương thức quản lý tín dụng chính sách đặc thù thông qua hình thức: (i) Phân công, phân cấp trách nhiệm trong việc xác định hộ nghèo và các đối tượng chính sách đủ điều kiện vay vốn; (ii) Thực hiện dân chủ, công khai trong cộng đồng dân cư; (iii) Kết hợp sự tham gia của 4 tổ chức chính trị - xã hội: Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến bình và Đoàn Thanh niên CS HCM nhận ủy thác, thông qua các Tổ tiết kiệm & vay vốn (TK&VV), với vai trò giám sát xã hội và làm uỷ thác một số nội dung công việc trong quy trình nghiệp vụ tín dụng chính sách. Đây là hướng đi đúng đắn, giúp cho việc chuyển tải nguồn vốn tín dụng ưu đãi đến đúng đối tượng thụ hưởng là thành viên, hội viên của 4 tổ chức đó một cách kịp thời, hiệu quả; đồng thời huy động được sức mạnh của cộng đồng và toàn xã hội cùng chung tay giúp người nghèo và các đối tượng chính sách khác, góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt là, thông qua hoạt động ủy thác và giám sát của các tổ chức đó, đã thực sự góp phần đổi mới nội dung hoạt động, phát huy vai trò và nâng cao vị thế của các đoàn thể tham gia.
Để phục vụ tốt nhất vốn tín dụng chính sách phát triển NO-NT đến hộ nghèo và các đối tượng chính sách, đặc biệt tại các xã vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, hiện nay, NHCSXH Việt Nam thực hiện tổ chức giao dịch định kỳ mỗi tháng 1 lần tại 10.962 Điểm giao dịch đặt tại trụ sở Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp xã, phường, thị trấn; phối hợp với chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội thành lập được 183.674 Tổ Tiết kiệm và vay vốn, hoạt động tại thôn, ấp, bản, làng. Hoạt động giao dịch với hộ vay vốn của NHCSXH Việt Nam chủ yếu diễn ra tại các xã, phường, thị trấn. Các chính sách tín dụng của nhà nước, trong đó có mục tiêu phục vụ phát triển NO-NT, danh sách hộ vay vốn và các quy trình, thủ tục vay vốn... được niêm yết công khai tại trụ sở UBND xã, phường, thị trấn; người vay giao dịch trực tiếp với NHCSXH vào ngày cố định hàng tháng để nhận tiền vay, gửi tiết kiệm, trả nợ, trả lãi... trước sự chứng kiến của hội đoàn thể, Tổ TK&VV và chính quyền địa phương. Quy trình, thủ tục cho vay được thiết kế đơn giản, phù hợp với trình độ của hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác
Hoạt động tín dụng chính sách nói chung và phục vụ phát triển NO-NT nói riêng của NHCS XH Việt Nam được Đảng, Quốc hội, Chính phủ rất quan tâm, đánh giá rất cao. Tại Báo cáo số 660/BC-UBTVQH13, ngày 19/5/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII, đã đánh giá: „Chính sách tín dụng cho hộ nghèo là chính sách được triển khai rộng rãi nhất, đáp ứng một lượng lớn nhu cầu vốn của hộ nghèo, tác động trực tiếp và mang lại hiệu quả thiết thực, là một trong những điểm sáng trong các chính sách giảm nghèo. Đây cũng là chính sách xây dựng được mối liên kết tốt giữa Nhà nước thông qua NHCSXH với các tổ chức đoàn thể và người nghèo, phát huy được tính chủ động, nâng cao trách nhiệm của người nghèo với chính quyền cơ sở thông qua việc giữ mối liên hệ, hướng dẫn làm ăn, đôn đốc giải ngân, thu nợ của ngân hàng”. Các đánh giá khác của Đảng, của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ cũng đã được công bố công khai, đã ghi nhận những đóng góp tích cực của NHCS XH Việt Nam trong thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi, đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, các đối tượng chính sách theo các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, của Nhà nước.
Về quản lý rủi ro đối với cho vay theo lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
Từ thực tiễn hoạt động của NHCS XH Việt Nam trong 16 năm qua có thể khẳng định, công tác thu hồi nợ vốn tín dụng chính sách nói chung, lĩnh vực phát triển nông nghiệp - nông thôn nói riêng từ người nghèo và các đối tượng chính sách khác luôn đạt kết quả tốt.
Bên cạnh việc kịp thời đáp ứng cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác có nhu cầu và đủ điều kiện vay vốn, đầu tư cho phát triển NO-NT, NHCSXH Việt Nam còn tập trung phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn trong việc hướng dẫn người dân cách thức tổ chức sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi, kinh doanh, chế biến, phát triển thủy sản, làm dịch vụ ở nông thôn, sản xuất mặt hàng thủ công truyền thống... Từ đó nguồn vốn tín dụng ưu đãi ngày càng phát huy được hiệu quả, giúp hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác ở khu vực nông thôn có vốn sản xuất kinh doanh, sản xuất nông nghiệp hàng hóa, góp phần xây dựng nông thôn mới, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện điều kiện sống, vươn lên thoát nghèo, góp phần làm giảm tỷ lệ hộ nghèo, làm thay đổi tích cực bộ mặt nông thôn Việt Nam trong những năm qua, ở cả miền núi và các vùng đồng bằng.
Vốn tín dụng chính sách đã từng bước làm thay đổi nhận thức của những người ở vùng nghèo, đa dạng nền sản xuất nông nghiệp theo hướng đẩy mạnh thâm canh, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất cây trồng và vật nuôi, thay đổi cách thức làm ăn từ tự cấp, tự túc sang sản xuất mang tính hàng hóa và tiếp cận nền kinh tế thị trường, góp phần tạo việc làm cho nông dân, đặc biệt là nông dân ở khu vực bị thu hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, cải thiện đời sống cho người lao động… Những kết quả này đã tác động tích cực đến khả năng trả nợ của người vay, điều này được thể hiện rõ khi chất lượng tín dụng chính sách không ngừng được nâng cao trong thời gian qua, nợ quá hạn giảm dần, từ 13,75% khi nhận bàn giao, xuống còn 0,44% tại thời điểm 31/7/2018. Riêng đối với tín dụng đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, tỷ lệ nợ quá hạn là 0,4%. Đây là tỷ lệ thấp nhất trong tất cả các tổ chức tín dụng tham gia cho vay vốn trong lĩnh vực NO-NT.

Đối tượng cho vay của NCHSXH là hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác được nhận diện là những đối tượng khách hàng dễ bị tổn thương, sinh sống chủ yếu ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn,… đầu tư vốn chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, quy mô hộ gia đình, trong điều kiện khí hậu thời tiết biến đổi phức tạp, sự biến động của nền kinh tế, giá nông sản, đầu ra của sản phẩm không ổn định, HSSV khi ra trường chưa có việc làm ngay… đã tác động rất lớn đến đời sống và hoạt động sản xuất, kinh doanh của người vay, đây chính là những rủi ro tiềm ẩn đối với hoạt động tín dụng chính sách.
Hiện nay, việc xử lý nợ bị rủi ro tín dụng chính sách nói chung, đối với phát triển nông nghiệp - nông thôn nói riêng của NHCSXH Việt Nam đang thực hiện theo Quyết định số 50/2010/QĐ-TTg, ngày 28/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ; Thông tư hướng dẫn số 161/2010/TT-BTC, ngày 20/10/2010 của Bộ Tài chính. Từ khi triển khai thực hiện cơ chế này đã giúp NHCSXH Việt Nam có cơ sở pháp lý để xử lý các khoản nợ bị rủi ro do nguyên nhân khách quan. Công tác xử lý nợ rủi ro được thực hiện đúng đối tượng, đúng chính sách, tuân thủ nguyên tắc kịp thời, công khai, dân chủ, công bằng với mọi đối tượng thụ hưởng. Sau khi có thông báo của cấp thẩm quyền, các đơn vị, tổ chức có liên quan đã thực hiện kiểm tra, rà soát chính xác để hạch toán kịp thời và thông báo công khai kết quả xử lý nợ bị rủi ro tại điểm giao dịch xã theo đúng quy định.
Để hạn chế tối đa nợ xấu phát sinh, NHCSXH Việt Nam thực hiện phân tích số liệu nợ quá hạn và nợ khoanh của các chi nhánh theo định kỳ 5 ngày/lần và đưa ra đánh giá tổng quan về chất lượng tín dụng thông qua chỉ tiêu nợ quá hạn, nợ khoanh, từ đó kịp thời áp dụng các giải pháp đôn đốc, thu hồi nợ đến hạn, giảm tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng, nâng cao ý thức trả nợ của người nghèo và các đối tượng chính sách khi được vay vốn ưu đãi của Chính phủ.
Bên cạnh đó, NHCSXH Việt Nam thường xuyên bám sát tình hình diễn biến thiên tai, lũ lụt xảy ra tại địa phương để kịp thời chỉ đạo các tỉnh, thành phố chịu ảnh hưởng của thiên tai, lũ lụt có phương án để bảo vệ an toàn tài sản, phối hợp với các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể nắm bắt tình hình thiệt hại, chủ động giúp hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác kịp thời khắc phục hậu quả do thiên tai. Căn cứ tình hình thiệt hại, NHCSXH Việt Nam nơi cho vay kịp thời hướng dẫn khách hàng lập thủ tục đề nghị xử lý nợ bị rủi ro theo đúng quy định, đảm bảo việc xử lý nợ đúng đối tượng, công bằng, dân chủ, tạo điều kiện cho khách hàng nhanh chóng khắc phục hậu quả do thiên tai, sớm ổn định đời sống.

3. Khuyến nghị chính sách
Đối với Quốc hội
Đề nghị các Ủy ban, Ban của Quốc hội tiếp tục quan tâm, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát theo chức năng, thẩm quyền đối với hoạt động tín dụng chính sách do NHCS XH Việt Nam triển khai, có ý kiến xem xét đảm bảo nguồn vốn, đảm bảo cho vay đến đúng đối tượng thụ hưởng và phát huy được hiệu quả.
Đối với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ ngành
Đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ ngành có liên quan nghiên cứu, xem xét, chỉ đạo các cấp, các đơn vị, các tổ chức trực thuộc, cần thực hiện tốt Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư và Quyết định 401/QĐ-TTg, ngày 14/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ, chủ động cân đối, bố trí đủ nguồn lực cho NHCS XH Việt Nam để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách. Bố trí nguồn vốn kịp thời đối với các chương trình tín dụng chính sách mới được ban hành, để đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả của chương trình. Bố trí vốn từ ngân sách nhà nước theo kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020 đã phê duyệt cho NHCSXH. Bố trí tăng nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm theo Nghị định 61/2015/NĐ-CP, để hỗ trợ phát triển sản phẩm nông nghiệp, dịch vụ có lợi thế của từng địa phương.
Các Bộ, ngành khi xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách có liên quan đến tín dụng chính sách xã hội cần đồng thời tính toán bố trí đủ nguồn lực, để NHCS XH Việt Nam kịp thời triển khai thực hiện.
Đối với cấp ủy, chính quyền địa phương
Đề nghị cần tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động tín dụng chính sách, thực hiện tốt Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư và Quyết định 401/QĐ-TTg, ngày 14/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội. Tiếp tục, quan tâm bố trí nguồn lực từ ngân sách địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác để bổ sung nguồn vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn; hỗ trợ về cơ sở vật chất, địa điểm, trang thiết bị, phương tiện làm việc nhằm nâng cao năng lực hoạt động của NHCSXH. Tiếp tục quan tâm chỉ đạo cấp ủy, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội địa phương phối hợp với NHCSXH trong việc củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng chính sách xã hội, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các Tổ TK&VV và hoạt động của Điểm giao dịch xã. Chỉ đạo thực hiện tốt công tác khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư, tiêu thụ sản phẩm; định hướng sản xuất cây trồng, vật nuôi để hỗ trợ tín dụng chính sách xã hội đạt hiệu quả cao; thường xuyên điều tra, rà soát, thống kê xác nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác để tạo điều kiện cho các đối tượng này được vay vốn kịp thời, đúng đối tượng.
Đối với các tổ chức chính trị - xã hội
Đề nghị cần tiếp tục quan tâm, xem xét, đẩy mạnh hơn nữa công tác phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội đến các tầng lớp nhân dân, nhất là người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội, đối với phát triển NO-NT. Tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo tổ chức hội các cấp thực hiện tốt các nội dung công việc ủy thác; phối hợp chặt chẽ với NHCSXH trong việc củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chính sách. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc hoạt động của cấp dưới, đặc biệt trong nhiệm vụ quản lý các Tổ TK&VV. Chú trọng công tác đào tạo tập huấn cho cán bộ tổ chức chính trị - xã hội trong việc củng cố nâng cao chất lượng tín dụng, kỹ năng kiểm tra, giám sát, theo dõi quản lý vốn vay.

Tài liệu tham khảo:
- Báo cáo của NHCS XH Việt Nam, tháng 9/2018.
- www.sbv.gov.vn.


(Tạp chí Ngân hàng số 20, tháng 10/2018)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Lễ công bố Nghị quyết của Quốc hội về sáp nhập tỉnh, thành phố

Lễ công bố Nghị quyết của Quốc hội về sáp nhập tỉnh, thành phố

Sáng 30/6/2025, các tỉnh, thành phố trên cả nước sẽ đồng thời tổ chức "Lễ công bố Nghị quyết của Quốc hội về sáp nhập tỉnh, thành phố cùng các quyết định của Trung ương Đảng thành lập đảng bộ tỉnh và nhân sự lãnh đạo địa phương".
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Kinh doanh báo chí không thể đứng ngoài dòng chảy đổi mới sáng tạo

Kinh doanh báo chí không thể đứng ngoài dòng chảy đổi mới sáng tạo

Báo chí được coi là “người dẫn đường” cho xã hội về thông tin, nhận thức và định hướng dư luận. Tuy nhiên, giữa kỷ nguyên số, vai trò ấy đang bị thách thức bởi một câu hỏi rất thực tế: Báo chí sống bằng gì? Nếu coi báo chí là một nghề, thì như mọi nghề khác, nó phải tự nuôi được chính mình. Báo chí không thể sống mãi bằng lý tưởng hay tồn tại nếu không có dòng tiền.
Chuyển đổi số ngành Ngân hàng Việt Nam: Bứt phá trong kỷ nguyên mới

Chuyển đổi số ngành Ngân hàng Việt Nam: Bứt phá trong kỷ nguyên mới

Bài viết đề cập đến vai trò then chốt của ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số toàn diện và xu thế toàn cầu hóa. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tích cực triển khai nhiều chiến lược thúc đẩy chuyển đổi số, hiện đại hóa hoạt động toàn ngành. Bài viết đồng thời phân tích nhiệm vụ, thành tựu, khó khăn trong quá trình này và đề xuất giải pháp giúp ngành Ngân hàng thực hiện sứ mệnh phát triển trong thời kỳ mới.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Tiến tới Hiệp ước Toàn cầu về chấm dứt ô nhiễm nhựa

Tiến tới Hiệp ước Toàn cầu về chấm dứt ô nhiễm nhựa

Ô nhiễm nhựa đang trở thành một trong những thách thức nghiêm trọng nhất đối với môi trường sống và sự phát triển bền vững của nhân loại. Theo Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), nếu không có biện pháp kiểm soát, đến năm 2040 lượng nhựa rò rỉ vào môi trường có thể tăng thêm 50%. Vi nhựa đã hiện diện trong thực phẩm, nguồn nước và không khí, tạo ra các rủi ro nghiêm trọng về y tế và môi trường.
Thực hành tiết kiệm

Thực hành tiết kiệm

Trân trọng giới thiệu bài viết "THỰC HÀNH TIẾT KIỆM” của đồng chí Tô Lâm - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thanh toán không dùng tiền mặt tạo lập thói quen chi tiêu của người dân

Thanh toán không dùng tiền mặt tạo lập thói quen chi tiêu của người dân

Theo Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng và trung gian thanh toán đã đáp ứng tốt dịch vụ thanh toán và bắt đầu tạo lập thói quen của người dân thanh toán không dùng tiền mặt.
Xem thêm
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng