Phát triển kinh tế số Asean: Thực trạng và giải pháp

Quốc tế
Kinh tế số (Digital economy) là nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số. Ở hầu hết các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là các quốc gia thuộc ASEAN, kinh tế số không chỉ là “bệ phóng” cho tăn...
aa

Kinh tế số (Digital economy) là nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số. Ở hầu hết các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là các quốc gia thuộc ASEAN, kinh tế số không chỉ là “bệ phóng” cho tăng trưởng kinh tế, mà còn là cơ sở thúc đẩy kết nối ASEAN với các nước đối tác trong và ngoài khu vực. Kinh tế số của ASEAN đang phát triển mạnh, có tiềm năng trở thành một trong năm nền kinh tế số hàng đầu thế giới. Thị trường kỹ thuật số ASEAN đã tăng gấp ba lần trong ba năm (2017 - 2020) và chiếm 7% GDP của ASEAN. Dự báo tăng trưởng kinh tế số ASEAN sẽ lên tới 300 tỷ USD năm 2025.



Kinh tế số ASEAN đang phát triển mạnh và có tiềm năng trở thành một trong năm kinh tế số hàng đầu thế giới

1. Thực trạng phát triển kinh tế số của ASEAN

Kinh tế số gồm những lĩnh vực kinh doanh cơ bản: Thương mại điện tử (e-commerce); dịch vụ du lịch trực tuyến (online travel services); dịch vụ gọi xe online (online car call services); dịch vụ viễn thông (telecommunication services); dịch vụ thanh toán trực tuyến (online payment services); y tế kỹ thuật số (health tech); giáo dục kỹ thuật số (Ed. tech)... Phát triển kinh tế số là sử dụng công nghệ số và dữ liệu để tạo ra những mô hình kinh doanh mới. Trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển nhanh, tác động rất lớn đến bức tranh kinh tế toàn cầu, hầu hết các nền kinh tế phát triển trên thế giới đều đưa ra chiến lược phát triển công nghệ số, trong đó chú trọng việc nghiên cứu áp dụng công nghệ mới vào tăng trưởng kinh tế.

Năm 2019, kinh tế số của ASEAN lần đầu tiên chạm ngưỡng 100 tỷ USD, tăng gấp 3 lần trong giai đoạn 2016 - 2019. Trong đó, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan có mức tăng trưởng kinh tế số đạt trung bình 20 - 30%/năm. Hai quốc gia dẫn đầu khu vực ASEAN là Indonesia và Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế số hơn 40%/năm1. Quy mô kinh tế số Việt Nam thậm chí có thể đạt 43 tỷ USD vào năm 2025 và sẽ tăng trưởng nóng nhất trong các lĩnh vực gồm thương mại điện tử, du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến và gọi xe công nghệ. Thương mại điện tử đang là ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất và tăng trưởng nhanh nhất. Giá trị của ngành thương mại điện tử của ASEAN đạt 62 tỷ USD năm 2020, tăng 63% so với năm 2019. Dự báo, quy mô ngành thương mại điện tử ASEAN sẽ chạm mốc 172 tỷ USD năm 2025. Không chỉ thương mại điện tử, thị trường ứng dụng gọi xe công nghệ tại ASEAN cũng đang tăng trưởng mạnh mẽ.

Trong ASEAN, các nước như Singapore, Thái Lan và Philippines rất chú trọng phát triển kinh tế số. Singapore cam kết dẫn đầu về quốc gia số, dành 1% GDP cho nghiên cứu phát triển công nghệ mới. Thái Lan đã ban hành “Chính sách số” với mục tiêu tối đa hóa việc ứng dụng công nghệ số trong kinh tế - xã hội, phát triển hạ tầng. Philippines đặt kế hoạch dẫn đầu ASEAN về công nghệ thông tin truyền thông và hạ tầng băng thông.

Các nước ASEAN, với đặc điểm dân số trẻ (hơn nửa trong số 648 triệu người dưới 30 tuổi), tầng lớp trung lưu phát triển mạnh, cùng với sự nhanh nhạy trong việc áp dụng kỹ thuật số đang sẵn sàng cho mục tiêu số hóa nền kinh tế. Năm 2018, các nước ASEAN đã đạt được thỏa thuận về thương mại điện tử, khai thác tiềm năng tăng trưởng khu vực trong lĩnh vực số và dịch vụ, chuyển sang nền kinh tế số với những bước đi quan trọng như thúc đẩy phát triển thương mại điện tử, khuyến khích phát triển công nghệ tài chính (Fintech).

Sáu thị trường trong khu vực ASEAN có nền kinh tế số lớn nhất, đó là: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Trong đó, Việt Nam và Indonesia là hai thị trường bứt phá trong xu hướng phát triển nền kinh tế số so với các quốc gia còn lại trong khu vực. Đối với thương mại điện tử, Việt Nam chỉ xếp sau Indonesia về quy mô thị trường. Khoảng 150 triệu người dân ở các nước ASEAN hiện đang thực hiện giao dịch thương mại qua mạng. Mặc dù chịu tác động của các yếu tố bất lợi từ dịch bệnh Covid-19 và căng thẳng thương mại Mỹ - Trung nhưng ngành thương mại điện tử khu vực ASEAN vẫn phát triển, đạt 105 tỷ USD tổng giá trị hàng hóa năm 2020 (tương đương năm 2019). Các lĩnh vực kỹ thuật số của ASEAN tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ và dự kiến sẽ vượt mốc 300 tỷ USD năm 2025, trong đó, thương mại điện tử nổi lên như ngành phát triển nhất. Riêng về thương mại điện tử xuyên biên giới, Việt Nam đang là một trong những quốc gia tăng trưởng nhanh nhất thế giới với tốc độ 35% mỗi năm, gấp 2,5 lần so với Nhật Bản. Tiềm năng phát triển kinh tế số của các nước ASEAN được giới chuyên gia đánh giá là rất lớn khi khu vực này hiện có khoảng 400 triệu người dùng Internet và riêng trong năm 2020, có thêm 40 triệu người dùng mới. Các cơ hội kinh doanh trong những lĩnh vực mới như kỹ thuật công nghệ tài chính, kỹ thuật công nghệ y tế và kỹ thuật công nghệ giáo dục... đang rộng mở và được các nhà đầu tư quan tâm.

Đối với quy mô nền kinh tế số, Việt Nam xếp thứ 3 trong khu vực, năm 2020 đạt giá trị 9 tỷ USD (sau Indonesia và Thái Lan). Thương mại điện tử nổi lên như một ngành tăng trưởng lớn nhất. Kinh tế số tăng trưởng mạnh ở một số nước, như Việt Nam và Indonesia năm 2020 đã đạt mức tăng trưởng hai con số, lần lượt là 16% và 11% bất chấp những khó khăn do dịch Covid-19 gây ra.

Hiện tại, ASEAN còn gặp những hạn chế nhất định trong phát triển kinh tế số: Thứ nhất, khó khăn trong cách tiếp cận chuyển đổi sang kinh tế số, đặc biệt là với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bởi phần lớn các doanh nghiệp của ASEAN đều là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên ít nhiều sẽ gặp khó khăn khi chuyển đổi, thường khó bắt nhịp với những cơ hội đó; Thứ hai, các quy định mới về thương mại điện tử tại ASEAN liên quan đến thuế, cấp phép và đăng ký tác động đến mục tiêu số hóa của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, ảnh hưởng đến triển vọng của nền kinh tế số đang phát triển mạnh ở khu vực ASEAN; Thứ ba, khó khăn trong thúc đẩy hợp tác với khu vực tư nhân. Bởi khả năng thúc đẩy tích hợp kỹ thuật số của ASEAN dựa trên hai yếu tố: Các chính sách khuyến khích tăng trưởng và quan hệ hợp tác với khu vực tư nhân để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ. Chỉ có hợp tác với khu vực tư nhân trong việc lập chính sách mới giúp gây dựng được lòng tin vững chắc, là cách tiếp cận tốt với kinh tế số; Thứ tư, liên quan đến yếu tố con người, bởi trong đại dịch Covid-19 có rất nhiều người dân cần được chăm sóc. Số người nhiễm Covid-19 không ngừng tăng cao sẽ đẩy gánh nặng lên hệ thống y tế, khiến hệ thống y tế trở nên quá tải.

Tuy nhiên, khu vực ASEAN đang đứng trước những thời cơ phát triển kinh tế số nhờ những nhân tố như: (i) khu vực ASEAN đang có điều kiện tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu; (ii) khủng hoảng do Covid-19 là nhân tố thúc đẩy tiến trình số hóa và phát triển kinh tế không tiếp xúc.

2. Giải pháp phát triển kinh tế số của ASEAN

Nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế số - nền kinh tế của tương lai, giúp hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn, phát triển đồng đều hơn, mở rộng cơ hội việc làm với cách thức làm việc hoàn toàn mới, tăng năng suất, hiệu quả và tăng thu nhập. Để đạt mục tiêu trở thành một trong năm nền kinh tế số hóa trên thế giới trước năm 2025, ASEAN đang tập trung vào những giải pháp mở rộng phát triển kinh tế số, đó là:

Thứ nhất, mở rộng kết nối không gian mạng - Xương sống của nền kinh tế số

ASEAN hiện là thị trường Internet phát triển nhanh nhất trên thế giới, nền kinh tế kỹ thuật số ASEAN dự kiến ​​sẽ phát triển đáng kể, bổ sung ước tính khoảng 1 nghìn tỷ USD vào GDP khu vực trong 10 năm tới. Năm 2020, riêng Việt Nam có 68,17 triệu người sử dụng Internet (chiếm 70% dân số). Trong đó, số người sử dụng mạng trên điện thoại di động lên đến 3,6 giờ mỗi ngày, cao hơn nhiều so với các khu vực khác. Thời gian sử dụng Internet và tỷ lệ người sử dụng Internet cao sẽ được nâng lên khi ASEAN có chính sách và hành động nhằm giảm giá thành, tăng tốc độ và tăng độ phủ sóng Internet băng thông rộng đáng tin cậy đến các khu vực chưa được phục vụ. Tại các quốc gia thu nhập trung bình trong khu vực, chỉ có 2 trong số 5 người được tiếp cận Internet di động tốc độ cao (mạng 4G). Trong khi ở các quốc gia thu nhập thấp, tỷ lệ đó chỉ là 1 trong số 5 người. Vì vậy, ASEAN cần sự phối hợp chủ động giữa khu vực công và tư cũng như phương thức quản lý nhà nước chủ động để khơi thông những khoản đầu tư cần thiết về hạ tầng số và nâng cao tính cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông.

Các nước ASEAN đã tích cực đầu tư vào nhiều dự án phát triển thông tin, truyền thông với khoảng 100 tỷ USD từ năm 2015. Nổi bật trong đó là các sáng kiến tạo ra một ASEAN phẳng, không chuyển vùng quốc tế; thành lập một trường đại học về công nghệ thông tin và truyền thông của ASEAN nhằm đáp ứng yêu cầu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; thành lập Trung tâm chia sẻ thông tin an ninh mạng ASEAN...

Thứ hai, khuyến khích thanh toán số

Thanh toán số là một trong những trụ cột căn bản để tạo nên nền kinh tế số. Tuy nhiên, thanh toán số vẫn chưa phát triển ở ASEAN so với những nơi khác trên thế giới. Ở hầu hết các quốc gia khu vực ASEAN, thanh toán vẫn chủ yếu bằng tiền mặt. Chỉ có 19% người dân có tài khoản tài chính truy cập qua Internet, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các nước có thu nhập trung bình trên thế giới và châu Phi cận Sahara, lần lượt là 27% và 24%2.

Tại ASEAN, số lượng người dân thanh toán bằng tiền mặt đã giảm xuống 34% năm 2020 (năm 2019 là 40%). Để tạo môi trường thuận lợi về tài chính số, ASEAN tiếp tục triển khai các hệ thống định danh số hiện đại cùng với hàng loạt những quy định. Đồng thời, các khoản chi trả của chính phủ, lương hưu, hỗ trợ tài chính có điều kiện và các chương trình xã hội khác cũng được áp dụng công nghệ số.

Giá trị của các giao dịch không dùng tiền mặt ở châu Á dự kiến sẽ tăng từ 96,2 tỷ USD năm 2017 lên 352,8 tỷ USD năm 20223. Malaysia là quốc gia dẫn đầu ASEAN về xu hướng sử dụng ví điện tử với tỷ lệ là 40% người tiêu dùng, tiếp đến Philippines là 36%, Thái Lan là 27% và Singapore là 26%4. Những quốc gia này đang có tỷ lệ sử dụng tiền mặt giảm dần khi người dân tăng cường chuyển sang các phương thức thanh toán không tiếp xúc.

Thứ ba, nâng cao kiến thức về đồng tiền kỹ thuật số và kỹ năng mềm cho người lao động

Nghiên cứu, phát hành đồng tiền kỹ thuật số chung cho khu vực ASEAN sẽ mang lại nhiều lợi ích, làm giảm đáng kể thời gian và chi phí thực hiện các giao dịch và thanh toán xuyên biên giới. Việc thanh toán hàng hóa, dịch vụ diễn ra giữa người dân và doanh nghiệp của các quốc gia trong khu vực sẽ thuận lợi hơn khi sử dụng chung một loại tiền tệ để thanh toán thay vì phải quy đổi ra tiền tệ của đối tác như hiện nay.

Hệ thống giáo dục cần linh hoạt hơn trong việc phát triển các kỹ năng cần thiết để vận hành trong nền kinh tế kỹ thuật số. Những kỹ năng bao gồm: Kiến ​​thức máy tính cơ bản, kỹ năng nâng cao như mã hóa và phân tích dữ liệu. Kỹ năng mềm như hợp tác và giao tiếp cũng rất cần thiết. Kỹ năng của lực lượng lao động trong khu vực ASEAN được bắt nhịp cùng với chuyển đổi công nghệ số đang diễn ra ở tất cả các ngành kinh tế và giáo dục có vai trò chính trong việc phát triển kiến thức kỹ thuật và kỹ năng mềm của nền kinh tế số đầy tính cạnh tranh. Khi công nghệ đang thay đổi với tốc độ nhanh, khả năng thích ứng và học trọn đời càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, cần có sự phối hợp hiệu quả hơn giữa khu vực công và khu vực tư. Để thúc đẩy phát triển kinh tế số, ASEAN cần có cam kết hơn nữa về phát triển nguồn nhân lực số và tạo điều kiện di chuyển lao động có kỹ năng, trình độ chuyên môn cao trong khu vực.

Thứ tư, phát triển ngành dịch vụ hậu cần Logistics

Kinh tế số của ASEAN không thể chỉ phụ thuộc vào những nền tảng ảo. Hậu cần vẫn là một rào cản trong thương mại điện tử và việc đưa sản phẩm đến được điểm cần đến với chi phí hiệu quả và đáng tin cậy là một trong những thách thức lớn nhất. Ngành Logistics vận hành tốt là điều kiện thiết yếu để thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế số, đặc biệt là thương mại điện tử. Các lô hàng thương mại điện tử phải đối mặt với các thủ tục hải quan - là lĩnh vực hoạt động yếu nhất trong lĩnh vực hậu cần của khu vực ASEAN. Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Logistics được thể hiện thông qua giảm chi phí Logistics và cải thiện chất lượng dịch vụ. Hợp lý hóa thủ tục hải quan có thể tạo điều kiện để vận chuyển nhanh hơn, rẻ hơn, dễ đoán biết hơn.

Hậu cần Logistics phát triển góp phần hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh quốc tế. Hậu cần Logistics cung cấp các dịch vụ đa dạng, trọn gói có tác dụng giảm rất nhiều các loại chi phí giấy tờ, chứng từ trong buôn bán quốc tế. Cùng với việc phát triển hậu cần điện tử (electronic logistics) khiến cho chi phí giấy tờ, chứng từ trong lưu thông hàng hóa càng được giảm tới mức tối đa, chất lượng dịch vụ hậu cần ngày càng được nâng cao sẽ thu hẹp hơn nữa mọi cản trở về không gian và thời gian trong dòng lưu chuyển nguyên vật liệu và hàng hóa. Các quốc gia sẽ xích lại gần nhau hơn trong hoạt động sản xuất và lưu thông. Các dịch vụ hậu cần hiệu quả sẽ làm giảm mức chi phí đầu vào của các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ trong khối ASEAN. Nhờ đó, hoạt động thương mại, đầu tư và liên kết ASEAN tăng lên, bảo đảm chống lại sự dao động giá cả trong khu vực, tạo ra thị trường khu vực ngày càng phát triển. Giảm chi phí từng khâu trong dịch vụ hậu cần là phương pháp cạnh tranh tối ưu nhất của ASEAN.

Thứ năm, mở rộng liên kết hội nhập khu vực

Covid-19 đã tác động đến nền kinh tế toàn cầu và tạo cơ hội cho các doanh nghiệp ASEAN nhìn nhận, cân nhắc những hướng đi mới trong tương lai, khẳng định sự cần thiết gắn kết giữa các quốc gia trong khu vực để nâng cao phát triển con người cũng như kinh tế. ASEAN đẩy mạnh hơn nữa hợp tác về công nghệ thông tin với Hàn Quốc nhằm thúc đẩy nền kinh tế số trong khu vực bởi hợp tác với Hàn Quốc sẽ giúp các doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và vừa của ASEAN nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế.

Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt - Hàn được thành lập vào tháng 01/2020 nhằm đạo tạo thạc sĩ, tiến sĩ cho những ngành thuộc các lĩnh vực mới theo xu hướng chuyển đổi số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, Robotics, IoT, an toàn thông tin, kinh tế số, thương mại điện tử, Logistics…). Để mở rộng và kết nối hội nhập khu vực, ASEAN đưa ra các quy định và tạo thuận lợi cho giao dịch giữa các quốc gia trong khu vực nhằm tạo ra một thị trường số tích hợp đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và người tiêu dùng. ASEAN hỗ trợ và thúc đẩy sự hợp tác với khu vực tư nhân trong việc ban hành các chính sách. Bởi chỉ có hợp tác với khu vực tư nhân mới giúp gây dựng được lòng tin vững chắc, là cách tiếp cận tốt hơn với kinh tế số. Tham gia hợp tác khu vực sẽ đảm bảo ASEAN có vị thế tốt hơn để khai thác toàn bộ tiềm năng của nền kinh tế kỹ thuật số.

Thứ sáu, ban hành các quy định và tiêu chuẩn hóa nhằm xử lý rủi ro liên quan đến chuyển đổi số

Các nước ASEAN có nhiều hoạt động thúc đẩy chuyển đổi số, đẩy mạnh chuyển đổi số để phục hồi trong ASEAN là một trong năm chiến lược5 phục hồi chính của Khung phục hồi tổng thể ASEAN và kế hoạch triển khai sau dịch bệnh Covid-19. Để thúc đẩy xu hướng chuyển đổi số, ASEAN đã có nhiều nỗ lực trong việc triển khai các chính sách khu vực, bao gồm khuôn khổ thanh toán xuyên biên giới, kế hoạch thúc đẩy sản xuất thông minh và hỗ trợ phát triển hệ sinh thái 5G. Triển khai sáng kiến ASEAN số nhằm góp phần vào quá trình chuyển đổi. Cùng với tốc độ chuyển đổi như vậy, đầu tư cơ sở hạ tầng số và đầu tư kỹ năng số sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh.

ASEAN tập trung ưu tiên các quy định và tiêu chuẩn hiệu quả cho giao dịch điện tử, lưu chuyển dữ liệu qua biên giới, an ninh mạng, bảo mật dữ liệu và bảo vệ người tiêu dùng. Các biện pháp thực chất trong các lĩnh vực trên là thiết yếu để xây dựng lòng tin với những nền tảng trực tuyến, và hình thành nên các nền kinh tế số an toàn và bền vững.

Tóm lại, trong bối cảnh tác động của đại dịch Covid-19 đang tái định hình môi trường kinh tế số năng động của thế giới, khu vực ASEAN với gần 400 triệu người dùng Internet sẽ là môi trường giàu tiềm năng mang lại cơ hội đặc biệt cho phát triển kinh tế số. Đại dịch Covid-19 đã mang đến “một thế giới hoàn toàn mới”. Theo đó, việc nắm bắt các cơ hội phát triển từ kinh tế số có ý nghĩa quan trọng, thúc đẩy phục hồi tăng trưởng, tăng cường kết nối, nâng cao vị thế của ASEAN. Xét về dư địa, kinh tế số có tiềm năng phát triển vô cùng to lớn bởi hiện nay kinh tế số mới chỉ chiếm tỷ trọng 7% GDP trong khu vực ASEAN, so với mức 16% ở Trung Quốc, 27% ở châu Âu và 35% ở Mỹ.

Với quy mô khu vực, nền kinh tế số ASEAN sẽ rút ngắn được khoảng cách với những thị trường phát triển hơn về tỷ lệ đóng góp vào GDP. Phát triển kinh tế số sẽ giúp cộng đồng ASEAN gắn kết chặt chẽ hơn, là cơ hội để các quốc gia ASEAN thay đổi vị thế, tăng năng suất lao động và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng GDP. Dự kiến, năm 2025, ASEAN trở thành một trong năm nền kinh tế số lớn nhất thế giới. Hiện tất cả quốc gia thành viên khu vực ASEAN đã ký kết nhiều thỏa thuận nhằm thúc đẩy khu vực hướng tới cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Dự báo, nền kinh tế số khu vực ASEAN sẽ tăng gấp 3 lần, chạm mức 300 tỷ USD, trong đó kinh tế số Việt Nam có triển vọng bứt phá lên 43 tỷ USD (năm 2025).

1 Báo cáo về tình hình phát triển kinh tế số tại khu vực Đông Nam Á năm 2019 (e-economy Southeast Asia 2019); https://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe/kinh-te-so-asean-dat-100-ty-usd-viet-nam-dan-dau-khu-vuc-573758.html.

2 ASEAN’s Digital Economy Not Growing Fast Enough; ASEAN’s Digital Economy Not Growing Fast Enough. The ASEAN Post.

3 ASEAN’s Digital Economy Not Growing Fast Enough; ASEAN’s Digital Economy Not Growing Fast Enough. The ASEAN Post.

4 Thị trường ví điện tử đang lên tại Đông Nam Á, https://ictvietnam.vn/thi-truong-vi-dien-tu-dang-len-tai-dong-nam-a-20200904170526531.htm.

5 Năm chiến lược phục hồi chính của ASEAN bao gồm: Tăng cường hệ thống y tế; bảo đảm an ninh con người; thúc đẩy thị trường và liên kết nội khối; đẩy mạnh chuyển đổi số và xây dựng tương lai bền vững, tự cường.



Tài liệu tham khảo:

1. Trọng Đạt (2020), Kinh tế số ASEAN đạt 100 tỷ USD, Việt Nam dẫn đầu khu vực, https://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe/kinh-te-so-asean-dat-100-ty-usd-viet-nam-dan-dau-khu-vuc-573758.html.

2. Bắc Hà (2019), Tích hợp kinh tế số - Cơ hội nằm trong tay các nước ASEAN, http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/tich-hop-kinh-te-so-co-hoi-nam-trong-tay-cac-nuoc-asean-68420.htm.

3. Cameron. A, (2019). Tương lai nền kinh tế số ViệtNam - Hướng tới năm 2030 và 2045. Cơ quan Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Khối thịnh vượng chung Úc (CSIRO), Brisbane.

4. Thế Vũ (2020), Triển vọng một đồng tiền kỹ thuật số cho ASEAN (bnews.vn).

5. Growing ASEAN’s Digital Economy, (2020) IGNITE-Digital-Economy-fact-sheet-Aug 2020.pdf (usmission.gov).

6. Jeff Paine (2020), The significance of the ASEAN digital economy in a post-pandemic world, The significance of the ASEAN digital economy in a post-pandemic world (vir.com.vn).

7. ASEAN’s Digital Economy Not Growing Fast Enough, the ASEAN Post, ASEAN’s Digital Economy Not Growing Fast Enough. The ASEAN Post.



PGS., TS. Phạm Thị Thanh Bình

Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Xem thêm
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng