Một số vấn đề pháp lý đối với tiền điện tử quốc gia

Chính sách
Trong bối cảnh toàn cầu gia tăng mạnh mẽ về các loại tiền điện tử của tư nhân, nhiều quốc gia đang cân nhắc về việc phát hành tiền điện tử quốc gia. Ở một số nước, NHTW đã tiến hành đến giai đoạn nâng cao của thử nghiệm tiền điện tử quốc gia như: Trung Quốc, Thụy Điển, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ...; còn một số khác đã chính thức phát hành tiền điện tử quốc gia như: Bahamas, Nigeria, Campuchia…
aa

Tóm tắt: Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của tiền điện tử do các chủ thể phi Nhà nước phát hành cũng như việc hệ thống thanh toán trực tuyến có xu hướng ngày càng phụ thuộc vào các chủ thể cung cấp giải pháp thanh toán ngoài ngân hàng dẫn tới vai trò của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng trung ương (NHTW) có khả năng bị suy yếu. Một trong những vấn đề cấp bách được đặt ra là nếu không thể cấm đoán sự phát triển của các đồng tiền điện tử tư nhân, các NHTW sẽ phải quyết định triển khai những dự án tiền điện tử do chính mình phát hành để giảm thiểu rủi ro. Tiền điện tử quốc gia là phương tiện và giải pháp để NHTW củng cố và hiện diện mạnh mẽ hơn trong lĩnh vực thanh toán trực tuyến và làm giảm các nguy cơ bất ổn gây ra bởi sự phụ thuộc vào các hệ thống thanh toán phi ngân hàng. Bên cạnh việc phân tích, khái quát chung về tiền điện tử quốc gia, bài viết làm rõ những vấn đề pháp lý đặt ra trong bối cảnh Việt Nam đang có ý định nghiên cứu và triển khai phát hành tiền điện tử quốc gia, từ đó đưa ra khuyến nghị hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.


Từ khóa: Tiền điện tử; tiền điện tử quốc gia; NHTW.

LEGAL PROVISIONS ON NATIONAL CRYPTOCURRENCY

Abstract: The advent and rapid development of cryptocurrency issued by non-state actors as well as the fact that the online payment system tend to depend more and more on non-bank payment solution providers leading to the role of the banking system, especially the central bank, is likely to be weakened. One of the urgent issues raised is that if the development of private crytocurrencies cannot be banned, central banks will have to consider deploying their own cryptocurrency projects to minimize risks. National cryptocurrency is a mean and solution for the central bank to validate and strengthen its presence in the field of online payments and reduce the risks of instability caused by dependence on non-bank payment systems. In addition to providing a general analysis and overview of the national cryptocurrency, the article clarifies the legal issues posed in the context that Vietnam is intending to research and deploy the issuance of national cryptocurrency, thereby making recommendations to improve the law in this field.

Keywords: Digital currency, central bank digital currency, central bank.


1. Khái quát chung về tiền điện tử quốc gia

1.1. Khái niệm tiền điện tử quốc gia

Trong bối cảnh toàn cầu gia tăng mạnh mẽ về các loại tiền điện tử của tư nhân, nhiều quốc gia đang cân nhắc về việc phát hành tiền điện tử quốc gia. Ở một số nước, NHTW đã tiến hành đến giai đoạn nâng cao của thử nghiệm tiền điện tử quốc gia như: Trung Quốc, Thụy Điển, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ...; còn một số khác đã chính thức phát hành tiền điện tử quốc gia như: Bahamas, Nigeria, Campuchia…


Tiền điện tử quốc gia khác với một số loại tiền điện tử khác - loại tiền do tổ chức tư nhân phát hành, không phải tiền tệ hợp pháp và không đại diện cho quốc gia

Tuy vậy, hiện nay, trên thế giới vẫn chưa có một định nghĩa chính thức về tiền điện tử quốc gia. Trong tài liệu nghiên cứu của các tổ chức thế giới như Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (Bank for International Settlements - BIS), Ủy ban Thanh toán và Cơ sở hạ tầng Thị trường (CPMI) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thì khái niệm về tiền điện tử quốc gia được mô tả chi tiết như sau:

BIS đưa ra giải thích tiền điện tử quốc gia là “một dạng tiền điện tử của NHTW khác với số dư trong tài khoản dự trữ hoặc tài khoản thanh toán truyền thống”1. Định nghĩa này phân biệt tiền điện tử quốc gia với tiền mặt vật chất (trái ngược với tiền điện tử quốc gia, là không ở dạng số hóa) và tiền điện tử thông thường (mặc dù ở dạng điện tử nhưng do ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tư nhân phát hành).

CPMI và IMF có một định nghĩa tương tự nhau về tiền điện tử quốc gia. Các nhà nghiên cứu của hai tổ chức này đều nhấn mạnh rằng: “Tiền điện tử quốc gia là một dạng tiền mới của NHTW. Nghĩa là, một khoản nợ NHTW, được tính bằng một đơn vị tài khoản hiện có, đóng vai trò vừa là phương tiện trao đổi vừa là nơi lưu trữ giá trị”2.

Một số quốc gia nghiên cứu phát hành tiền điện tử quốc gia cũng đưa ra quan điểm của mình về tiền điện tử quốc gia: NHTW Jamaica đưa ra giải thích về tiền điện tử quốc gia: “Tiền điện tử quốc gia là một dạng tiền tệ kỹ thuật số do NHTW phát hành và do đó nó được đấu thầu hợp pháp. Không nên nhầm lẫn với tiền điện tử được phát hành bởi tư nhân và không được hỗ trợ bởi cơ quan Trung ương. Tiền điện tử quốc gia được hỗ trợ hoàn toàn bởi NHTW - nhà phát hành duy nhất”3.

Như vậy, có thể thấy rằng, tuy có những cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung những quan điểm trên cũng đã đưa ra các nhìn nhận cơ bản giống nhau đối với tiền điện tử quốc gia. Qua việc tìm hiểu các quan điểm về định nghĩa của tiền điện tử quốc gia, ta có thể hiểu khái niệm về tiền điện tử quốc gia như sau: “Tiền điện tử quốc gia là đồng tiền pháp định do NHTW hay cơ quan có chức năng phát hành tiền tệ của quốc gia phát hành, nhằm mục đích quy định một hình thức tiền tệ mới được pháp luật thừa nhận tính hợp pháp, đảm bảo về mặt giá trị và được chấp nhận, sử dụng trong phạm vi toàn quốc”.

1.2. Đặc điểm của tiền điện tử quốc gia

Ở La Mã cổ đại, cố vấn pháp lý chính của hoàng đế đã mô tả cơ sở lý luận cơ bản cho đồng tiền do Chính phủ phát hành bằng cách sử dụng các thuật ngữ quen thuộc với các nhà kinh tế hiện đại: (i) Đơn vị tính giá trị hàng hóa và dịch vụ; (ii) Một phương pháp lưu trữ giá trị; (iii) Một phương tiện trao đổi tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch kinh tế và tài chính. Hơn nữa, các nhà luật học La Mã đã thừa nhận rằng, công dụng của tiền tệ không phụ thuộc vào bản chất vật chất của nó và hiệu quả của tiền tệ phụ thuộc niềm tin của công chúng vào sự quản lý của các cơ quan chức năng đối với hệ thống tiền tệ4.

Gần hai thiên niên kỷ sau đó, khi các thiết bị điện tử và mạng tốc độ cao trở nên phổ biến trên thực tế, các NHTW trên toàn cầu hiện đang tích cực khám phá khả năng thiết lập các loại tiền kỹ thuật số có chủ quyền5. Cũng giống như tiền giấy và tiền xu, tiền điện tử của NHTW có thể truy cập được trên toàn cầu và có giá trị như đồng tiền pháp định cho tất cả các giao dịch công khai và tư nhân. Do đó, tiền điện tử quốc gia về cơ bản khác với các dạng tiền ảo (như Bitcoin, Ethereum và Ripple) do các tổ chức tư nhân tạo ra và có giá thị trường biến động rất mạnh. Trong bài viết này, chúng tôi phân tích các đặc điểm chính của tiền điện tử quốc gia với mục đích xây dựng một định hướng thiết kế loại tiền này.

Thứ nhất, tiền điện tử quốc gia tồn tại dưới hình thức điện tử. Đây là đặc điểm cơ bản nhất để phân biệt tiền điện tử quốc gia với tiền xu, tiền giấy, tiền polymer. Nếu tiền xu, tiền giấy hay tiền polymer tồn tại trong môi trường vật chất, hữu hình và cảm nhận được thì tiền điện tử quốc gia tồn tại trong môi trường kỹ thuật số và vô hình. Do đó, có thể nhận xét rằng, đa số các đồng tiền điện tử quốc gia đều được xây dựng dựa trên công nghệ nền tảng Blockchain6.

Thứ hai, tiền điện tử quốc gia do NHTW hoặc cơ quan có chức năng phát hành tiền tệ của quốc gia phát hành nên đây là loại tiền có chủ quyền, được công nhận là một loại tiền tệ mới, hợp pháp và đại diện cho tiền tệ quốc gia. Tiền điện tử quốc gia khác với một số loại tiền điện tử như Bitcoin, Ethereum hay Ripple - những loại tiền do tổ chức tư nhân phát hành, không phải tiền tệ hợp pháp và không đại diện cho quốc gia.

Thứ ba, tiền điện tử quốc gia có thể là một phương tiện trao đổi. Nó có thể là một dạng tiền tệ khác song song với tiền mặt bằng cách cung cấp một phương tiện trao đổi đơn giản và “chi phí thấp có thể được cung cấp trực tiếp bởi NHTW hoặc các ngân hàng thương mại. Hơn nữa, sự khởi xướng của việc phát hành tiền điện tử quốc gia có thể sẽ tạo ra sự lỗi thời của tiền giấy và tiền kim loại”7.

Thứ tư, tiền điện tử quốc gia cũng có thể trở thành một phương tiện lưu trữ giá trị an toàn. Cũng giống như tiền giấy và tiền xu, ta có thể được gửi và giữ trong tài khoản tiền điện tử quốc gia trong một khoảng thời gian và giữ nguyên giá trị của nó. Nó thậm chí có thể kiếm được tiền lãi như được trả trong thời gian ngắn hạn như chứng khoán chính phủ, cung cấp một hình thức lưu trữ mới cho tài sản.

2. Một số vấn đề pháp lý về tiền điện tử quốc gia

Khái niệm về tiền điện tử quốc gia vẫn còn rất mới mẻ với đa số công chúng; đồng thời khả năng nhầm lẫn giữa tiền điện tử quốc gia và tiền điện tử của tổ chức tư nhân phát hành cũng là một vấn đề cần xem xét. Với những đặc điểm cơ bản về tiền điện tử quốc gia đã được chỉ ra ở trên, chúng ta không chỉ hình dung rõ hơn về một loại tiền tệ hợp pháp mới mà đồng thời còn phân biệt được tiền điện tử quốc gia so với tiền mặt truyền thống và tiền điện tử thông thường. Ngoài ra, những đặc điểm của tiền điện tử quốc gia cũng cho thấy ưu thế của tiền điện tử quốc gia so với các phương tiện thanh toán khác, từ đó có thể khẳng định rằng tiền điện tử quốc gia thích hợp để phát hành trong tương lai và cần được quy định thành một hình thức tiền tệ hợp pháp mới nhằm thay thế hoặc bổ sung tiền mặt pháp định hiện nay. Mặc dù vậy, xoay quanh vấn đề tiền điện tử quốc gia, vẫn còn nhiều vấn đề pháp lý cần xem xét.

Thứ nhất, hiện nay, chưa có một văn bản pháp luật chính thức nào quy định về tiền điện tử hay tiền điện tử quốc gia. Hiện tại, thuật ngữ “tiền điện tử”, “tiền điện tử quốc gia” tại Việt Nam chưa được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ tồn tại dưới dạng một số ghi nhận chính thức về mặt chính sách, pháp luật liên quan đến tiền điện tử có thể kể đến như: Quyết định số 1255/QĐ-TTg ngày 21/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo; Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 13/01/2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về việc đẩy mạnh chuyển đổi số và bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng; Quyết định số 2006/QĐ-NHNN ngày 17/12/2021 của Thống đốc NHNN về ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 1813/QĐ-TTg ngày 28/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025.

Hiện tại, tiền điện tử đã xâm nhập vào các hoạt động đầu tư, quan hệ dân sự, tác động đến đời sống kinh tế - xã hội của người dân nên đòi hỏi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần nhanh chóng ban hành các quy định pháp luật và có những biện pháp quản lý phù hợp để điều chỉnh các quan hệ phát sinh liên quan đến tiền điện tử, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư, người dân và hạn chế các tội phạm liên quan đến tiền điện tử.

Thứ hai, nếu tiền điện tử quốc gia được ban hành thì các quy định về thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay cũng cần được sửa đổi. Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt là văn bản điều chỉnh dịch vụ thanh toán điện tử. Tuy nhiên, văn bản này không đề cập đến khái niệm tiền điện tử quốc gia như là đồng tiền được phép trở thành phương tiện thanh toán hoặc quy định chi tiết các loại phương tiện thanh toán điện tử. Mặc dù có thể trong tương lai không xa, tiền điện tử quốc gia có thể được phát hành và dần trở nên phổ biến nhưng lại chỉ có số ít người hiểu rõ và phân biệt được tiền điện tử với các loại tiền kỹ thuật số khác. Điều này dễ dẫn đến việc người dùng đánh giá sai lệch hoặc có cách hiểu không thống nhất với nhau, gây ra trở ngại cho các bên trong việc sử dụng tiền điện tử quốc gia để thanh toán trong tương lai. Vậy vấn đề đặt ra là Việt Nam cần bổ sung quy định về tiền điện tử quốc gia trong các văn bản pháp luật điều chỉnh thanh toán không dùng tiền mặt.

Thứ ba, về các quy định liên quan đến an toàn bảo mật với tiền điện tử quốc gia. Những năm gần đây, rất nhiều vụ lừa đảo nhắm đến người sử dụng các hình thức thanh toán trực tuyến nên đã dẫn đến việc người dân e ngại lựa chọn giải pháp thanh toán không dùng tiền mặt. Trong khi có những người dân quan tâm đến tiền điện tử nhưng lại không nhận thức rõ được những rủi ro kèm theo. Báo cáo của ADVANCE.AI cho thấy, 71% gian lận trực tuyến xuất phát từ hành vi trộm cắp danh tính. Trong các giao dịch tiền điện tử, người dùng có thể giấu danh tính của mình, khiến các giao dịch này càng dễ bị lừa đảo hơn. Trong bối cảnh nền kinh tế kỹ thuật số của Đông Nam Á đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tiền điện tử có thể làm tăng thêm nguy cơ lừa đảo8.

Hiện nay, ở nước ta cũng chưa có nhiều văn bản pháp luật quy định rõ về trách nhiệm pháp lý cũng như những vấn đề liên quan đến an toàn bảo mật của tiền điện tử, mới chỉ có Luật số 51/2005/QH11 ngày 29/11/2005 của Quốc hội về giao dịch điện tử… vì vậy cần phải thúc đẩy hơn nữa việc quy định rõ ràng các trách nhiệm pháp lý khi vi phạm vấn đề an toàn bảo mật. Bên cạnh đó, người dùng cũng cần tìm hiểu kỹ hơn để bảo vệ các thông tin, danh tính của mình.

Tiền điện tử quốc gia có thể trở thành đối tượng của các phi vụ phi pháp và tội phạm mạng. BIS đã kêu gọi các NHTW tiếp tục nghiên cứu các sáng kiến kỹ thuật số và cẩn trọng xem xét các tác động của việc phát hành tiền điện tử quốc gia. Vì vậy, khi ban hành đồng tiền điện tử quốc gia, Việt Nam cũng cần xem xét để bảo mật an toàn thông tin của khách hàng, nếu giải pháp này được thực hiện tốt thì đồng tiền điện tử quốc gia sẽ thực sự là một biện pháp hữu ích trong việc thanh toán không dùng tiền mặt trong tương lai.

Thứ tư, về việc xác định tính chất tài sản của tiền điện tử quốc gia. Để xác định tính hợp pháp của bất kỳ loại tiền tệ nào thì xem xét nó có phải là một loại tài sản hay không. Về điều này, Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Chứng khoán năm 2019 ở nước ta mới chỉ dừng lại ở việc xem xét tiền mặt pháp định là tài sản.

Theo đó, tại khoản 1, Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 đưa ra khái niệm về tài sản như sau:

“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Từ quy định này đã chỉ ra 04 đối tượng được công nhận là tài sản và được bảo đảm về mặt pháp lý trong các giao dịch dân sự. Một trong số đó là tiền. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng như Luật NHNN năm 2010, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi bổ sung năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có quy định cụ thể về tiền. Hiện nay, tiền pháp định của Việt Nam tồn tại dưới dạng tiền giấy, tiền kim loại.

Ngoài quy định ở Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015, tài sản là tiền cũng được quy định ở Luật Chứng khoán năm 2019. Tại khoản 1, Điều 88 Luật Chứng khoán năm 2019 về quản lý tài sản của khách hàng quy định như sau: “1. Tài sản của khách hàng do công ty chứng khoán tiếp nhận và quản lý bao gồm tiền gửi giao dịch chứng khoán, chứng khoán lưu ký, lưu giữ tại công ty chứng khoán và các quyền có liên quan là tài sản thuộc quyền sở hữu của khách hàng, không phải là tài sản của công ty chứng khoán”.

Từ đó, có thể thấy rằng, các quy định pháp luật hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc công nhận tiền mặt pháp định là tài sản. Tuy nhiên, với những đặc điểm về tiền điện tử quốc gia đã được trình bày trước đó, đây được xem là đồng tiền điện tử pháp định, đại diện cho quốc gia, do đó có thể hiểu tiền điện tử quốc gia mang đầy đủ tính chất để trở thành một loại tài sản theo quy định của pháp luật.

3. Khuyến nghị hoàn thiện pháp luật về tiền điện tử quốc gia

Thứ nhất, cần có một định nghĩa rõ ràng, cụ thể về tiền điện tử quốc gia

Hiện nay, ở Việt Nam, dưới góc độ pháp lý, thuật ngữ về tiền điện tử được xuất hiện tại khoản 3 Điều 4 Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012, tuy nhiên chưa có sự giải thích thêm ở bất kỳ văn bản luật, văn bản dưới luật nào. Gần đây nhất, tại khoản 12 Điều 3 của Dự thảo thay thế Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt đã đề cập đến khái niệm tiền điện tử như sau: “Tiền điện tử là giá trị tiền tệ lưu trữ trên các phương tiện điện tử được trả trước bởi khách hàng cho ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán để thực hiện giao dịch thanh toán và được đảm bảo giá trị tương ứng tại ngân hàng, bao gồm: thẻ trả trước, ví điện tử, tiền di động”. Với khái niệm này đã chỉ ra tiền điện tử được quy định trong các văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành là một lượng giá trị được lưu giữ trên các thiết bị điện tử.

Chính vì thế, việc đầu tiên khi hoàn thiện khung pháp lý về tiền điện tử quốc gia là cần đưa ra một định nghĩa rõ ràng, cụ thể về tiền điện tử quốc gia để xác định phạm vi và đối tượng chịu sự quản lý. Từ đó, làm cơ sở cho việc xây dựng các quy định pháp luật khác có liên quan để đáp ứng nhu cầu từ thực tiễn và trong kỷ nguyên công nghệ số.

Từ các quan điểm về tiền điện tử quốc gia trên thế giới, theo chúng tôi, có thể xây dựng khái niệm về tiền điện tử quốc gia như sau: “Tiền điện tử quốc gia là đồng tiền pháp định do NHTW hay cơ quan có chức năng phát hành tiền tệ của quốc gia phát hành, được pháp luật thừa nhận tính hợp pháp, đảm bảo về mặt giá trị và được chấp nhận, sử dụng trong phạm vi toàn quốc”.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định về thanh toán không dùng tiền mặt

Tại khoản 10 Điều 3 Dự thảo thay thế Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt đã quy định rõ 08 loại phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt và dự liệu phương tiện khác được NHNN chấp thuận sử dụng trong giao dịch thanh toán như sau: “Phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt (sau đây gọi là phương tiện thanh toán) là phương tiện dựa trên hình thức giấy hoặc điện tử do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được NHNN cấp Giấy phép phát hành và được sử dụng nhằm thực hiện giao dịch thanh toán, bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, ví điện tử, tiền di động và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của NHNN”.

Ngoài ra, cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần quy định về quy trình thanh toán bằng tiền điện tử thật cụ thể, rõ ràng nhằm có cơ chế quản lý, vận hành khi Nhà nước phát hành tiền điện tử quốc gia.

Thứ ba, xây dựng các quy định về an toàn, bảo mật đối với tiền điện tử quốc gia

Tiền điện tử quốc gia và tiền điện tử của tổ chức tư nhân có điểm chung là đều được xây dựng dựa trên công nghệ nền tảng Blockchain. Tuy nhiên, tính an toàn, bảo mật của tiền điện tử quốc gia phải cao hơn các loại tiền điện tử còn lại. Hiện nay, quy định pháp luật Việt Nam về tiền điện tử còn tương đối hạn chế và đang trong quá trình xây dựng. Hệ thống pháp luật hiện hành có các quy định về an toàn, bảo mật liên quan đến tiền điện tử như: Quyết định số 349/2002/QĐ-NHNN ngày 17/4/2002 của Thống đốc NHNN về xây dựng, cấp phát, quản lý và sử dụng mã khóa bảo mật trong hệ thống thanh toán điện tử ngân hàng; Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 10/01/2017 của Thống đốc NHNN về việc tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn trong thanh toán điện tử và thanh toán thẻ; Quyết định số 1255/QĐ-TTg ngày 21/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo; Quyết định số 1813/QĐ-TTg ngày 28/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025…

Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng, khi ban hành tiền điện tử quốc gia, chúng ta cần xây dựng các quy định về bảo mật an toàn như: Quy định các yêu cầu kỹ thuật về an toàn bảo mật đối với trang thiết bị phục vụ thanh toán bằng tiền điện tử quốc gia, quy định về quyền sao kê lịch sử thanh toán, quy trình giải quyết tranh chấp, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và có chế tài xử lý như: Chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm như tổ chức thực hiện chuyển tiền, thanh toán tiền điện tử quốc gia cho những hoạt động bất hợp pháp… để có thể tạo ra một đồng tiền số pháp định thực sự đi vào đời sống của người dân.

Thứ tư, cần xác định tiền điện tử quốc gia là tài sản

Bên cạnh đó, để bảo đảm quyền lợi của người dùng khi thanh toán, sử dụng tiền điện tử quốc gia cũng như có cơ chế bảo đảm tính hợp pháp đồng tiền này thì cần coi đây là một loại tài sản theo quy định pháp luật hiện hành. Khi tiền điện tử quốc gia được phát hành, cần sửa đổi và bổ sung một số quy định pháp luật: (i) Quy định về tài sản tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 cần được sửa đổi theo hướng bổ sung khái niệm tài sản bao gồm đồng tiền điện tử quốc gia; (ii) Quy định về phương tiện thanh toán hợp pháp của Việt Nam tại khoản 2 Điều 17 Luật NHNN năm 2010 cần bổ sung thêm tiền điện tử quốc gia do NHNN phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Việc sửa đổi các quy định trên là cơ sở điều chỉnh các quy định về tài sản ở các văn bản luật khác có liên quan, từ đó góp phần tạo tiền đề pháp lý vững chắc cho sự ra đời của tiền điện tử quốc gia ở Việt Nam. Khi được công nhận về tính hợp pháp của một loại tài sản, tiền điện tử quốc gia sẽ được tham gia rộng rãi vào các giao dịch trao đổi, mua bán hàng hóa, từ đó thực sự đi vào đời sống của người dân.

Thứ năm, với quá trình chuẩn bị và nghiên cứu, cần đề xuất ban hành đồng tiền điện tử quốc gia

Các vấn đề về kỹ thuật, pháp lý, tính chất và lợi ích trong việc nghiên cứu để phát hành đồng tiền điện tử quốc gia đang được cân nhắc. Cụ thể:

Về kỹ thuật, kỹ thuật Blockchain xây dựng trên nền mã nguồn mở, đã được chứng thực qua quãng thời gian dài và qua một số lượng khổng lồ (hơn một triệu) đồng tiền mã hóa đã phát hành đã chứng minh tính ổn định và đảm bảo của kỹ thuật Blockchain. Do đó, đồng tiền điện tử quốc gia hoàn toàn có thể sử dụng công nghệ Blockchain để phát triển9.

Về pháp lý và tính chất của tiền điện tử quốc gia đã được các nước trên thế giới nghiên cứu và thử nghiệm bước đầu và đã có những thành công, do đó chúng ta có nhiều cơ hội để kế thừa.

Tiền điện tử quốc gia có nhiều lợi ích như thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, ngăn chặn tội phạm rửa tiền, trốn thuế…

Nhà nước cần đầu tư nghiên cứu về một loại tiền điện tử quốc gia phù hợp với đời sống kinh tế, xã hội của nước ta, tạo điều kiện tốt cho lưu thông hàng hóa, trao đổi tài sản, cất trữ tài sản. Và đồng tiền điện tử quốc gia do NHNN phát hành là một sự lựa chọn đáp ứng được các yêu cầu đó.

Những khuyến nghị xây dựng khung pháp lý về tiền điện tử quốc gia trên đây mang tính gợi mở nhằm giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể có những điều kiện thuận lợi nhất tiếp cận về tiền điện tử quốc gia, xây dựng cơ chế phát hành đảm bảo đây là một loại tiền tệ có thể lưu thông vận hành tốt trong xã hội, cũng như đảm bảo được vai trò quản lý loại tiền này.


1 Committee on Payments and Market Infrastructure (BIS) (2018), Markets Committee Papers, p.1.
2 Wouter Bossu, Masaru Itatani, Catalina Margulis, Aspects of Central Bank Digital Currency: Central Bank and Monetary Law Considerations, IMF Working Paper, p.6.
3 Prepares for central bank digital currency, Địa chỉ truy cập: https://jis.gov.jm/boj-prepares-for-central-bank-digital- currency/, truy cập ngày 16/4/2022.
4 Schumpeter (1954), p.67 được dịch từ đoạn văn bản sau của Pauls: “People, in handling money in everyday transactions, usually take a coin at its nominal value without any conscious thought of the commodity value of its materials”.
5 Ví dụ: Sveriges Riksbank có khung thời gian tăng tốc để quyết định có khởi chạy tiền điện tử quốc gia của mình (Boel 2016 và Skingsley 2016), Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đang thử nghiệm các thông số kỹ thuật (Fan, 2016) và NHTW Anh đang tiến hành một cuộc điều tra kéo dài nhiều năm (Broadbent, 2016). Xem thêm gần đây quan điểm từ các quan chức tại NHTW châu Âu (Mersch, 2017) và Ngân hàng Norges (Nicolaisen, 2017).
6 Công nghệ Blockchain là hình thức phổ biến nhất để ghi lại và chia sẻ sổ cái phân tán. Do đó, có thể nhận xét rằng, đa số các đồng tiền điện tử quốc gia đều được xây dựng dựa trên công nghệ nền tảng Blockchain. Blockchain nắm giữ dữ liệu của các giao dịch xảy ra đồng thời trong các khối riêng lẻ - được liên kết theo trật tự thời gian, tạo thành một chuỗi tất cả các giao dịch được liên kết với nhau trong quá khứ. Với công nghệ hiện đại, Blockchain đã giúp cho việc triển khai tiền điện tử quốc gia trở nên dễ dàng hơn.
7 Michael D. Bordo and Andrew T. Levin (2017), Central Bank Digital Currency and the Future of Monetary Policy, https://www.hoover.org/sites/default/files/research/docs/17104-bordo-levin_updated.pdf, truy cập ngày 25/4/2022.
8 Hữu Chiến (2021), Quản lý tiền điện tử: Cần hành lang pháp lý xuyên biên giới hiệu quả, https://bnews.vn/quan-ly-tien-dien-tu-can-hanh-lang-phap-ly-xuyen-bien-gioi-hieu-qua/188926.html, truy cập ngày 25/4/2022.
9 Nguyễn Đức Việt (2021), Hiện trạng về tiền điện tử pháp định trên thế giới và đề xuất chính sách cho Việt Nam, Hội thảo khoa học Quốc gia - Định hình lại hệ thống tài chính toàn cầu và chiến lược của Việt Nam, số 58, tr.887.


Tài liệu tham khảo:

1. BIS (2018), Committee on Payments and Market Infrastructure, Markets Committee Papers.

2. Bộ luật Dân sự năm 2015 .

3. Hữu Chiến (2021), Quản lý tiền điện tử: Cần hành lang pháp lý xuyên biên giới hiệu quả.

4. Luật Chứng khoán năm 2019.

5. Luật NHNN năm 2010.

6. Michael D. Bordo and Andrew T. Levin (2017), Central Bank Digital Currency and the Future of Monetary Policy.

7. Norges Bank (2018), Central bank digital currencies, Norges Bank Papers.

8. Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt.

9. Nguyễn Đức Việt (2021), Hiện trạng về tiền điện tử pháp định trên thế giới và đề xuất chính sách cho Việt Nam, Hội thảo khoa học Quốc gia - Định hình lại hệ thống tài chính toàn cầu và chiến lược của Việt Nam.

10. Prepares for central bank digital currency, https://jis.gov.jm/boj-prepares-for-central-bank-digital- currency/, truy cập ngày 28/4/2022.

11. Wouter Bossu, Masaru Itatani, Catalina Margulis, Aspects of Central Bank Digital Currency: Central Bank and Monetary Law Considerations, IMF Working Paper.


Nguyễn Thị Thu Hà, Nguyễn Thùy Dung, Nguyễn Thị Vân
Trường Đại học Luật Hà Nội

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của ngành Ngân hàng, doanh số giải ngân chương trình cho vay lãi suất ưu đãi đối với chủ đầu tư, người mua nhà các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ (chương trình 145 nghìn tỉ đồng) đã có sự cải thiện qua thời gian, tháng sau cao hơn tháng trước, tương ứng với nguồn cung nhà ở xã hội gia tăng.
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Xem thêm
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng