Giải pháp ứng phó của Nga trước rủi ro ngắt kết nối SWIFT

Quốc tế
Hệ thống SWIFT (Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunication) là một hệ thống liên ngân hàng quốc tế để truyền thông tin và thanh toán. Chức năng thanh toán bằng thẻ ngân hàng được hỗ trợ bởi hệ thống SWIFT là sự phản ánh an ninh tài chính của đất nước.
aa

Hệ thống SWIFT (Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunication) là một hệ thống liên ngân hàng quốc tế để truyền thông tin và thanh toán. Chức năng thanh toán bằng thẻ ngân hàng được hỗ trợ bởi hệ thống SWIFT là sự phản ánh an ninh tài chính của đất nước. Trong cuộc khủng hoảng ở Ukraine, năm 2014, Hoa Kỳ và châu Âu đã áp đặt các biện pháp trừng phạt chống Nga trong một số lĩnh vực, bao gồm cả lĩnh vực tài chính. Một trong những biện pháp cấp tiến được gọi là ngắt kết nối của các ngân hàng Nga khỏi hệ thống SWIFT, điều này sẽ dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống thanh toán Nga sử dụng thẻ ngân hàng và do đó, sẽ làm suy yếu hoạt động kinh tế trong và ngoài nước của nước này. Mặc dù biện pháp này trên thực tế chưa được áp dụng cho đến ngày 27/02/2022, khi Hoa Kỳ, EU đạt thỏa thuận về việc loại một số ngân hàng Nga khỏi hệ thống SWIFT, nhưng vấn đề ngăn chặn mối đe dọa nguy hiểm như vậy đối với hệ thống tài chính Nga đòi hỏi một giải pháp cấp bách. Để chống lại các lệnh trừng phạt của Hoa Kỳ và châu Âu và bảo vệ an ninh tài chính của mình, Nga đã nhanh chóng tạo ra hệ thống thanh toán quốc gia của riêng mình, cũng như Hệ thống chuyển thông điệp tài chính (Систему передачи финансовых сообщений (СПФС, SPFS)).

Bài viết xem xét các biện pháp mà Nga thực hiện sau năm 2014 để chống lại các lệnh trừng phạt tài chính của Mỹ liên quan đến mối đe dọa nước này mất kết nối với SWIFT. Các biện pháp này cho phép nghiên cứu một cách có hệ thống về vị trí, vai trò, chức năng và ý nghĩa của hệ thống SWIFT trong quan hệ quốc tế hiện đại, cũng như tác động của nó đối với trật tự thế giới chính trị và kinh tế toàn cầu.

Tác động toàn cầu của hệ thống SWIFT

Trong cuộc sống hiện đại, thẻ ngân hàng là vật mang thông tin về tình trạng tài khoản của các cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức tài chính. Thẻ ngân hàng xuất hiện lần đầu tiên ở Hoa Kỳ vào những năm 1950. Sự hồi sinh của hoạt động kinh tế và thương mại quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã thúc đẩy sự hình thành khu vực tài chính quốc tế. Bắt đầu từ những năm 1970, sự phát triển nhanh chóng của điện tử và công nghệ, quan trọng nhất là sự tin học hóa rộng rãi đã liên kết tài chính và công nghệ với nhau, điều này đã sớm dẫn đến sự phổ biến của thẻ ngân hàng trên khắp thế giới. Sự xuất hiện của thẻ ngân hàng giúp thực hiện ba hình thức chuyển tiền chính: thứ nhất, chuyển tiền từ thẻ này sang thẻ khác; thứ hai, chuyển tiền vào thẻ bằng telex; thứ ba, chuyển tiền nhanh trong hệ thống chung bằng mã ngắn. Sự phổ biến của thẻ ngân hàng không chỉ làm giảm lưu thông tiền mặt và séc, mà còn xóa bỏ vấn đề hạn chế về thời gian và không gian, làm tăng đáng kể hiệu quả của hệ thống thanh toán ngân hàng. Hệ thống thanh toán bằng thẻ ngân hàng phát triển là minh chứng cho sự thịnh vượng kinh tế của đất nước, sự phát triển của lĩnh vực tài chính, công nghệ tiên tiến, thương mại và an ninh tài chính.

Ngoài ra, Mỹ, Nhật Bản và các nước có hệ thống tài chính và công nghệ tiên tiến đã phát triển hệ thống trao đổi thông tin tài chính và thanh toán độc lập của riêng mình. Nhờ không ngừng mở rộng hợp tác quốc tế, các hệ thống này đã dần chiếm được thị phần đáng kể trên thị trường thế giới, điều này dẫn đến sự xuất hiện của “Big Five” nổi tiếng: MasterCard, VISA, American Express, JBC và Dinner. Năm nhóm này là các doanh nghiệp độc lập lớn lên ở các nước phát triển như Hoa Kỳ và Nhật Bản. Các quốc gia này do có sức mạnh kinh tế nên đã tích cực phát triển kinh doanh trong lĩnh vực thanh toán quốc tế và chuyển giao thông tin tài chính quốc tế và cuối cùng trở thành các quốc gia độc quyền trên vũ đài tài chính quốc tế. Để hoạt động kinh doanh quốc tế, các tổ chức tài chính của quốc gia phải thiết lập các liên kết kinh doanh với một hoặc nhiều nhóm để hòa nhập vào hệ thống thanh toán quốc tế và hệ thống trao đổi thông tin tài chính.

Trong bối cảnh đó, vào tháng 5/1973, các ngân hàng quốc tế đã thành lập tổ chức phi lợi nhuận Hiệp hội Viễn thông Tài chính liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT). Qua nhiều thập kỷ phát triển SWIFT, khoảng 11.000 tổ chức tài chính từ 215 quốc gia ở tất cả các khu vực trên thế giới đã trở thành thành viên của tổ chức này. Hiện tại, SWIFT là hệ thống chuyển tiền rộng rãi, an toàn và tiện lợi nhất, kết nối các tổ chức tài chính quốc tế.

Trụ sở chính của SWIFT đặt tại Brussels (Bỉ), và cộng đồng có thêm hai trung tâm - ở Amsterdam (Hà Lan) và ở New York (Mỹ). Các tài sản chính của SWIFT bao gồm nền tảng thông tin, hệ thống mã hóa máy tính và hệ thống tiêu chuẩn tài chính. Tại mỗi quốc gia triển khai hệ thống SWIFT, cơ quan quản lý khu vực được thành lập để thu thập, xử lý thông tin và dữ liệu, thực hiện các giao dịch và hoạt động thanh toán bù trừ của các ngân hàng quốc tế. Cả hai trung tâm SWIFT đều trao đổi tất cả dữ liệu trong thời gian thực. Sau năm 2009, một trung tâm SWIFT thứ ba được thành lập tại Thụy Sĩ để tăng cường bảo mật cho các trung tâm dữ liệu châu Âu. Kể từ đó, dữ liệu châu Âu được lưu trữ và xử lý tại các trung tâm ở Hà Lan và Thụy Sĩ, trong khi dữ liệu xuyên Đại Tây Dương được lưu trữ và xử lý tại các trung tâm ở Hoa Kỳ và Thụy Sĩ. Tư cách thành viên trong SWIFT không chỉ phản ánh vị thế quốc tế của một tổ chức tài chính, mà còn cho phép sử dụng hiệu quả cơ sở hạ tầng tài chính toàn cầu hoặc cơ sở hạ tầng tài chính của nước thứ ba (không phải nước gửi và không phải nước nhận). Việc ngắt kết nối khỏi hệ thống SWIFT có nghĩa là sự tách biệt của hệ thống ngân hàng quốc gia khỏi hệ thống tài chính toàn cầu và làm suy yếu khả năng chuyển tiền giữa các chính phủ, doanh nghiệp và tổ chức tài chính, gây ra thiệt hại nghiêm trọng.

Trong khuôn khổ của hệ thống SWIFT, các ngân hàng tham gia tương tác với nhau một cách hiệu quả thông qua một thông điệp chuẩn bằng ngôn ngữ SWIFT. Mỗi ngân hàng trong thông điệp được nhận dạng bằng mã SWIFT duy nhất, bao gồm 8-11 chữ cái tiếng Anh và chữ số Ả Rập. Mã SWIFT được gán cho thành viên khi tham gia hệ thống SWIFT và được ISO chứng nhận là mã nhận dạng của tổ chức tài chính này. Đó là lý do tại sao mỗi chi nhánh ngân hàng có một mã riêng.

Về thành phần các thành viên SWIFT, hầu hết đều là các tổ chức tài chính quan trọng của thế giới. Về mặt kỹ thuật, mã SWIFT được sử dụng để chuyển tiền nhanh và "giao ngay" trên khắp thế giới. SWIFT có thể chuyển 11 triệu tin nhắn mỗi ngày; ngày nay, số lượng tin nhắn được truyền đi là 5 triệu tin nhắn mỗi ngày và tổng số tiền chuyển là hàng nghìn tỷ đô la Mỹ. Hoạt động kinh doanh của hệ thống SWIFT ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến phúc lợi chính trị và kinh tế của cộng đồng quốc tế. Về bản chất, SWIFT là một công ty cổ phần tư nhân do các cổ đông sở hữu và quản lý theo điều lệ và pháp luật. Cổ đông - đại diện của tất cả các thành viên - những người nắm giữ cổ phiếu SWIFT từ khắp nơi trên thế giới, những người bầu chọn các thành viên Hội đồng quản trị (25 người). SWIFT có trụ sở chính tại Brussels (Bỉ), công ty cũng được đăng ký tại Brussels, các hoạt động của nó phải tuân theo luật pháp của Bỉ và EU, do Bỉ là thành viên của Liên minh châu Âu. Ngân hàng Quốc gia Bỉ (NBB) đóng vai trò hàng đầu trong việc giám sát hàng ngày SWIFT thông qua các ngân hàng trung ương G-10. Về mặt lý thuyết, do các yếu tố nêu trên, hệ thống SWIFT đúng ra phải chịu sự chi phối của Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, do vị thế bá chủ của mình trong chính trị quốc tế, cũng như vị thế mạnh và số lượng lớn các tổ chức tài chính của Mỹ, Hoa Kỳ tìm cách chi phối SWIFT theo ý mình. Trong những năm 1980, Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã cố gắng giành quyền kiểm soát cơ sở dữ liệu SWIFT nhưng không thành công. Sau vụ tấn công khủng bố 11/9, các tổ chức tình báo và an ninh tài chính của Mỹ với lý do chống khủng bố đã dần dần tăng cường kiểm soát hệ thống SWIFT, đe dọa sẽ trừng phạt nếu SWIFT không chịu tuân theo các yêu cầu của Mỹ. Vì vậy, vào năm 2011, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ bắt đầu giám sát dữ liệu của hệ thống SWIFT, và Bộ Tài chính Hoa Kỳ bắt đầu đưa vào danh sách đen các ngân hàng "sai trái". Khi một thành viên bị Bộ Tài chính Hoa Kỳ đưa vào danh sách đen, các ngân hàng trên khắp thế giới được yêu cầu giữ lại các khoản chuyển tiền cho thành viên đó. Kể từ đó, do sự thống trị ngày càng tăng của Mỹ đối với hệ thống SWIFT, nền tảng thông tin tài chính do các tổ chức tài chính quốc tế tạo ra đã dần biến thành một công cụ phục vụ cho chính sách đối ngoại của Mỹ. Lần đầu tiên Hoa Kỳ ngắt kết nối Iran khỏi hệ thống SWIFT vào năm 2012. Sau đó, Hoa Kỳ đe dọa bằng biện pháp này không chỉ "các quốc gia thù địch", mà còn cả các thành viên EU có quan hệ kinh tế với Iran, mà Hoa Kỳ đã biết thông qua việc giám sát hệ thống SWIFT. Do mối quan hệ giữa Mỹ và Nga tiếp tục xấu đi sau khi Liên Xô tan rã, Nga đã trở thành mục tiêu tiềm tàng chủ yếu cho một cuộc tấn công của Mỹ bằng cách sử dụng ảnh hưởng chi phối của mình đối với hệ thống SWIFT.

Một số biện pháp ứng phó của Nga

Do tầm quan trọng của SWIFT đối với kiến ​​trúc tài chính quốc tế và thực tế là phương Tây đã nhiều lần đe dọa Nga ngắt kết nối với hệ thống, Nga đã thực hiện một số biện pháp để bảo vệ các ngân hàng và khách hàng của Nga khỏi các lệnh trừng phạt của Mỹ và châu Âu nhằm phá hoại hệ thống thanh toán tài chính của Nga.

Đầu tiên, một hệ thống thanh toán quốc gia đã được tạo ra. Trước những mối đe dọa tiềm tàng nêu trên, Chính phủ Nga đã quyết định tạo ra một hệ thống thanh toán quốc gia dựa trên Ngân hàng Trung ương Nga. Vào ngày 05/5/2014, Duma Quốc gia đã thông qua Luật về thành lập Hệ thống Thẻ thanh toán quốc gia (NSPK), sau đó, được Tổng thống V.Putin ký ban hành. Theo quy định của Luật này, để thực hiện chức năng của đơn vị vận hành chính Hệ thống Thẻ thanh toán quốc gia, Công ty cổ phần Hệ thống Thẻ thanh toán quốc gia được thành lập. Ngày 23/7/2014, Công ty cổ phần NSPK chính thức được đăng ký thành lập và 100% cổ phần thuộc sở hữu của Ngân hàng Trung ương Nga. Nhiệm vụ chính của hệ thống này là tạo ra một trung tâm vận hành và thanh toán để xử lý các giao dịch thẻ ngân hàng ở Nga. Vào tháng 7/2015, theo kết quả của cuộc thi sáng tạo toàn Nga về đặt tên và biểu tượng hay nhất của thẻ thanh toán quốc gia đầu tiên ở Nga, cái tên "Mir" đã chiến thắng. Đến nửa đầu năm 2019, 312 ngân hàng Nga đã tham gia hệ thống.

Ngày 15/12/2015, hệ thống thanh toán quốc tế của Nga bắt đầu phát hành lô thẻ ngân hàng đầu tiên, đáp ứng các tiêu chuẩn của hệ thống thanh toán nội địa của Nga - thẻ Mir. Để thúc đẩy thẻ Mir, chính phủ Nga đã ban hành các quy định liên quan, theo đó, tất cả tiền lương, lương hưu và chuyển khoản từ ngân sách liên bang đều được thanh toán bằng thẻ Mir. Nhờ sự hỗ trợ tích cực của chính phủ Nga, số lượng thẻ Mir đã tăng lên chóng mặt chỉ trong một thời gian ngắn. Đến cuối năm 2020, lượng thẻ phát hành đã lên tới 74,6 triệu, chiếm 25,3% thị phần thẻ ghi nợ và phạm vi sẽ tiếp tục được mở rộng. Chris Dinga, chuyên gia phân tích thanh toán tại GlobalData, nhận xét: “Nga quyết tâm giảm bớt ảnh hưởng của các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán của Mỹ trong nước. Để đạt được điều này, nước Nga đang thúc đẩy việc áp dụng Mir thông qua các nhiệm vụ của Chính phủ trên nền một chiến lược toàn diện và tổng thể.

Thứ hai, việc tăng cường hợp tác quốc tế và tích cực phát triển thị trường quốc tế bắt đầu được thực hiện. Ngoài phát triển nội bộ, NSPK có kế hoạch hợp tác với các tổ chức tài chính nước ngoài để phát hành thẻ đồng thương hiệu (co-branded card) có thể hoạt động trong một số hệ thống thanh toán. Như đã đề cập ở trên, để liên kết thẻ mới với các tổ chức tài chính quốc tế, cần thiết lập quan hệ hợp tác với Big Five. Vào tháng 12/2015, Gazprombank của Nga bắt đầu phát hành thẻ đồng thương hiệu dưới nhãn hiệu Mir-MasterCard. Ngày nay, một số thẻ đồng thương hiệu đã được phát hành ở Nga, bao gồm Mir-MasterCard, Mir-EX, Mir-JCB, Mir-Unionpay... Đồng thời, NSPK luôn bắt kịp thời đại và tích cực sử dụng những công nghệ tiên tiến nhất. Vào tháng 4/2016, giao dịch mua hàng trực tuyến đầu tiên được thực hiện bằng thẻ Mir. Vào tháng 12/2017, chức năng thanh toán điện tử trong hệ thống thanh toán Mir đã được phát triển thêm và hiện tại, nó hỗ trợ dịch vụ Google Pay…

Ngoài ra, Công ty cổ phần NSPK tiếp tục củng cố vị thế của mình trên thị trường quốc tế. Ngày 12/11/2015, NSPK đã ký biên bản ghi nhớ với hệ thống thanh toán Việt Nam Banknet VN. Thẻ Mir đã hoạt động ở Armenia và Kyrgyzstan, và Nga có kế hoạch mở rộng địa bàn hoạt động sang tất cả các nước thuộc Liên minh Kinh tế Á - Âu. Ngoài ra, một số ngân hàng ở Thổ Nhĩ Kỳ và Kazakhstan bắt đầu cung cấp dịch vụ thanh toán thẻ Mir của Nga. Đ​ến cuối năm 2019, thẻ Mir có thể được sử dụng tại 12 quốc gia (bao gồm Uzbekistan, Tajikistan, Azerbaijan, Bulgaria, v.v.). Thẻ Mir đã chính thức trở thành phương tiện thanh toán chính trong hệ thống thẻ thanh toán của Nga.

Thứ ba, các điều kiện hoạt động của các tổ chức phát hành thẻ quốc tế tại Nga đã được quy định phù hợp với Hệ thống thanh toán quốc gia của Nga. Bên cạnh các hoạt động phòng thủ tích cực, Nga cũng đang thực hiện các biện pháp tấn công tích cực. Chính phủ Nga không có kế hoạch cấm các loại thẻ ngân hàng quốc tế hiện đang được sử dụng trên thị trường Nga và ngân hàng Nga chỉ tìm cách đảm bảo nội địa hóa tối đa các giao dịch thẻ ngân hàng quốc tế. Đối với thẻ ngân hàng Visa, MasterCard và các hệ thống thanh toán quốc tế khác được sử dụng ở Nga, sau khi nghiên cứu các công nghệ hiện có và các phương án khả thi, Ngân hàng Trung ương Nga không ngăn cản việc lưu hành thêm, tuy nhiên, Ngân hàng Trung ương cho rằng việc vận hành đồng thời một số doanh nghiệp và trung tâm hoạt động chuyên biệt ở Nga là không phù hợp. Trong quý đầu tiên của năm 2015, một trung tâm giao dịch và thanh toán bù trừ thống nhất của Nga đã được thành lập để xử lý các giao dịch nội địa với thẻ của các hệ thống thanh toán quốc tế. Để tiếp tục hoạt động của mình, các tổ chức phát hành thẻ quốc tế phải ký thỏa thuận hợp tác mới với Hệ thống thanh toán quốc gia Nga và chuyển các giao dịch nội địa của Nga sang hệ thống này. Đồng thời, thẻ do Visa, MasterCard và các hệ thống thanh toán quốc tế khác phát hành đều phải trải qua quá trình xử lý của Hệ thống thanh toán quốc gia Nga. Các biện pháp này sẽ cho phép hệ thống thanh toán quốc tế của Nga theo dõi hoạt động của các tổ chức phát hành thẻ nước ngoài tại Nga.

Ngoài ra, một hệ thống trong nước để trao đổi thông tin tài chính đã được thành lập. Về cốt lõi, SWIFT là một hệ thống trao đổi thông tin tài chính quốc tế. Để vô hiệu hóa hiệu quả mối đe dọa về việc Nga bị ngắt kết nối với hệ thống SWIFT, vào cuối năm 2014, Ngân hàng Trung ương Nga đã đưa vào vận hành hệ thống truyền thông điệp tài chính của riêng mình, có tên là SPFS.

Hệ thống truyền thông điệp tài chính của Ngân hàng Trung ương Nga là một hệ thống tương tự hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT, là một kênh thay thế để truyền các thông điệp điện tử về các giao dịch tài chính và đảm bảo việc truyền tải các thông điệp tài chính không bị gián đoạn cả trong nước và nước ngoài.

Ngân hàng Trung ương Nga đã đưa ra SPFS ở chế độ thử nghiệm vào năm 2014. Hệ thống có thể truyền dữ liệu ở định dạng SWIFT, nhưng không phụ thuộc vào các kênh của nó. Vào năm 2017, SPFS bắt đầu hoạt động đầy đủ, truyền thông điệp về các giao dịch bằng tất cả các loại tiền tệ. Ban đầu, nó chỉ dành cho tổ chức trong nước, nhưng đến tháng 4/2021, hơn 20 ngân hàng Belarus, Armenia Arshidbank và Kyrgyz Bank of Asia đã kết nối với nó. Các công ty con của các ngân hàng lớn của Nga ở Đức và Thụy Sĩ cũng có quyền truy cập vào nó. Các cuộc đàm phán đang được tiến hành về các thỏa thuận SPFS với Trung Quốc. Đến nay, đã có 399 tổ chức tham gia vào hệ thống. Vào năm 2020, lưu lượng truy cập hàng tháng của SPFS lên tới 2 triệu tin nhắn, thị phần của hệ thống trong trao đổi dữ liệu tài chính nội bộ của Nga là 20,6%, vượt cả SWIFT.

Vào tháng 12/2021, Denis Baryshkov, Trưởng phòng Phát triển và Quản lý của Hệ thống thanh toán quốc gia thuộc Ngân hàng Trung ương Nga, cho biết trong số những tổ chức sử dụng được kết nối với hệ thống truyền thông điệp tài chính, có 38 tổ chức nước ngoài tham gia từ 9 quốc gia. Sau đó, ông nói rằng tất cả các ngân hàng Belarus đều được kết nối với hệ thống truyền thông điệp tài chính của Nga. Nếu hệ thống SPFS được các tổ chức tài chính quốc tế sử dụng rộng rãi, thì hậu quả tiêu cực của việc Nga ngắt kết nối với hệ thống SWIFT đối với nền kinh tế Nga sẽ không nằm ngoài tầm kiểm soát.

Cuối cùng, sự phối hợp đã được thiết lập với các cơ chế hợp tác quốc tế khác để cùng giải quyết vấn đề. Như đã đề cập, trước các lệnh trừng phạt của Mỹ trong lĩnh vực tài chính, Nga đã nhanh chóng tạo ra hệ thống thanh toán quốc gia và hệ thống truyền thông điệp chính của riêng mình. Để đối phó với các lệnh trừng phạt của Hoa Kỳ và châu Âu, Nga đã thực hiện các bước để bảo vệ hệ thống tài chính của mình và đã đạt được những bước tiến quan trọng đầu tiên trong việc làm cho hệ thống này trở nên an toàn hơn. Ngoài ra, Nga cũng nỗ lực tăng cường phối hợp chiến lược với các cơ chế quốc tế khác để cùng nhau vô hiệu hóa các tác động tiêu cực của các lệnh trừng phạt của Mỹ và châu Âu dưới hình thức Nga bị ngắt kết nối khỏi hệ thống SWIFT.

Vì Hoa Kỳ thường dùng đến mối đe dọa "cắt đứt hệ thống SWIFT" và Iran, Nga, Triều Tiên, Venezuela đã phải gánh chịu điều này, nhiều quốc gia bắt đầu tìm cách tự bảo vệ mình khỏi xiềng xích của hệ thống SWIFT. Vì vậy, ngoài hệ thống SPFS của Nga, hai giải pháp thay thế quốc tế khác cho hệ thống SWIFT đã xuất hiện.

Đầu tiên là "Hệ thống thanh toán liên ngân hàng xuyên biên giới" (CIPS) của Trung Quốc, ra mắt vào năm 2015 với mục đích quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ. Đến tháng 5/2019, Nhân dân tệ đã trở thành đồng tiền thanh toán được sử dụng rộng rãi thứ năm trên thế giới, chỉ sau đô la Mỹ, Euro, bảng Anh và Yên Nhật. Tính đến nửa đầu năm 2019, CIPS có tổng cộng 31 thành viên tham gia trực tiếp và 847 thành viên tham gia gián tiếp, bao gồm 650 ở châu Á (365 ở Trung Quốc), 105 ở châu Âu, 25 ở Bắc Mỹ, 18 ở châu Đại Dương, 16 ở Nam Mỹ và 33 ở châu Phi.

Thứ hai, công cụ hỗ trợ trao đổi thương mại (Instrument in Support of Trade Exchanges, INSTEX) của Liên minh châu Âu. Khi Mỹ đe dọa ngắt kết nối các quốc gia có quan hệ thương mại với Iran khỏi hệ thống SWIFT, các quốc gia châu Âu đã khởi động hệ thống thanh toán xuyên biên giới của riêng họ. Hệ thống Thanh toán quốc tế châu Âu ra đời vào năm 2018 và ban đầu được gọi là tổ chức có mục đích đặc biệt (Special-Purpose Vehicle, SPV) trước khi đổi tên thành INSTEX. SPV được phát triển chủ yếu để các thành viên EU giao dịch với Iran, nhưng ngày nay, nó là một nền tảng thương mại đơn giản cho các giao dịch hàng đổi hàng. Trên nền tảng này, chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp và có mục đích nhân đạo được giao dịch, cũng như thuốc men, thiết bị y tế; dầu mỏ không có trong danh sách này. Đối với Iran, bất kỳ hệ thống thanh toán nào không bao gồm xuất khẩu dầu đều ít được quan tâm trong thực tế, vì Iran phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu dầu. Hơn nữa, khi cuộc đối đầu Mỹ - Iran tiếp tục, Iran có khả năng sẽ rút khỏi Hiệp ước Cấm thử hạt nhân toàn diện. Nếu điều này xảy ra, triển vọng cho hệ thống này sẽ trở nên rất mơ hồ. Vào tháng 7/2019, Nga bày tỏ sự sẵn sàng tham gia hệ thống INSTEX và đề nghị bao gồm xuất khẩu dầu từ Iran, điều này khiến tương lai của hệ thống càng trở nên bất định.

Ngoài ra, các nước BRICS đã thành lập Ngân hàng Phát triển BRICS và Quỹ Dự trữ ngoại hối, đồng thời bắt đầu đặt cáp quang để đảm bảo an ninh cho thông tin liên lạc mạng. Việc đặt cáp quang BRICS đồng nghĩa với việc các quốc gia thành viên của tổ chức này đã đạt đến một cấp độ hợp tác mới trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, truyền thông, thông tin và mạng, dựa trên sự tin cậy lẫn nhau mang tính chiến lược sâu sắc. Điều này chắc chắn sẽ tạo động lực cho sự phát triển của một hệ thống trao đổi thông tin tài chính quốc tế mới.

Đối với Nga, trước các biện pháp trừng phạt tài chính của Mỹ và châu Âu do hậu quả của cuộc khủng hoảng Ukraine, các biện pháp đã được thực hiện để đề phòng những hậu quả kinh tế tàn khốc. Thông qua các quyết định lập pháp, thành lập doanh nghiệp, phát triển hệ thống và hành động quyết đoán của Chính phủ, Nga đã thiết lập một hệ thống thanh toán thẻ quốc gia độc lập và SPFS trong một thời gian ngắn, giúp vô hiệu hóa các lệnh trừng phạt tài chính của Hoa Kỳ và châu Âu và củng cố an ninh tài chính của đất nước. Các biện pháp mà Nga thực hiện để chống lại các lệnh trừng phạt đã có kết quả. Chỉ ba năm sau khi thành lập hệ thống thanh toán quốc gia Nga và SPFS, Mỹ và châu Âu đã ngừng coi chức năng thanh toán của thẻ ngân hàng Nga là đối tượng của các lệnh trừng phạt tài chính mới chống lại Nga. Mối đe dọa của Hoa Kỳ và châu Âu đối với việc thực hiện các giao dịch thanh toán ở Nga bằng thẻ ngân hàng và SPFS trước đây đã được loại bỏ. Đồng thời, những biến động chính trị ở Venezuela vào tháng 3/2019 một lần nữa cho thấy quyền thống trị của Mỹ trong lĩnh vực tài chính quốc tế và sự phụ thuộc của Nga vào các công nghệ tài chính của Mỹ. Ngoài ra, thẻ Mir có thể được sử dụng tự do và không lo ngại các biện pháp trừng phạt của phương Tây chỉ trên lãnh thổ của Nga, và việc sử dụng nó cho các hoạt động kinh tế bên ngoài đất nước bị hạn chế.

Mỹ càng thường xuyên áp đặt các biện pháp trừng phạt như vậy, thì các quốc gia khác sẽ càng tích cực tìm cách phát triển các phương án dàn xếp thay thế. Một khi giải pháp thay thế tỏ ra hiệu quả, nó sẽ không chỉ làm suy yếu các lệnh trừng phạt của Mỹ mà còn giáng một đòn mạnh vào quyền thống trị của nước này. Hoa Kỳ vẫn là siêu cường duy nhất, và cộng đồng quốc tế vẫn còn một chặng đường dài phía trước để thiết lập một trật tự kinh tế và chính trị mới. Nhiều giải pháp thay thế khác nhau chỉ mới bắt đầu xuất hiện, nhưng các biện pháp để chống lại các lệnh trừng phạt đã được thực hiện và đang bắt đầu mang lại kết quả mong muốn.

Trước tuyên bố chung của Hoa Kỳ và châu Âu về việc loại nước Nga khỏi SWIFT, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nga Elvira Nabiullina đảm bảo cơ sở hạ tầng tài chính nội bộ đã và đang phát triển trong những năm gần đây sẽ vận hành trôi chảy.
“Chúng tôi có hệ thống truyền thông điệp tài chính (SPFS) có thể thay thế SWIFT trong nước và có thể có sự tham gia của các tổ chức nước ngoài. Hệ thống thanh toán quốc gia xử lý toàn bộ lưu lượng thanh toán nội địa bằng thẻ. Các thẻ của các hệ thống thanh toán quốc tế được phát hành bởi các ngân hàng bị trừng phạt sẽ tiếp tục hoạt động trong nước như bình thường”, bà Nabiullina nói.

Để đảm bảo tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Trung ương Nga liên tục cung cấp cho các ngân hàng thanh khoản cho các ngân hàng. Do nhu cầu tiền mặt tăng cao, hệ thống ngân hàng đã chuyển sang trạng thái thiếu hụt thanh khoản cơ cấu. Tuy nhiên, các ngân hàng có đủ tài sản thế chấp, nếu cần thiết, có thể được hỗ trợ thanh khoản từ Ngân hàng Trung ương Nga.

“Chúng tôi thường xuyên liên hệ với các ngân hàng và sẵn sàng thực hiện kịp thời các biện pháp cần thiết để hỗ trợ. Do đó, một số quy định nới lỏng đã được thông qua và chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi nhu cầu của các ngân hàng để có cơ chế giúp ngân hàng làm việc dễ dàng hơn trong điều kiện mới”, bà Nabiullina nhấn mạnh.

Nhật Trung

(Lược dịch từ bài viết "Отключение от SWIFT - главная угроза финансовых санкций США против России" của Xu Venhung, Tiến sĩ Luật, Phó Giáo sư Viện Nga, Đông Âu và Trung Á, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc và cập nhật một số thông tin mới nhất)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.
Phát triển kinh tế xanh của Đan Mạch và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Phát triển kinh tế xanh của Đan Mạch và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Đan Mạch là một trong những quốc gia đi đầu trong việc chuyển đổi nền kinh tế từ các hoạt động dựa trên năng lượng hóa thạch sang các công nghệ năng lượng tái tạo, giao thông bền vững và các quy trình sản xuất xanh. Học hỏi từ kinh nghiệm của Đan Mạch sẽ là một nền tảng quý giá, giúp Việt Nam hiện thực hóa tầm nhìn về một nền kinh tế xanh, công bằng và phát triển bền vững.
Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc và chiến lược ứng phó của ngành Ngân hàng

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc và chiến lược ứng phó của ngành Ngân hàng

Viễn cảnh về làn sóng thứ hai của xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc được dự báo trong năm 2025, không chỉ là một sự kiện kinh tế đơn lẻ mà là một yếu tố cấu trúc định hình lại bối cảnh hoạt động của ngân hàng toàn cầu. Bài viết xác định và phân tích sâu các cơ chế truyền dẫn quan trọng, bao gồm biến động thị trường tài chính, gián đoạn chuỗi cung ứng, sự chuyển hướng dòng chảy thương mại, biến động tiền tệ và rủi ro ngành cụ thể. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự thành công của ngành Ngân hàng trong việc duy trì sự ổn định và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh xung đột thương mại leo thang phụ thuộc vào khả năng kết hợp hài hòa giữa các biện pháp ứng phó ngắn hạn và điều chỉnh chiến lược dài hạn.
Phát triển kinh tế tuần hoàn: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển kinh tế tuần hoàn: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, mô hình kinh tế truyền thống “tuyến tính” - khai thác, sản xuất, tiêu thụ và loại bỏ đang bộc lộ nhiều hạn chế. Các thách thức như khan hiếm tài nguyên, ô nhiễm môi trường và suy giảm đa dạng sinh học đòi hỏi các quốc gia phải chuyển đổi sang một mô hình kinh tế bền vững hơn. Kinh tế tuần hoàn nổi lên như một giải pháp khả thi với mục tiêu tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên, giảm thiểu chất thải và tái tạo các hệ sinh thái tự nhiên.
Xem thêm
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Nghiên cứu này đã hệ thống hóa khung pháp lý toàn cầu và thực tiễn Việt Nam về phát triển ngân hàng bền vững, qua đó làm nổi bật xu hướng hội tụ giữa tiêu chuẩn quốc tế và nỗ lực địa phương hóa. Nghiên cứu cũng khẳng định xu hướng tất yếu là hài hòa hóa tiêu chuẩn toàn cầu, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết về minh bạch hóa thông tin và hợp tác đa bên để cân bằng giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm môi trường.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc