Phát hiện và xử lý các tổ chức tín dụng có vấn đề: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Hoạt động ngân hàng
TS. Nguyễn Đình Lưu Hệ thống tài chính - ngân hàng là huyết mạch của nền kinh tế, một sự bất ổn dù chỉ là dấu hiệu nhỏ cũng gây ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Việc phát hiện sớm các tổ c...
aa

TS. Nguyễn Đình Lưu


Hệ thống tài chính - ngân hàng là huyết mạch của nền kinh tế, một sự bất ổn dù chỉ là dấu hiệu nhỏ cũng gây ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Việc phát hiện sớm các tổ chức tín dụng “có vấn đề” là chức năng quan trọng của các cơ quan trong mạng an toàn tài chính, trong đó có tổ chức bảo hiểm tiền gửi (BHTG), từ đó đưa ra cảnh báo sớm và ngăn ngừa dấu hiệu khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và góp phần đảm bảo an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng. Bài viết giới thiệu kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc phát hiện, xử lý các tổ chức tín dụng có vấn đề và đưa ra một số khuyến nghị đối với Việt Nam.
Kinh nghiệm quốc tế
Nguyên tắc số 13 - Bộ các nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống BHTG hiệu quả của Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI) nêu: “Tổ chức BHTG phải là một phần của cơ cấu thuộc mạng an toàn tài chính thực hiện việc phát hiện sớm và can thiệp kịp thời các ngân hàng có vấn đề. Cơ cấu này phải bao gồm việc can thiệp trước khi các ngân hàng rơi vào trạng thái mất khả năng thanh toán. Những hành động phát hiện sớm hay can thiệp kịp thời này là nhằm bảo vệ người gửi tiền và góp phần ổn định tài chính”.
Theo đó, bên cạnh việc nâng cao tính chủ động trong hoạt động giám sát, tổ chức BHTG có thể chủ động chuẩn bị các kịch bản đối phó, bao gồm cả về khả năng tài chính và nguồn nhân lực khi phát hiện sớm các rủi ro; đồng thời, các cơ quan giám sát an toàn tài chính sẽ triển khai hiệu quả các biện pháp giảm thiểu tối đa chi phí xử lý đổ vỡ như: hỗ trợ thanh khoản, hỗ trợ sáp nhập, mua lại hay tái cấp vốn cho một ngân hàng từ nguồn vốn của tổ chức BHTG, hoặc các cơ quan chính phủ có thẩm quyền khác.
Cuộc khủng hoảng tài chính giai đoạn 2007 - 2009 (điển hình là sự sụp đổ của Ngân hàng Lehman Brothers (Hoa Kỳ) - một trong những ngân hàng đầu tư lớn nhất thế giới) đã khiến chính phủ nhiều nước trao thêm quyền hạn cho tổ chức BHTG, đặc biệt là khả năng về tiếp cận, thu thập dữ liệu; xây dựng các công cụ cảnh báo và đánh giá rủi ro mang tính toàn hệ thống. Tuy nhiên, tùy thuộc vào chính sách và luật pháp mỗi quốc gia, mỗi tổ chức BHTG sẽ có chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm khác nhau trong phát hiện và cảnh báo sớm tổ chức tín dụng (TCTD) có vấn đề. Các tổ chức BHTG tuân thủ nguyên tắc 13 sẽ có đầy đủ quyền hạn và trách nhiệm trong việc phát hiện sớm ngân hàng có vấn đề, cùng với các thành viên khác của mạng an toàn tài chính.
Cơ sở pháp lý và thực tiễn tại Việt Nam
Trước khi có Luật BHTG, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) có nhiệm vụ và vai trò trong giám sát, kiểm tra việc chấp hành các quy định về BHTG và an toàn trong hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG. Ngoài ra, khi BHTGVN xác định tổ chức tham gia BHTG có nguy cơ rơi vào tình trạng mất thanh khoản, không có khả năng chi trả, gây thất thoát lớn về tài sản hoặc có nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng tới TCTD khác, BHTGVN có thẩm quyền yêu cầu tổ chức tham gia BHTG phải có các biện pháp khắc phục, chấn chỉnh kịp thời, đồng thời báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) để có các biện pháp xử lý sớm. Đặc biệt, từ năm 2007, BHTGVN đã tiến hành kiểm tra trên cơ sở rủi ro đối với loại hình tổ chức tham gia BHTG là Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND). Đây là nội dung quan trọng giúp BHTGVN có thể đánh giá mức độ rủi ro của các QTDND, từ đó cảnh báo và đưa ra các khuyến nghị khắc phục, chấn chỉnh công tác quản trị, điều hành.
Theo Luật BHTG (có hiệu lực từ ngày 01/01/2013), vai trò của BHTGVN trong việc phát hiện và xử lý các TCTD yếu kém thông qua hoạt động giám sát, kiểm tra và tham gia kiểm soát đặc biệt đã được quy định tại Điều 13, cụ thể: “BHTGVN có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về BHTG; kiến nghị NHNN xử lý hành vi vi phạm quy định của pháp luật về BHTG. Tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin về tổ chức tham gia BHTG nhằm phát hiện và kiến nghị NHNN xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng”. Theo đó, BHTGVN thực hiện giám sát từ xa về việc chấp hành các quy định pháp luật về BHTG và quy định pháp luật về an toàn trong hoạt động ngân hàng. Đối với nghiệp vụ kiểm tra tại chỗ, BHTGVN thực hiện kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về BHTG. Riêng đối với QTDND, BHTGVN thực hiện kiểm tra chuyên sâu về tiền gửi đối với QTDND yếu kém xếp loại ở mức 4 và 5 căn cứ theo kết quả xếp loại từ nghiệp vụ giám sát từ xa.
Đồng thời, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD (2017) cũng đã cho phép BHTGVN tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu các TCTD thông qua các hoạt động tham gia đánh giá tính khả thi của phương án phục hồi TCTD được kiểm soát đặc biệt; cho vay đặc biệt đối với TCTD và mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ. Đây là bước tiến mới, trao thêm quyền hạn cho BHTGVN trong quá trình tái cơ cấu các TCTD, là cơ sở để BHTGVN cho vay, hỗ trợ và cùng với ngân hàng thương mại tham gia trực tiếp tái cơ cấu TCTD yếu kém khi được kiểm soát đặc biệt. Các chức năng, nhiệm vụ mới được giao càng khẳng định vai trò của BHTGVN trong quá trình tái cơ cấu các TCTD, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
Để tăng cường và triển khai một cách hiệu quả các nhiệm vụ của BHTGVN, NHNN đã ban hành Thông tư 34/2016/TT-NHNN ngày 28/12/2016 quy định việc cung cấp thông tin giữa NHNN và BHTGVN. Thông tư này quy định BHTGVN được cung cấp, khai thác các thông tin và báo cáo theo quy định. Khi cần thiết, BHTGVN có văn bản đề nghị NHNN xem xét, cung cấp thông tin, báo cáo khác chưa được quy định để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của BHTG. Để chuẩn bị cho việc tăng cường vai trò của mình trong giám sát, kiểm tra và cảnh bảo sớm, BHTGVN đã có những bước chuẩn bị trước khi thông tư này ra đời thông qua xây dựng hệ thống công nghệ thông tin (Dự án FSMIMS) và truyền thông tiên tiến, hiện đại nhằm tối ưu hiệu quả hoạt động của BHTGVN theo quy định của pháp luật; phù hợp với thông lệ quốc tế. Lợi ích đối với các tổ chức tham gia BHTG được tăng cường, cũng như nâng cao tính an toàn hệ thống các TCTD qua phát hiện và cảnh báo các dấu hiệu rủi ro tới TCTD đó và NHNN.
Hệ thống công nghệ thông tin mới của BHTGVN đã tin học hóa, tích hợp và tập trung toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ cũng như hoạt động hậu cần của BHTGVN, cụ thể: Cấp, cấp lại và thu hồi chứng nhận tham gia BHTG; theo dõi và thu phí BHTG; chi trả và ủy quyền chi trả tiền bảo hiểm; giám sát, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về BHTG; tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin về tổ chức tham gia BHTG; tham gia vào quá trình kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tham gia BHTG; tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG; tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHTG; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về bảo hiểm tiền gửi;… Tính ưu việt của hệ thống thể hiện qua cơ chế truyền và tiếp nhận thông tin một cách đồng bộ giữa NHNN, Trung tâm Thông tin Tín dụng (CIC) và BHTGVN. Qua đó, BHTGVN khai thác trực tiếp các dữ liệu và thông tin về tiền gửi được bảo hiểm từ tất cả các tổ chức tham gia BHTG thông qua cổng thông tin NHNN. Khi xảy ra đổ vỡ tại một TCTD, BHTGVN có thể hỗ trợ tích cực NHNN trong hoạt động xử lý bằng việc thực hiện chi trả, đảm bảo việc chi trả một cách chính xác và kịp thời cho người gửi tiền.
Thông qua kho dữ liệu này, BHTGVN tăng cường triển khai công tác giám sát, như đi sâu phân tích, đánh giá được tình hình hoạt động, việc tuân thủ các quy định về an toàn trong hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG. Từ đó, BHTGVN có thể tăng cường công tác kiểm tra và thực hiện phân loại đối với tổ chức đó một cách chính xác, khách quan hơn và đưa ra những cảnh báo kịp thời đối với những sai phạm của tổ chức tham gia BHTG, góp phần ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ. Đặc biệt, trong bối cảnh các QTDND yếu kém có sự gia tăng về số lượng, hệ thống công nghệ thông tin mới và việc áp dụng các phương pháp giám sát, kiểm tra mới sẽ góp phần nâng cao hiệu quả các hoạt động nghiệp vụ BHTG, từ đó có thể phát hiện và xử lý kịp thời đối với những tổ chức tham gia BHTG có vấn đề.
Không chỉ dừng lại trong cải tiến các quy trình nội bộ và hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, BHTGVN đang nghiên cứu, đề xuất với NHNN xem xét trình các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi Luật BHTG, để có thể triển khai một cách đầy đủ và hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của một tổ chức BHTG và hướng tới các chuẩn mực quốc tế; cũng như đầu tư hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi, nâng cao năng lực tài chính của BHTGVN và chất lượng nguồn lực khi tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu các TCTD giai đoạn 2016 - 2020; chú trọng công tác tuyên truyền chính sách BHTG nhằm nâng cao niềm tin công chúng. Qua đó, đảm bảo được mục tiêu then chốt trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền; duy trì an toàn mạng tài chính - ngân hàng quốc gia, an ninh xã hội, hướng tới chuẩn mực quốc tế về phát triển hệ thống BHTG hiệu quả.
Một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Để tăng cường vai trò của BHTGVN trong việc phát hiện và xử lý các TCTD có vấn đề, một số nội dung cần được thực hiện:
Thứ nhất, đưa vào vận hành hiệu quả Dự án FSMIMS để có đủ thông tin đầu vào chính xác, kịp thời phục vụ cho công tác giám sát, kiểm tra nhằm phát hiện và cảnh báo với các TCTD; phát hiện và kiến nghị với NHNN, các cơ quan có thẩm quyền xử lý kịp thời những vi phạm về an toàn hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống các TCTD. Để thực hiện nội dung này, BHTGVN cần lưu ý phối hợp với NHNN, chi nhánh NHNN các địa phương thực hiện tốt nội dung tại Thông tư 34/2016/TT-NHNN quy định việc cung cấp thông tin giữa NHNN và BHTGVN. Bên cạnh đó, triển khai thực hiện tốt Quy chế thông tin tiền gửi có hiệu lực từ ngày 01/7/2018 để có đầy đủ thông tin về tiền gửi được bảo hiểm phục vụ cho việc giám sát, kiểm tra chuyên sâu về tiền gửi được bảo hiểm. BHTGVN cũng cần quan tâm, triển khai tốt các phần mềm nghiệp vụ về giám sát rủi ro, kiểm tra tại chỗ để thực hiện tốt, hiệu quả các quy chế giám sát, kiểm tra nhằm nâng cao hiệu quả trong phát hiện các vi phạm, các rủi ro ảnh hưởng đến an toàn hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, nghiên cứu, xây dựng và ban hành các quy chế, văn bản hướng dẫn, các quy trình nghiệp vụ để triển khai kịp thời, có chất lượng các giải pháp xử lý đối với các TCTD có vấn đề. Trong đó, xây dựng và ban hành sớm quy chế cho vay đặc biệt để triển khai cho vay đặc biệt các TCTD được kiểm soát đặc biệt theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD (2017); Quy chế cho vay đặc biệt của NHNN. Đặc biệt, đối với cho vay đặc biệt để hỗ trợ phục hồi đối với các QTDND và tổ chức TCVM được kiểm soát đặc biệt. Xây dựng và ban hành quy chế, văn bản hướng dẫn về mua trái phiếu đối với các TCTD hỗ trợ các TCTD được kiểm soát đặc biệt để sớm đưa vào triển khai thực tế.
Thứ ba, nghiên cứu và ban hành quy chế về việc BHTGVN tham gia quá trình kiểm soát đặc biệt để nâng cao hiệu quả hoạt động nghiệp vụ của BHTGVN. Tổ chức lựa chọn, đào tạo nguồn cán bộ đủ tiêu chuẩn, năng lực và phẩm chất tham gia sâu vào quá trình kiểm soát đặc biệt.
Thứ tư, tiếp tục có nhiều nghiên cứu để đề xuất với NHNN, Chính phủ và Quốc hội bổ sung, chỉnh sửa Luật BHTG, các Luật liên quan nhằm nâng cao vai trò, hiệu quả tham gia xử lý của BHTGVN trong quá trình tái cơ cấu và xử lý yếu kém của hệ thống các TCTD, phù hợp với các thông lệ quốc tế.
Phát hiện và tham gia xử lý các TCTD có vấn đề là chức năng, nhiệm vụ đã được luật định và nhiều tổ chức BHTG trên thế giới đã thực hiện thành công. BHTGVN đang từng bước tham gia và ngày càng được Đảng, Nhà nước và NHNN quan tâm giao thêm nhiệm vụ. Khi BHTGVN phát huy được đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và vai trò của mình, chắc chắn hệ thống các TCTD, các ngân hàng sẽ lành mạnh, an toàn hơn, niềm tin của công chúng vào hệ thống Ngân hàng ngày càng cao hơn và BHTGVN sẽ thực hiện được mục tiêu cao cả của mình là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền; góp phần duy trì sự ổn định đối với các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống Ngân hàng Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Bộ các nguyên tắc cơ bản của IADI phiên bản tháng 11/2014;
- Luật BHTG (2012);
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD (2017);
- Thông tư 34/2016/TT-NHNN (2016).

(Tạp chí Ngân hàng số 17, tháng 9/2018)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Nâng cao hiệu quả chính sách hỗ trợ người lao động tỉnh Đồng Tháp đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

Nâng cao hiệu quả chính sách hỗ trợ người lao động tỉnh Đồng Tháp đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

Đồng Tháp là một trong 13 tỉnh, thành phố thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích 3.378 km2, dân số toàn tỉnh khoảng 1,6 triệu người, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của tỉnh năm 2022 đạt 910.502 người...
Huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình phát huy hiệu quả nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội

Huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình phát huy hiệu quả nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội

Theo thống kê, huyện Tân Lạc có 5 xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn với 146 xóm thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, 24 xóm đặc biệt khó khăn.
Nâng cao chất lượng dịch vụ và bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến

Nâng cao chất lượng dịch vụ và bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến

Theo Thông tư số 50/2024/TT-NHNN ngày 31/10/2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng (Thông tư số 50/2024/TT-NHNN), kể từ ngày 01/01/2025, các ứng dụng ngân hàng sẽ không được trang bị chức năng lưu mật khẩu đăng nhập tài khoản của người dùng
Nâng cao hiệu quả vốn tín dụng hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững

Nâng cao hiệu quả vốn tín dụng hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững

Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch đang là một trong những mục tiêu chính sách quan trọng và là xu thế tất yếu của nhiều quốc gia.
Tín dụng chính sách “tô thắm” những hy vọng thoát nghèo

Tín dụng chính sách “tô thắm” những hy vọng thoát nghèo

Cuộc sống của nhiều người dân tại các miền quê trên cả nước đang từng ngày “thay da đổi thịt”. Đời sống của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách khác ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới

Nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới

Ngày 30/10/2024, thay mặt Ban Bí thư Trung ương Đảng, Thường trực Ban Bí thư Trần Cẩm Tú đã ký ban hành Chỉ thị số 39-CT/TW về nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới.
Agribank đồng hành cùng người dân sau bão lũ

Agribank đồng hành cùng người dân sau bão lũ

Thời gian qua, nhiều hộ gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy hải sản… bị ảnh hưởng nặng nề bởi bão Yagi (cơn bão số 3) và hoàn lưu sau bão. Mặc dù các hộ dân bị mất trắng toàn bộ vốn liếng, tài sản nhưng gần như đa số đều chung ý chí quyết tâm vực dậy sau bão lũ.
Ngân hàng Phát triển Việt Nam nâng cao chất lượng công tác cho vay lại vốn hỗ trợ phát triển chính thức

Ngân hàng Phát triển Việt Nam nâng cao chất lượng công tác cho vay lại vốn hỗ trợ phát triển chính thức

Trong những năm qua, dòng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đã thể hiện rõ vai trò quan trọng và ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Xem thêm
Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Tín dụng xanh là một công cụ tài chính được thiết kế để hỗ trợ các dự án và hoạt động có lợi cho môi trường. Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp là quá trình mà các công ty áp dụng những phương pháp và chiến lược bền vững nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

Những tháng cuối năm, doanh nghiệp tập trung tăng cường sản xuất, kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng nên nhu cầu tín dụng cũng sẽ tăng theo.
Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Trong những tháng đầu năm 2024, dù kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều biến động khó lường như xung đột địa chính trị kéo dài, lạm phát duy trì ở mức cao, cùng những thách thức nội tại của nền kinh tế trong nước và ảnh hưởng nặng nề của thiên tai...
Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tầm quan trọng của hệ thống tiền gửi tại Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua sự an toàn và ổn định; từ đó, mang lại niềm tin đối với người gửi tiền.
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Để góp phần ổn định hệ thống tài chính, ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội đất nước, trong bài viết này, tác giả làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và định hướng sửa đổi, bổ sung Luật BHTG.
Tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đến môi trường kinh doanh, cạnh tranh giữa các quốc gia và một số khuyến nghị

Tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đến môi trường kinh doanh, cạnh tranh giữa các quốc gia và một số khuyến nghị

Các quốc gia cần phải xem xét lại cách tiếp cận của mình đối với chính sách thuế để bảo đảm rằng sự phát triển kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho những tập đoàn lớn mà còn cho toàn xã hội. Một trong những giải pháp khả thi là áp dụng mức thuế tối thiểu toàn cầu nhằm hạn chế “cuộc đua xuống đáy” và tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng hơn.
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Lạm phát gia tăng toàn cầu sau đại dịch Covid-19, vốn đã ảnh hưởng đến cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, nhưng dường như đã “bỏ qua” châu Á. Một trong những lý do chính là sự phục hồi chậm của các nền kinh tế châu Á do các đợt “đóng cửa”, “phong tỏa”, “cách ly”, “giãn cách” kéo dài và lặp đi lặp lại.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Thông tư số 54/2024/TT-NHNN ngày 17/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 26/2021/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn giao dịch ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối

Thông tư số 53/2024/TT-NHNN ngày 04/12/2024 Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3

Thông tư số 52/2024/TT-NHNN ngày 29/11/2024 Quy định việc ngân hàng thương mại có cổ đông, cổ đồng và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ quy định tại Điều 55 của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 17/2017/QH14 xây dựng và thực hiện lộ trình để bảo đảm tuân thủ các quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15

Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 06/11/2024 Về tăng cường quản lý rủi ro rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng giai đoạn 2024 - 2028

Thông tư số 50/2024/TT-NHNN ngày 31/10/2024 Quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 49/2024/TT-NHNN ngày 25/10/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 46/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài