Ngân hàng nỗ lực chuyển đổi thẻ chip, đảm bảo hoạt động thẻ diễn ra liên tục, an toàn

Công nghệ & ngân hàng số
Việc chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ chip là một nhu cầu tất yếu, cần thiết và phù hợp với xu thế chung của các quốc gia trên thế giới. Việc chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ chip là một nhu cầu tất yếu, c...
aa

Việc chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ chip là một nhu cầu tất yếu, cần thiết và phù hợp với xu thế chung của các quốc gia trên thế giới.

Việc chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ chip là một nhu cầu tất yếu, cần thiết và phù hợp với xu thế chung của các quốc gia trên thế giới. Mặc dù bị ảnh hưởng của dịch Covid-19, tại Việt Nam, các tổ chức phát hành thẻ, thanh toán thẻ, chuyển mạch thẻ, bù trừ điện tử vẫn đang nỗ lực thực hiện lộ trình chuyển đổi thẻ chip theo quy định. Trong quá trình chuyển đổi thẻ từ sang thẻ chip cho khách hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chỉ đạo các ngân hàng thương mại đảm bảo hoạt động thẻ diễn ra liên tục, ổn định và an toàn, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của khách hàng chủ thẻ.



Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Theo Thông tư số 41/2018/TT-NHNN ngày 28/12/2018 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động thẻ ngân hàng, đến ngày 31/12/2021, 100% thẻ thanh toán đang lưu hành của các tổ chức phát hành thẻ Việt Nam sẽ phải tuân thủ tiêu chuẩn cơ sở của thẻ chip nội địa.

Còn theo Thông tư số 22/2020/TT-NHNN ngày 31/12/2020 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động thẻ ngân hàng, đến ngày 31/12/2021, 100% ATM và thiết bị chấp nhận thẻ tại điểm bán đang hoạt động tại Việt Nam của tổ chức thanh toán thẻ tuân thủ Tiêu chuẩn cơ sở về thẻ chip nội địa; từ ngày 31/3/2021, các tổ chức phát hành thẻ thực hiện phát hành thẻ có BIN do NHNN cấp phải tuân thủ Tiêu chuẩn cơ sở về thẻ chip nội địa.

Chuyển đổi sang thẻ chip góp phần bảo đảm an ninh, bảo mật trong thanh toán

Việc chuyển đổi thẻ từ sang thẻ chip là xu thế tất yếu của các nước trong khu vực và quốc tế, là việc làm cần thiết trước tình trạng tội phạm công nghệ cao ngày càng gia tăng và tập trung vào các thị trường chưa thực hiện chuyển đổi công nghệ chip.

Thẻ từ có mức độ bảo mật thông tin khá thấp bởi thông tin được lưu trên dải từ ở mặt sau của thẻ không được mã hóa. Khi khách hàng cắm thẻ vào máy ATM hay quẹt thẻ trên máy POS, thông tin lưu trữ ở dải từ sẽ được đọc bởi các đầu đọc trong máy, do vậy, chỉ cần một thiết bị quẹt thẻ từ thông dụng, kẻ gian có thể dễ dàng đánh cắp thông tin thẻ, sau đó cũng dễ dàng tạo ra các thẻ giả với thông tin sao chép được, đồng thời gắn các thiết bị lén ghi lại động tác nhập mã PIN của khách hàng và như vậy là đủ để kẻ gian có thể trộm tiền từ tài khoản của khách hàng. Đây là hình thức tội phạm khá phổ biến, thường được gọi là Skimming. Nói cách khác, việc sử dụng thẻ từ trong thanh toán hàng hóa, dịch vụ có một số nhược điểm như: dễ bị lộ dữ liệu cá nhân, dễ bị làm giả và tiện ích đi kèm chưa phong phú.

Với thẻ chip theo Tiêu chuẩn quốc tế EMV, được gắn chip điện tử và thiết kế để ngăn chặn các hành vi gian lận Skimming nhờ có khả năng lưu trữ và mã hóa thông tin với độ bảo mật cao. Theo đó, chip EMV sẽ tạo dữ liệu mới mỗi khi khách hàng thực hiện giao dịch. Khi sử dụng thẻ công nghệ chip EMV tại một thiết bị đọc thẻ, thẻ sẽ tạo ra một chuỗi mã hóa duy nhất chỉ dành riêng cho giao dịch đó. Mã hóa này không thể sử dụng cho một giao dịch khác bởi nó được tạo từ sự kết hợp thông tin có trong chip và thông tin có trong thiết bị đọc thẻ. Điều đó có nghĩa, người sử dụng sẽ không phải lo thông tin thẻ bị sao chép do đã được mã hoá, kết hợp thêm với mã PIN của chính người sử dụng thì khả năng bị gian lận được giảm thiểu tối đa.

Một giao dịch trên thẻ EMV thành công sẽ phải trải qua bước xác thực phức tạp 2 chiều từ thiết bị nhận thẻ đến ngân hàng thanh toán, thông qua cổng thanh toán thẻ của Công ty Cổ phần thanh toán quốc gia Việt Nam (Napas) và ngân hàng phát hành. Chỉ khi được tất cả những tổ chức liên quan cấp phép chuẩn chi, giao dịch mới thành công.

Thẻ chip nội địa do các ngân hàng phát hành từ tháng 5/2019 tuân thủ Tiêu chuẩn cơ sở về thẻ chip do NHNN ban hành và Tiêu chuẩn EMV. Thẻ chip nội địa đáp ứng đầy đủ các yếu tố kỹ thuật về an toàn, bảo mật sẽ hạn chế các rủi ro về gian lận giả mạo trong thanh toán thẻ, đảm bảo an ninh an toàn thanh toán cho khách hàng.

Do vậy, việc chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ chip là một nhu cầu tất yếu, cần thiết và phù hợp với xu thế chung của các quốc gia trên thế giới, qua đó góp phần bảo đảm an ninh, an toàn, bảo mật thông tin, chống giả mạo, ngăn chặn các hành vi gian lận trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ. Đồng thời, việc chuyển đổi cũng mở ra cơ hội phát triển mới cho thẻ thanh toán, mở rộng và phát triển các dịch vụ thanh toán thẻ tại Việt Nam; tăng cường sự phát triển lành mạnh, an toàn, bền vững cho thị trường thẻ ngân hàng, bảo đảm cho các thành viên thị trường có thể liên kết, chia sẻ, khai thác hiệu quả cơ sở hạ tầng công nghệ liên quan tới phát hành, thanh toán và sử dụng thẻ. Cùng với đó là cơ hội để thẻ nội địa tham gia hội nhập quốc tế khi đã đáp ứng được các tiêu chuẩn an toàn, bảo mật khắt khe của các tổ chức quốc tế. Với hạ tầng thanh toán không tiếp xúc của thẻ chip nội địa, cộng với việc ứng dụng công nghệ để số hóa thông tin thẻ lên thiết bị di động, tương lai thị trường sẽ đón nhận trào lưu thanh toán “chạm” ngày càng phổ biến. Vì vậy, các ngân hàng đã tích cực triển khai hoạt động đổi thẻ từ sang thẻ chip bằng nhiều giải pháp.

Thời gian qua, một số ngân hàng đã chỉ đạo các chi nhánh về việc hợp tác với các doanh nghiệp chuyển đổi đồng loạt thẻ chip nội địa trả lương cho cán bộ, nhân viên như Vietinbank, BIDV, MB... Các ngân hàng đã triển khai các chương trình miễn phí chuyển đổi thẻ chip cho khách hàng như VCB, MSB, MB, Indovina Bank (IVB), Sacombank, KienlongBank, VietABank, OCB, ShinhanBank, NCB, Pvcombank, VIB, SHB, Ngân hàng Việt Nga (VRB)... hay ngân hàng kết hợp với các chương trình mở tài khoản số đẹp và phát hành thẻ chip nội địa mới; tặng quà hấp dẫn cho khách hàng như BaoViet Bank, MB, Công ty tài chính VietCredit...

Nhằm thúc đẩy và hỗ trợ các tổ chức thành viên hoàn thành công tác chuyển đổi thẻ chip, Napas cũng triển khai chương trình hỗ trợ chuyển đổi thẻ chip năm 2021 đối với các tổ chức thành viên. Theo đó, Napas sẽ hỗ trợ các tổ chức thành viên đầu tư, nâng cấp thiết bị chấp nhận thẻ (POS) và phát hành thẻ chip theo tiêu chuẩn cơ sở do NHNN ban hành, bao gồm hỗ trợ chuyển đổi cho thẻ chip tiếp xúc (thẻ contact) và thẻ chip không tiếp xúc (thẻ contactless), POS cho thẻ chip tiếp xúc và POS cho thẻ Dual (loại thẻ có 02 chip độc lập trên cùng một mặt phôi thẻ vật lý, trong đó 01 chip của thẻ ghi nợ nội địa và 01 chip của thẻ tín dụng nội địa). Chương trình đã nhận được sự hưởng ứng của 41 tổ chức thành viên thực hiện trong năm 2021.

Theo Napas, hiện tại, 43/50 tổ chức thành viên Napas đã hoàn thành việc chứng thực đáp ứng tiêu chuẩn cơ sở về thẻ chip (VCCS), trong đó 7 ngân hàng đầu tiên đã hoàn thành 100% công tác chuyển đổi VCCS theo quy định của NHNN là MB, LienVietPostBank, VietBank, Standard Chartered, Hongleongbank, IBK Hồ Chí Minh, IBK Hà Nội. Tính đến ngày 30/6/2021, tổng số lượng thẻ chip chuyển đổi trong cả nước đạt 18,4 triệu thẻ, tổng số ATM và POS chuyển đổi tương ứng đạt hơn 15,5 nghìn ATM và 170 nghìn POS.

Đồng bộ hạ tầng thanh toán thẻ thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt

Thời gian qua, hoạt động thẻ ngân hàng tại Việt Nam đã và đang có nhiều chuyển biến tích cực. Xu hướng thanh toán qua thẻ cũng tăng mạnh. Theo số liệu của NHNN, đến cuối quý II/2021, tổng số lượng thẻ nội địa đang lưu hành là 98 triệu thẻ, tổng số lượng thẻ quốc tế đang lưu hành là 20 triệu thẻ. Thẻ nội địa đang lưu hành bao gồm: thẻ ghi nợ nội địa, thẻ tín dụng nội địa, thẻ trả trước nội địa, thẻ nội địa khác. Thẻ quốc tế đang lưu hành bao gồm: thẻ ghi nợ quốc tế, thẻ tín dụng quốc tế, thẻ trả trước quốc tế và thẻ quốc tế khác. Tổng giá trị giao dịch thanh toán thẻ tại các điểm bán hàng với tổng giá trị thanh toán thẻ và ví điện tử qua cổng thanh toán trực tuyến Napas tăng trưởng tương ứng là 50% và 125% so với cùng kỳ năm 2020. Các con số này ghi nhận kết quả tích cực việc triển khai, hiện thực hóa các mục tiêu phát triển thanh toán không dùng tiền mặt của Chính phủ và NHNN trong thời gian qua.

Theo Napas, hiện tại, đã có 41 Ngân hàng phát hành thẻ ghi nợ nội địa; 07 ngân hàng/tổ chức tài chính triển khai phát hành thẻ tín dụng nội địa bao gồm Vietinbank, Sacombank, ACB, HDBank, VietCapital Bank, BaoVietBank, VietCredit; 03 ngân hàng thẻ triển khai trả trước nội địa gồm Vietcombank, BIDV, Vietinbank.

Từ tháng 4/2020, Napas và Vietbank đã phối hợp tích hợp thẻ ngân hàng trong thanh toán giao thông tại TP. Hồ Chí Minh. Tháng 4/2021, Napas đã phối hợp VietinBank triển khai sản phẩm thẻ chip nội địa 2Card, đánh dấu lần đầu tiên thị trường thẻ nội địa Việt Nam xuất hiện dòng sản phẩm thẻ kép Dual.

Cùng với số lượng thẻ phát hành tăng lên nhanh chóng trong các năm gần đây, mạng lưới ATM cũng được các ngân hàng đầu tư trang bị, nâng cấp, kết nối liên thông giữa các hệ thống của các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu giao dịch của chủ thẻ trên cả nước. Một máy ATM thế hệ mới có thể bao gồm nhiều tính năng hỗ trợ chủ thẻ thực hiện các giao dịch như: rút tiền mặt, nộp tiền mặt, chuyển khoản, thanh toán hóa đơn (điện, nước, điện thoại, thẻ tín dụng), gửi tiền tiết kiệm, tra cứu thông tin (số dư, tỷ giá, địa điểm đặt ATM, sao kê…) và cả dịch vụ rút tiền mặt mà không cần phải dùng thẻ.

Đặc biệt, gần đây các ngân hàng và đối tác công nghệ đã cung cấp ra thị trường giải pháp điểm chấp nhận thanh toán thẻ trên thiết bị di động (mPOS), hỗ trợ các đơn vị chấp nhận thẻ có thể chấp nhận thanh toán qua thiết bị điện thoại di động cả thẻ quốc tế và thẻ nội địa của nhiều ngân hàng. Giải pháp mPOS được thiết kế phù hợp với nhiều loại hình kinh doanh và dịch vụ, từ các công ty, nhà hàng, tổ chức cung ứng hàng hóa, dịch vụ có giao hàng và thu tiền tại nhà, đảm bảo an toàn và hiệu quả.

Việc mở rộng của hệ thống các đơn vị chấp nhận thẻ và kết nối liên thông mạng lưới thiết bị chấp nhận thẻ của các ngân hàng trên toàn quốc thời gian qua đã giúp chủ thẻ có thể thanh toán một cách đơn giản và thuận tiện hơn. Cụ thể là chủ thẻ của các ngân hàng có thể thanh toán bằng thẻ thông qua POS mà một ngân hàng trang bị tại điểm chấp nhận thẻ mà không cần phải dùng tiền mặt cũng như không cần có nhiều loại thẻ của nhiều ngân hàng như trước đây. Bản thân các ngân hàng cũng không cần cùng lúc lắp đặt thiết bị chấp nhận thẻ riêng của mình tại một đơn vị chấp nhận thẻ, gây lãng phí không cần thiết.

Hiện nay, nhiều ngân hàng phối hợp với các đơn vị chấp nhận thẻ như các cửa hàng, siêu thị điện máy, trung tâm thương mại, công ty dịch vụ du lịch, giải trí,… đã dành thêm nhiều ưu đãi cho khách hàng khi thanh toán bằng thẻ, góp phần khuyến khích thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.

Có thể nói, quá trình chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ chip được các tổ chức phát hành thẻ, thanh toán thẻ, chuyển mạch thẻ đồng loạt triển khai từ rất sớm ngay sau khi có chỉ đạo của NHNN. Tuy nhiên, do diễn biến phức tạp của dịch bệnh dẫn tới nhiều tỉnh thành áp dụng giãn cách xã hội nghiêm ngặt nên công tác chuyển đổi thẻ của các ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Mặt khác, tình hình dịch Covid-19 cũng ảnh hưởng lớn tới tiến độ công việc các đơn vị nhà thầu. Các nước đóng cửa biên giới, hoạt động nhập khẩu các thiết bị phục vụ chuyển đổi bị đình trệ, cùng những khó khăn chung đối với các ngành và lĩnh vực liên quan cũng ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện.

Hơn nữa, quá trình chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ chip là một quá trình phức tạp, đòi hỏi thời gian, đầu tư chi phí, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực. Các ngân hàng còn phải có các hình thức liên hệ phù hợp đến khách hàng để thực hiện việc chuyển đổi nên khó thực hiện nhanh. Chưa kể, số lượng thẻ ATM đã phát hành khá lớn nên việc chuyển đổi cần phải có thời gian và kế hoạch tỉ mỉ để bảo đảm không gây bất tiện cho chủ thẻ, đồng thời ngân hàng có thể chuẩn bị ngân sách cho việc chuyển đổi này.

Ngoài ra, việc thực hiện chuyển đổi còn phụ thuộc nhiều vào sự sẵn sàng và hợp tác của chủ thẻ nội địa. Có điều đến nay, khái niệm thẻ chip nói chung, thẻ chip không tiếp xúc nói riêng vẫn khá mới mẻ với người dân, đồng thời hạ tầng thanh toán thẻ loại này và mạng lưới chấp nhận thẻ chip nội địa nói chung còn hạn chế cũng cản trở đến tiến độ, lộ trình chuyển đổi của các ngân hàng. Chưa kể, số lượng nhà cung cấp phôi thẻ đủ tiêu chuẩn ít.

Đảm bảo đúng lộ trình và an toàn trong hoạt động thanh toán thẻ

Thời gian tới, để tháo gỡ dần khó khăn trong quá trình chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ chip cần sự phối hợp đồng bộ từ các tổ chức phát hành thẻ, thanh toán thẻ, chuyển mạch thẻ; sự giám sát, chỉ đạo từ phía NHNN.

Về phía NHNN, có thể xem xét và có các chính sách, phương án hỗ trợ cụ thể, như: xem xét điều chỉnh phạm vi các loại thẻ bắt buộc chuyển đổi hoặc không bắt buộc phát hành thẻ chip đối với dòng thẻ như thẻ liên kết sinh viên, thẻ liên kết đối tác có phạm vi sử dụng hẹp. Bên cạnh đó, NHNN cần xem xét phối hợp các ban, ngành liên quan xây dựng cơ chế giá phí phù hợp để có thể áp dụng tại các đơn vị cung cấp phôi thẻ cho các ngân hàng trong giai đoạn triển khai chuyển đổi thẻ nội địa. Đồng thời, NHNN có thể xây dựng quy định về việc chuyển đổi trách nhiệm khi phát sinh rủi ro đối với thẻ chip nội địa để bảo đảm quyền lợi, tránh rủi ro cho các ngân hàng tích cực triển khai phát hành và chuyển đổi thẻ chip nội địa, từ đó làm động lực thúc đẩy nhanh quá trình triển khai chuyển đổi. Napas cần tiếp tục hỗ trợ các tổ chức thành viên đầu tư, nâng cấp thiết bị chấp nhận thẻ và phát hành thẻ chip theo tiêu chuẩn cơ sở do NHNN ban hành.

Các tổ chức phát hành thẻ, thanh toán thẻ, chuyển mạch thẻ cần đẩy mạnh truyền thông nhằm nâng cao kiến thức cho khách hàng trong sử dụng thẻ, thấy được những tiện ích và ưu điểm của thẻ chip, đồng thời nâng cao kỹ năng sử dụng thẻ nhằm hạn chế rủi ro trong giao dịch, từ đó khách hàng an tâm và hưởng ứng chuyển đổi sang thẻ chip. Đối tượng hướng tới không chỉ là người dân thành thị, giới trẻ mà còn các khách hàng ở vùng sâu vùng xa, vùng nông thôn, người yếu thế, người già nhằm xóa bỏ dần thói quen sử dụng tiền mặt.

Đồng thời, các tổ chức cần phối hợp trong việc nâng cấp hạ tầng công nghệ, tăng tính kết nối và đồng bộ trong hạ tầng công nghệ, hạ tầng máy ATM, POS, mPOS. Việc đầu tư cho công nghệ thẻ chip, đồng bộ các thiết bị kết nối đòi hỏi chi phí, nhân lực lớn, do vậy, các tổ chức phát hành thẻ (trong đó có các ngân hàng thương mại) cần tiết giảm chi phí, ưu tiên cho đổi mới công nghệ và coi công nghệ là nền tảng, lấy khách hàng làm trung tâm trong chuyển đổi số, giúp giảm bớt thời gian, chi phí, nhân lực.

Tính bảo mật và an toàn của thẻ chip được nâng cao sẽ giúp khách hàng tin tưởng hơn khi sử dụng thẻ, từ đó thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt. Do đó, các tổ chức phát hành thẻ, thanh toán thẻ, chuyển mạch thẻ cần chú trọng tính an toàn, liên tục và thông suốt các giao dịch thẻ cho khách hàng trong quá trình chuyển đổi thẻ chíp, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của khách hàng, nếu có phát sinh rủi ro, vướng mắc, cần xử lý kịp thời, đúng quy định.

Trong bối cảnh dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, các tổ chức cần phối hợp các sàn thương mại điện tử uy tín có chính sách ưu đãi, khuyến mãi để thu hút khách hàng sử dụng thẻ, trong đó cần khuyến khích sử dụng thẻ áp dụng công nghệ chip không tiếp xúc bởi nhiều tiện ích như an toàn, nhanh chóng, nâng cao vệ sinh an toàn, nhất là trong bối cảnh cần có cảnh giác cao với dịch Covid-19. Tương lai không xa, công nghệ thanh toán không tiếp xúc tại Việt Nam sẽ trở thành xu hướng nổi trội, mở ra tương lai thanh toán trong nhiều lĩnh vực, trong đó có giao thông thông minh (thanh toán vé xe bus, tàu điện ngầm, bãi đỗ xe, trạm thu phí…), tích hợp cùng với các loại thẻ như thẻ sinh viên, thẻ bảo hiểm, thẻ bệnh viện… tạo sự đơn giản, thuận tiện cho người dân trong đời sống, sinh hoạt. Khi thanh toán, khách hàng chỉ cần chạm hoặc đưa thẻ đến gần thiết bị chấp nhận thẻ là có thể hoàn thành giao dịch một cách dễ dàng thay vì quẹt thẻ hoặc cắm vào đầu đọc thẻ như cách thanh toán truyền thống.

Tài liệu tham khảo:

Cổng thông tin điện tử NHNN: sbv.gov.vn

Lan Anh

NHNN


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Ứng dụng công nghệ chuối khối trong nghiệp vụ ngân hàng tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

Ứng dụng công nghệ chuối khối trong nghiệp vụ ngân hàng tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

Bài viết này phân tích thực trạng ứng dụng Blockchain trong nghiệp vụ ngân hàng tại Việt Nam và gợi ý định hướng phát triển trong tương lai.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong xu hướng chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong xu hướng chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Chuyển đổi số mang lại cơ hội phát triển cho ngành Ngân hàng nhưng cũng làm gia tăng rủi ro xâm phạm dữ liệu cá nhân. Dù pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân đã có cải thiện, nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập. Bài viết phân tích thực trạng pháp lý hiện nay và đề xuất giải pháp hoàn thiện phù hợp với xu hướng chuyển đổi số.
Đề xuất xây dựng các mô hình tài chính phi tập trung trong trung tâm tài chính Thành phố Hồ Chí Minh

Đề xuất xây dựng các mô hình tài chính phi tập trung trong trung tâm tài chính Thành phố Hồ Chí Minh

Bài viết nghiên cứu tổng quan về tài chính phi tập trung và các mô hình phổ biến, phân tích lợi ích, thách thức, đồng thời đề xuất mô hình phù hợp để phát triển Thành phố Hồ Chí Minh thành trung tâm tài chính quốc tế có sức cạnh tranh khu vực và toàn cầu.
Siêu ứng dụng trong ngành Ngân hàng: Cơ hội và thách thức

Siêu ứng dụng trong ngành Ngân hàng: Cơ hội và thách thức

Siêu ứng dụng và hệ sinh thái ngân hàng không chỉ là xu hướng công nghệ mà đang tái định hình căn bản ngành tài chính - ngân hàng, với mục tiêu mang lại trải nghiệm tích hợp, cá nhân hóa và bao trùm. Mặc dù mở ra tiềm năng lớn trong việc mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ và thúc đẩy đổi mới, tuy nhiên, sự kết hợp này cũng đặt ra những câu hỏi quan trọng trong tương lai.
Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã nỗ lực không ngừng và phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan trong công cuộc chuyển đổi số và đã đạt được nhiều thành quả quan trọng. Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng cũng gặp những thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo an ninh, an toàn thông tin và bảo mật dữ liệu. Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời tăng cường hợp tác các tổ chức tài chính quốc tế trong nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng các công nghệ mới.
GenAI - Tương lai cá nhân hóa dịch vụ khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

GenAI - Tương lai cá nhân hóa dịch vụ khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

GenAI đang mở ra những cơ hội chưa từng có trong việc cá nhân hóa dịch vụ khách hàng tại các ngân hàngViệt Nam. Mặc dù vẫn còn nhiều thách thức trong việc triển khai GenAI, tuy nhiên, các ngân hàng Việt Nam đang dần vượt qua những rào cản này để tận dụng tiềm năng to lớn của GenAI trong cung cấp các sản phẩm, dịch vụ. Với sự phát triển của công nghệ và sự chuyển đổi số mạnh mẽ trong ngành Ngân hàng, GenAI hứa hẹn sẽ mang lại những trải nghiệm khách hàng cá nhân hóa tiên tiến, góp phần nâng cao sự hài lòng của khách hàng, tăng cường lòng trung thành và thúc đẩy tăng trưởng bền vững cho các ngân hàng trong kỷ nguyên số.
Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khách hàng ngày càng mong muốn nhiều hơn sự cách tân, đổi mới đến từ các ngân hàng. Do đó, đổi mới sáng tạo không chỉ là yếu tố cần thiết để các ngân hàng thương mại Việt Nam nâng cao hiệu quả hoạt động và cải thiện chất lượng dịch vụ khách hàng, mà còn là chìa khóa để duy trì năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế, từ đó nâng cao vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam trong nền kinh tế số.
AI Agent: Xu hướng công nghệ mới, thực tiễn quốc tế và giải pháp áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam

AI Agent: Xu hướng công nghệ mới, thực tiễn quốc tế và giải pháp áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam

AI Agent không chỉ là một xu hướng công nghệ mà còn là động lực quan trọng để các ngân hàng thích nghi và phát triển trong thời đại số hóa.
Xem thêm
Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Tăng trưởng cao không nhất thiết đi kèm với lạm phát cao, bong bóng tài sản, nợ xấu gia tăng và đồng nội tệ mất giá. Nhưng các yếu tố này vẫn tiềm ẩn như các rủi ro kinh tế vĩ mô, tạo nguy cơ đối với sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian tới. Bài viết này đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng cao, với trọng tâm là phát huy điểm mạnh và hạn chế hiệu ứng tiêu cực từ vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ.
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc