Bài viết xem xét vai trò của các yếu tố thể chế phi kinh tế, trong đó, có niềm tin chi phối sự hình thành các nền tảng an ninh kinh tế của một quốc gia. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng, tăng cường niềm tin thể chế giúp giảm các chi phí giao dịch và chi phí chuyển đổi, góp phần tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế, đồng thời, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong nước, giúp chống lại các cú sốc bên ngoài.
Những năm gần đây, sự phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới diễn ra trong điều kiện địa chính trị và kinh tế khá khó khăn: cạnh tranh quyền lực, lợi ích và vị thế chiến lược giữa các nước lớn; tình hình biển Đông, Syria, căng thẳng Mỹ - Iran; chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và đại dịch Covid-19... làm cho vấn đề liên quan đến đảm bảo an ninh kinh tế của mỗi quốc gia ngày càng mang tính cấp thiết.
Theo truyền thống, an ninh kinh tế được coi là một trong những thuộc tính quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất, phản ánh khả năng của hệ thống kinh tế - xã hội chống lại các mối đe dọa bên ngoài thông qua các phương pháp đáp trả hiệu quả, đồng thời, đảm bảo sự ổn định trong quá trình phát triển của hệ thống. Nên lưu ý rằng trong các tài liệu nghiên cứu, phạm trù “An ninh kinh tế” [11] tương đối mới mà đến nay, cơ sở lý luận của nó vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện, hơn nữa, không chỉ từ quan điểm khoa học kinh tế, mà còn từ một số ngành khoa học khác, như triết học, tâm lý học, xã hội học... Điều này cho thấy hiện tượng đang xem xét có tính đa hình nhất định, đôi khi làm phức tạp nhiệm vụ của các nhà nghiên cứu trong quá trình xác định bản chất và nội dung của phạm trù nghiên cứu.
Niềm tin thể chế cao giúp hạn chế sự không chắc chắn, giảm sự bất cân xứng của thông tin và chi phí giao dịch, góp phần tạo điều kiện nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế
Nghiên cứu này bàn về các khía cạnh thể chế, trong đó, có thể chế đặc biệt như niềm tin trong quá trình đảm bảo an ninh kinh tế của quốc gia [1]. Trong điều kiện hiện nay, việc gắn các quan hệ tin cậy lẫn nhau vào quá trình tái sản xuất rõ ràng là điều hiển nhiên vì tác động ngày càng lớn của các đặc điểm hành vi của các tác nhân kinh tế đến diễn biến của các quá trình thực tiễn trong hoạt động kinh tế. Trong cộng đồng khoa học, có thể nêu một số học giả tích cực nghiên cứu vai trò các nhân tố phi kinh tế trong quá trình tái sản xuất, trong đó, có hiện tượng niềm tin. Đó chắc hẳn là F. Fukuyama - người sáng lập lý thuyết về niềm tin như một nhân tố kinh tế quan trọng; thuộc trường phái này còn có K. Arrow, G. Hodgson, P. Sztompka, J. Kornai, D. Scott và nhiều người khác. Ngoài ra, không thể không nhắc đến vai trò của trường phái Áo (L. Von. Mises, F. von Hayek) trong nghiên cứu hành vi cá nhân trong hoạt động kinh doanh, chỉ có thể thực hiện trong điều kiện có mức độ tin cậy cá nhân cao [1; 2; 10].
Tầm quan trọng ngày càng tăng của các yếu tố phi kinh tế đã thu hút sự quan tâm về cơ sở lý thuyết của chúng, trong đó có các nhà khoa học Nga. Đã xuất hiện các công trình nghiên cứu về vấn đề này của các nhà kinh tế Nga như A. Oleinik, V. Radaev, V. Dementiev, A. Lyasko, V. Sukhikh, S. Vazhenin và một số học giả khác. Kết luận chính có thể được rút ra trên cơ sở các luận cứ trong các bài viết của các nhà khoa học kinh tế là nền kinh tế không phải là một không gian biệt lập, trong đó mọi người tập hợp cùng nhau chỉ để thỏa mãn nhu cầu ích kỷ riêng tư và sau đó, trở lại cuộc sống hàng ngày của họ. Trong thực tế, nền kinh tế là một phạm trù thuộc cơ sở hạ tầng và là một lĩnh vực hoạt động và giao tiếp thường xuyên thay đổi của con người, trong đó, hành vi của một số thành viên ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của những thành viên tham gia khác trong hệ thống.
Lý thuyết thể chế, và đặc biệt, tập hợp các công cụ, phương pháp của nó có thể được vận dụng để nghiên cứu tác động của các yếu tố phi kinh tế đến các quy trình kinh doanh thực tế. Phân tích niềm tin thông qua phương pháp tiếp cận thể chế [3], có thể kết luận rằng, không thể nhìn nhận niềm tin như là một thể chế theo nghĩa truyền thống của phạm trù này. Về vấn đề này, việc sử dụng “thể chế” niềm tin như là một yếu tố cơ bản của vốn xã hội và vốn thể chế [5] cần được cân nhắc. Để nhóm một hiện tượng vào một phạm trù thể chế, cần dựa vào các đặc điểm rõ ràng về những dấu hiệu cơ bản của thể chế, bao gồm các thuộc tính sau: tổ chức, giới hạn và điều chỉnh sự tương tác liên tục của các chủ thể trong quá trình tái sản xuất các mối quan hệ khác nhau; thực hiện chức năng cơ bản nhằm đạt được các mục tiêu phát triển hệ thống kinh tế - xã hội; sự hiện diện các ràng buộc trong quá trình hoạt động dưới dạng các quy tắc và chuẩn mực chính thức và không chính thức, cũng như có các chế tài cưỡng chế cần thiết để kiểm soát việc tuân thủ các tiêu chuẩn này. Thiết nghĩ, niềm tin như một hiện tượng, xét về tổng thể, không thể được xếp vào phạm trù thể chế, vì chế tài cưỡng chế chỉ có ở đây dưới hình thức kế thừa, mà không có chế tài xử phạt rõ ràng khi vi phạm các chuẩn mực lòng tin.
Nếu chúng ta đưa ra sự tương đồng với các thể chế phi chính thức hiện tại, chẳng hạn như truyền thống, phong tục, đạo đức,... thì việc vi phạm các chuẩn mực nêu trên đã hình thành đủ bộ máy cưỡng chế rõ ràng dưới hình thức tha hóa, loại trừ, trục xuất... xử phạt [6]. Do đó, niềm tin có thể được phân loại là một hiện tượng gần như thể chế (quasi institution) không chính thức, nhưng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của hệ thống kinh tế, bao gồm cả việc hình thành các điều kiện đảm bảo an ninh kinh tế của quốc gia. Bàn về giá trị của các quan hệ niềm tin trong quá trình tái sản xuất xã hội, cần làm rõ các hình thức mà cảm giác này có thể được biểu hiện. Vì vậy, nó có thể được phân theo các cấp độ: tối thiểu (cấp độ nano), cấp vi mô và cấp vĩ mô. Theo mức độ cá nhân hóa, có thể phân thành niềm tin cá nhân (giữa các cá nhân), niềm tin khái quát (thể chế). Niềm tin thể chế là một hình thái niềm tin đối với các quy tắc, chuẩn mực (thể chế) qua trung gian hành vi của con người. Hệ thống kinh tế xã hội hiện đại được điều chỉnh triệt để bởi các quy tắc, chuẩn mực, mệnh lệnh, quy định pháp luật; do đó, việc tuân thủ chúng bởi các tác nhân kinh tế phụ thuộc vào tính minh bạch, trình độ quản lý và hiệu quả của hệ thống [9].
Niềm tin thể chế cao giúp hạn chế sự không chắc chắn, giảm sự bất cân xứng của thông tin và chi phí giao dịch, góp phần tạo điều kiện nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Niềm tin đối với các thể chế được xác định bằng mức độ đáp ứng của chính các thể chế này với kỳ vọng của các chủ thể, nghĩa là, khả năng thực hiện các nguyên tắc về hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội.
Một số chuyên gia cho rằng, việc củng cố lòng tin chỉ có thể đạt được nếu có bằng chứng xác thực rằng các thể chế hiện hành đang vận hành hiệu quả, đặc biệt là khi đối mặt với những thay đổi nhanh chóng và đáp ứng nhu cầu của phần lớn dân cư.
Một trong những ví dụ về niềm tin thể chế là niềm tin vào các thể chế tiền tệ [8]. Mối quan hệ niềm tin là một phần không thể thiếu của bất kỳ hoạt động nào liên quan đến lưu thông tiền tệ. Tiền là nền tảng vận hành của mọi hệ thống kinh tế dựa trên các mối quan hệ trao đổi và tín dụng, do đó, điều quan trọng là cần có niềm tin của của các thực thể kinh doanh đối với đồng tiền quốc gia, nhờ đó, sẽ tạo điều kiện cho sự ổn định của hệ thống lưu thông tiền tệ và toàn bộ khu vực ngân hàng - tài chính. Nếu mức độ tin cậy thể chế thấp, lưu thông tiền nói chung có thể gặp rủi ro, vì những thành viên tham gia lưu thông tiền tệ sẽ nghi ngờ tính thanh khoản của tiền tệ, gây trở ngại cho quá trình tái sản xuất và làm cho nền kinh tế quốc gia nói chung dễ bị tổn thương. Vi phạm chức năng của hệ thống lưu thông tiền tệ chắc chắn sẽ dẫn đến sự gián đoạn trong hoạt động của các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan nhà nước, đồng thời vi phạm các nguyên tắc cơ bản của an ninh kinh tế.
Nhiều nhà khoa học cho rằng, hệ thống tiền tệ hiện đại là một mạng lưới quan hệ tin cậy phân tầng phức tạp, hơn nữa, được xây dựng phù hợp với không chỉ chiều ngang, mà còn là kiểu phối hợp dọc của các thực thể kinh doanh. Cấu trúc hiện nay của các mối quan hệ tiền tệ hiện đại được xây dựng trên nguyên tắc niềm tin, không chỉ đáng tin cậy nhất, vào các thể chế nhà nước, mà còn trên cơ sở phát hành các hình thức tiền tệ có tính thanh khoản cao nhất.
Các khoản tương đương tiền (quasi money) như tiền gửi có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm... là các khoản nợ của các tổ chức tín dụng, có thể dễ dàng chuyển thành tiền mặt với sự tham gia trực tiếp của hệ thống ngân hàng và Nhà nước. Việc phân loại nhà phát hành dựa trên mức độ thanh khoản của các tài sản do họ phát hành cũng phản ánh thứ tự phân cấp của các tổ chức tài chính theo mức độ tin cậy được cá nhân hóa của các thực thể kinh doanh, và do đó, không chỉ độ tin cậy, mà cả tính thanh khoản của các tài sản được phát hành là một tiêu chí cơ bản để xây dựng các mối quan hệ dọc trong hệ thống tài chính [7].
Có thể lưu ý rằng, mô hình kim tự tháp của các mối quan hệ niềm tin vào các định chế tiền tệ được hình thành đầy đủ và phù hợp với các phương tiện bảo vệ thể chế.
Hệ thống tiền tệ hiện đại đang trải qua những thay đổi đáng kể liên quan đến việc chuyển đổi từ các hình thức tiền mặt và phi tiền mặt cổ điển sang hình thái điện tử.
Tất cả các loại tiền mã hóa (cryptocurrency) chỉ thực hiện một phần chức năng tiền tệ. Chúng chỉ có thể được xác định là tương đương tiền khi được sử dụng làm phương tiện thanh toán và chi trả trong hệ thống thương mại điện tử.
Các đặc điểm tiền tệ như vậy xuất hiện trong tiền mã hóa không thường xuyên ở hầu hết các quốc gia trên thế giới; tiền mã hóa là một loại tiền thay thế không hoàn hảo, nghĩa là, một tài sản không thể trực tiếp tham gia vào các giao dịch chi trả và thanh toán.
Tiền mã hóa không chỉ là tiền, mà còn là thành phần đầu cơ của các mối quan hệ tài chính [8].
Thị trường tiền mã hóa không được gắn với sơ đồ cổ điển của hệ thống phân cấp niềm tin vào tiền (tin tưởng vào tiền → tin tưởng vào ngân hàng → tin tưởng vào nhà nước), tạo thành một khu vực độc lập trong quan hệ ủy thác. Trong quá trình mua và bán tiền mã hóa, các chủ thể kinh doanh tin tưởng không phải các cá nhân riêng lẻ hoặc tổ chức, mà tin tưởng chính hệ thống, tức là, thuật toán công nghệ phát hành tiền mã hóa.
An ninh kinh tế trong quá trình đào (mining) và lưu thông tiền mã hóa, theo một số nhà nghiên cứu, được cho là đảm bảo gần như một trăm phần trăm. Tuy nhiên, như chúng ta thấy, điều đó không hoàn toàn đúng.
Thứ nhất, bản thân thuật toán phát hành tiền thay thế, được xây dựng bằng công nghệ blockchain, có thể có những hạn chế nhất định. Sự tập trung công suất với năng lượng lớn trong tay một thành viên riêng lẻ của thị trường tiền mã hóa sẽ cho phép thành viên đó xây dựng các chuỗi khối dài hơn, từ đó, đưa đến khả năng bóp méo cơ chế định giá và phát hành tiền mã hóa. Ở giai đoạn này, những sự kiện đã được biết, khi các quy trình đào được kiểm soát bởi các nhóm thợ đào lớn, các thợ đào quy mô nhỏ buộc phải chia sẻ tài nguyên của họ với các nhóm thợ đào lớn. Mạng được tập trung xung quanh các nhà khai thác của các trung tâm dữ liệu lớn, chủ yếu phân bố ở các tỉnh phía Nam Trung Quốc, điều này cho thấy quá trình độc quyền của thị trường tiền mã hóa.
Ngoài ra, còn có một hạn chế về khối lượng phát hành, điều này cho thấy rằng không thể đưa thị trường này vào quá trình tái sản xuất thực sự. Khối lượng phát hành tiền mã hóa là cố định (ví dụ đối với bitcoin là 21 triệu đơn vị), dẫn đến việc kéo dài các chuỗi khối, làm chậm tốc độ lan truyền của chúng trên mạng, tăng nguy cơ phân tách và hoạt động trái pháp luật.
Thứ hai, việc lưu thông tiền mã hóa đặt ra rất nhiều câu hỏi. Các thị trường chứng khoán thực hiện quá trình chuyển đổi tiền mã hóa thành tài sản pháp định (fiat) thuộc sở hữu những thành viên cụ thể của thị trường tiền mã hóa. Nhà nước trong thực tế không quản lý hoạt động của họ, điều này gây ra rủi ro thất thoát tài sản do sự không trung thực của chủ sở hữu nền tảng thông tin, đồng thời, cũng không được bảo hiểm phá sản.
Hoạt động của thị trường tiền mã hóa đặt ra một vấn đề về an ninh kinh tế không chỉ đối với một thực thể kinh doanh đơn lẻ, mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia.
Sự gia tăng không kiểm soát được số lượng giao dịch với tiền mã hóa dẫn đến việc mở rộng lĩnh vực kinh tế ngầm, tăng mức độ hình sự hóa các dòng tài chính, xâm phạm quyền của các nhà đầu tư và giảm hiệu quả của toàn bộ hệ thống kinh tế - xã hội.
Giải pháp cho vấn đề an ninh kinh tế trong lĩnh vực tài chính hiện đang là vấn đề cấp thiết nhất. Chỉ khi tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế, đòi hỏi không chỉ duy trì và bảo vệ các thể chế chính thức và phi chính thức hiện có [4], mà còn đòi hỏi quá trình tái sản xuất chúng liên tục trên một nền chất lượng mới, từ đó, chúng ta mới có thể nói về tăng trưởng kinh tế bền vững, khả năng đối mặt với các mối đe dọa bên ngoài, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Белянин А, Зинченко В. Доверие в экономике и общественной жизни. Москва. 2010. С.4.
2. Кощегулова И. Денежная теория и институты // Вестн. УГАТУ. Экономика. 2009. Т.12, № 3(32). С. 18–25.
3. Михайлов А. М. Институциональные формы реализации интересов собственников факторов производства. // Экономические науки. 2007. № 35. С. 71–75.
4. Михайлов А.М., Белова Л. В. Формальные и неформальные институты в банковской сфере // Вопросы экономики и права. 2015. № 88. С. 48–71.
5. Михайлов А.М., Пронина Е. Ю. Экономическая природа институционального капитала и его взаимосвязь с человеческим капиталом. // Вестник Самарского государственного экономического университета. 2013. № 5 (103). С. 85–89.
6. Суриков К.Ю., Коновалова М. Е. Институциональное доверие к деньгам: вопросы теории и практики. Самара, 2016. С. 34–35.
7. Суриков К.Ю., Коновалова М. Е., Кузьмина О. Ю. Институциональное доверие и его роль в процессе развития денежно-кредитной сферы // Вестник Самарского государственного экономического университета. 2016. № 11 (145). С. 5–10.
8. Суриков К.Ю., Коновалова М. Е. Особенности трансформации системы денежного обращения на современном этапе развития // Вестник Самарского государственного экономического университета. 2017. № 10 (156). С. 82–86.
9. Суриков К. Ю. Фактор доверия в эволюции денег // Вестник Самарского государственного экономического университета. 2015. № 4 (126). С. 6–14.
10. Фукуяма Ф. Доверие. Социальные добродетели и путь к процветанию. Москва, 2004. С. 13–17.
11. Якшина И. С. Современные теоретические подходы к содержанию категории экономической безопасности субъектов экономической деятельности // Гуманитарные научные исследования 2013. № 10 (26). С. 3–5.
Bảo Nguyên
Theo Tạp chí Ngân hàng số 13/2020