Tác động của thực thi ESG đến hệ thống ngân hàng: Góc nhìn từ Việt Nam và tham chiếu thế giới
08/05/2024 08:19 9.140 lượt xem
Tóm tắt: Trong những năm qua, đại dịch Covid-19 đã gây rất nhiều khó khăn, tổn thất về người, kinh tế cho các doanh nghiệp nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Tuy nhiên, thống kê cho thấy, doanh nghiệp nào theo đuổi chiến lược phát triển bền vững, công bố các chỉ tiêu ESG (Enviromental - môi trường, Social - xã hội, Governance - quản trị) trong nhiều năm qua luôn thu hút được sự đồng hành của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các nghiên cứu trên thế giới chứng minh tác động nhiều mặt của việc thực thi ESG đối với hệ thống ngân hàng, ảnh hưởng đến các khía cạnh khác nhau như chi phí nợ, chấp nhận rủi ro, định giá, xếp hạng tín dụng, quản trị doanh nghiệp và lợi nhuận. Bài viết này nhằm phân tích tác động của việc thực thi ESG đến hệ thống ngân hàng, từ đó đưa ra một số gợi ý chính sách về giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện công bố các chỉ tiêu ESG tại Việt Nam trong thời gian tới.
 
Từ khóa: Phát triển bền vững, hệ thống ngân hàng, ESG.
 
THE IMPACT OF ESG IMPLEMENTATION ON THE BANKING SYSTEM: 
A PERSPECTIVE FROM VIETNAM AND WORLD REFERENCE

 
Abstract: In the past years, the Covid-19 pandemic has caused many difficulties and human and economic losses for businesses in general and the banking system in particular in Vietnam as well as around the world. However, statistics shows that businesses pursuing sustainable development strategies and announcing ESG indicators (E - environmental, S - social, G - governance) for many years have always attracted attention with the companionship of domestic and foreign investors. Studies around the world prove the multifaceted impact of ESG implementation on the banking system, affecting various aspects such as debt costs, risk tolerance, valuation, credit ratings, corporate governance and profits. This study aims to analyze the impact of ESG implementation on the banking system, thereby making some policy recommendations about solutions for facilitating the implementation of ESG indicators disclosure in Vietnam in the future.
 
Keywords: Sustainable development, banking system, ESG.
 
1. Giới thiệu
 
Xu hướng kinh doanh phát triển bền vững đã tác động đáng kể đến hoạt động của doanh nghiệp và tổ chức tài chính, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay. Doanh nghiệp và tổ chức tài chính đang tận dụng những cơ hội và đối mặt với các thách thức của việc thích nghi với mô hình kinh doanh bền vững. Sự điều chỉnh của tổ chức tài chính trong việc thực thi ESG không chỉ ảnh hưởng đến họ mà còn tác động đến mô hình kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, mức độ tác động này có thể biến đổi tùy theo khu vực kinh doanh và mô hình hệ thống tài chính cụ thể. Trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, ngân hàng đóng vai trò quan trọng như nhà tài trợ vốn cho doanh nghiệp, là nhân tố quan trọng đối với doanh nghiệp khi quyết định chuyển đổi mô hình kinh doanh theo hướng phát triển bền vững. Khi đánh giá rủi ro ESG, tổ chức tài chính xác định các điều kiện tài chính mà họ sẽ cung cấp cho doanh nghiệp và mức độ nghiêm ngặt của các yêu cầu này sẽ tương ứng với mức độ rủi ro ESG của doanh nghiệp. Rủi ro danh tiếng mà các ngân hàng coi là rủi ro liên quan đến các công ty niêm yết đóng một vai trò quan trọng trong quá trình này (Zioło và cộng sự, 2023). 
 
Ở góc nhìn khác, các yếu tố ESG lại có tác động đáng kể đến hệ thống ngân hàng. Nghiên cứu chỉ ra rằng, hiệu suất về việc công bố ESG ảnh hưởng đến chi phí nợ của các công ty, cụ thể là hiệu suất công bố ESG mạnh hơn sẽ dẫn đến chi phí nợ thấp hơn (Eliwa và cộng sự, 2021). Ngoài ra, điểm đánh giá ESG được cho là có ảnh hưởng đến việc chấp nhận rủi ro và giá trị của ngân hàng và mối liên hệ gián tiếp tích cực giữa điểm đánh giá ESG và giá trị ngân hàng thông qua tác động của chúng đối với việc chấp nhận rủi ro (Tommaso và Thornton, 2020). Bên cạnh đó, theo Rastogi và Singh (2022), cùng với những thay đổi về môi trường, xã hội và quản trị, các yếu tố ESG cũng tác động đến việc định giá ngành Ngân hàng. Các yếu tố này đóng một vai trò quan trọng trong xếp hạng tín dụng của các tổ chức phi tài chính và phản ứng của những thay đổi xếp hạng tín dụng khác nhau giữa các lĩnh vực khác nhau (Chodnicka-Jaworska, 2021). Hơn nữa, tác động của yếu tố quản trị doanh nghiệp đến việc công bố ESG cũng đã được chỉ ra, cụ thể là cơ cấu sở hữu ảnh hưởng đến việc công bố ESG ở các công ty phi tài chính (Ellili, 2022). Tương tự như vậy, các nghiên cứu nhằm phát triển các khuôn khổ đổi mới, chẳng hạn như “Chỉ số tích hợp ESG quản trị ngân hàng” để tích hợp tính bền vững vào hệ thống quản trị tại các ngân hàng (Dicuonzo và cộng sự, 2022). Việc kết hợp các yếu tố ESG vào quá trình ra quyết định của các tổ chức tài chính đã được đề xuất để làm cho hệ thống tài chính bền vững hơn (Zioło và cộng sự, 2019). 
 
Mặc dù còn có những tranh cãi về việc liệu ESG có ảnh hưởng đến việc chấp nhận rủi ro của ngân hàng, nhưng các ngân hàng vẫn thể hiện sự tuân thủ các chiến lược ESG để giảm thiểu rủi ro, dẫn đến tài sản có rủi ro thấp hơn và hệ số nguy cơ phá sản (điểm Z) cao hơn (Galletta và Mazzù, 2022). Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy các hoạt động ESG có thể làm giảm lợi nhuận của ngân hàng, ủng hộ giả thuyết đánh đổi rằng, việc áp dụng các tiêu chuẩn ESG có thể làm tăng chi phí ngân hàng dẫn đến việc giảm lợi nhuận. Ngoài ra, có mối quan hệ hình chữ U giữa ESG và lợi nhuận ngân hàng, cho thấy hoạt động ESG có thể giúp cải thiện hiệu quả hoạt động ngân hàng trong dài hạn (Yuen và cộng sự, 2022). 
 
Theo Phạm Minh Tú (2023), ngành Ngân hàng đóng vai trò quan trọng như một kênh cung ứng tài chính chủ chốt trong nền kinh tế và luôn có trách nhiệm quan trọng trong việc định hình và xác định vai trò của mình trong quá trình thúc đẩy tiến trình “xanh hóa” dòng vốn đầu tư với mục tiêu đảm bảo sự phát triển bền vững. Báo cáo toàn cầu về tiến trình cải cách hướng tới tài chính bền vững năm 2019, được thực hiện bởi Mạng lưới ngân hàng bền vững do Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) tạo điều kiện cho việc thành lập, đã xác định rằng, Việt Nam thuộc vào nhóm 38 thị trường đang phát triển và đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành tài chính - ngân hàng, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và đối phó với biến đổi khí hậu. Đặc biệt, sự phát triển bền vững của từng ngân hàng cá nhân đóng một vai trò quyết định đối với sự phát triển bền vững của toàn hệ thống ngân hàng, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo phát triển bền vững của quốc gia.
 
Bài viết này nhằm phân tích tác động của việc thực thi ESG đến hệ thống ngân hàng, từ đó đưa ra các gợi ý chính sách về giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện công bố các chỉ tiêu ESG tại Việt Nam trong thời gian tới.
 
2. Cơ sở lí thuyết
 
Lí thuyết các bên liên quan (Freeman, 1984) có thể được áp dụng để hỗ trợ sự hiểu biết về mối liên hệ phức tạp giữa việc chấp nhận rủi ro của các ngân hàng và giá trị của họ, đồng thời cũng liên quan đến việc quản trị ngân hàng dựa trên các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp. Lí thuyết này đưa ra gợi ý rằng, sự chuyển đổi từ một mô hình quản trị tập trung vào lợi ích của cổ đông sang một mô hình quản trị tập trung vào lợi ích của tất cả các bên liên quan sẽ cân bằng lợi ích của các bên khi họ quyết định đầu tư vào một ngân hàng hay không. Điều này giúp hạn chế việc ban quản trị chấp nhận rủi ro vượt quá mức và bảo vệ giá trị của ngân hàng. Vì vậy, quản trị dựa trên ESG có thể tạo ra một tương quan tiêu cực đối với việc chấp nhận rủi ro của các ngân hàng. Sự tương quan này thường được thể hiện trong bản chất của danh mục đầu tư của ngân hàng và mức độ đòn bẩy mà họ sử dụng. Ngoài ra, nó cũng có thể bao gồm việc giảm rủi ro do lòng trung thành của khách hàng tốt hơn (Bebbington, Larrinaga và Moneva, 2008) và giảm chi phí liên quan đến tuân thủ các quy định và biện pháp quản trị (Oikonomou, Brooks và Pavelin, 2012).
 
Khái niệm ESG là yếu tố trọng điểm trong việc đánh giá trách nhiệm xã hội và môi trường của các ngân hàng. Nghĩa vụ môi trường của ngân hàng có thể được phân tích dưới ba góc độ chính: Hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực nội bộ của ngân hàng, mức độ tài trợ của ngân hàng cho các dự án công nghiệp có ý thức về môi trường và việc giảm rủi ro trong việc cung cấp vốn cho các doanh nghiệp có các dự án gây tổn hại đến môi trường (Jacobs và cộng sự, 2010; Gangi và cộng sự, 2019).
 
Về mặt tài chính, các khía cạnh xã hội rộng lớn hơn cũng có thể được xem xét. Điều này bao gồm việc tài trợ của ngân hàng cho các tổ chức phi chính phủ, quỹ đầu tư có đạo đức, khả năng chuyên môn trong việc quản lí rủi ro cho khách hàng, cũng như hiệu quả chi phí của các dịch vụ thanh toán điện tử và việc giáo dục tài chính cho công chúng (Siueia và cộng sự, 2019).
Cuối cùng, quản trị ngân hàng được ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bao gồm: Quy mô của hội đồng quản trị, năng lực của giám đốc, kiến thức và tính độc lập của giám đốc, sự đa dạng về văn hóa và bình đẳng giới trong hội đồng quản trị, tính chất kép của giám đốc điều hành (CEO) - chủ tịch, thù lao điều hành và quản trị rủi ro.
 
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu, việc ngân hàng thông qua ESG để truyền tải các mục tiêu bền vững của mình đến khách hàng và đối tác kinh doanh trở nên quan trọng. Việc này có thể giúp họ xây dựng niềm tin của khách hàng, củng cố danh tiếng và đạt được lợi nhuận (Esteban-Sanchez và cộng sự, 2017; Gangi và cộng sự, 2019). Vì vậy, tình huống lí tưởng nhất là khi ngân hàng áp dụng các yêu cầu quản trị doanh nghiệp có chất lượng cao nhất, đồng thời giảm thiểu tác động môi trường trong khi tham gia vào các hoạt động trách nhiệm xã hội.
 
3. Phương pháp nghiên cứu
 
Trong bài viết, khi nghiên cứu về các vấn đề lí luận có liên quan, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính (cụ thể là phương pháp nghiên cứu tình huống hay còn gọi là phương pháp nghiên cứu điển hình). Tác giả thu thập, tổng hợp và phân tích thông tin từ các nguồn dữ liệu thứ cấp như các bài báo nghiên cứu khoa học, giáo trình, tạp chí kinh tế, luận văn, luận án... để từ đó hệ thống hóa lí luận về các vấn đề liên quan đến việc thực thi các chỉ tiêu ESG và tác động của nó đến hệ thống ngân hàng. Dựa trên kết quả thu được, tác giả sẽ đưa ra lời giải thích, nhận xét và tổng kết được các bài học kinh nghiệm và dựa vào đó để đề xuất các giải pháp phù hợp cho các giai đoạn triển khai việc công bố các chỉ tiêu ESG tại Việt Nam.
 
4. Kết quả và thảo luận 
 
Báo cáo Rủi ro toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2022 cho thấy tầm quan trọng của rủi ro môi trường và xã hội (tức là rủi ro phi tài chính) có tăng lên trong những năm gần đây so với rủi ro kinh tế. Khái niệm rủi ro phi tài chính được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, bao gồm: Rủi ro hoạt động, rủi ro tuân thủ, rủi ro pháp lí, rủi ro mô hình, rủi ro chiến lược, rủi ro công nghệ thông tin, rủi ro an ninh mạng, rủi ro bên thứ ba và rủi ro danh tiếng (Deloitte, 2018). Một cách tiếp cận tương tự được trình bày bởi Leo và cộng sự (2019) về cách phân loại rủi ro cho các ngân hàng. Họ phân biệt rủi ro tài chính và phi tài chính, trong đó rủi ro phi tài chính bao gồm: Rủi ro quốc gia, rủi ro tuân thủ, rủi ro pháp lí, rủi ro hành vi, rủi ro mô hình, rủi ro kinh doanh và chiến lược, rủi ro hoạt động, rủi ro danh tiếng. Rủi ro về các yếu tố phi tài chính trong bối cảnh phát triển bền vững được xác định là rủi ro ESG, tức là rủi ro do các yếu tố ESG gây ra. Đối với các tổ chức tài chính, Cơ quan Ngân hàng châu Âu định nghĩa: “Rủi ro ESG là rủi ro của bất kì tác động tài chính tiêu cực nào đối với tổ chức xuất phát từ tác động hiện tại hoặc tương lai của các yếu tố ESG đối với đối tác hoặc tài sản đầu tư của tổ chức đó” (EBA 2021). Bên cạnh áp lực pháp lí và thị trường, các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường còn phải đối mặt với rủi ro ESG, hệ quả tất yếu đến từ sự gia tăng nhận thức về tầm quan trọng của các yếu tố ESG của chủ sở hữu, cũng như tầm quan trọng của những yếu tố này trong việc định giá rủi ro. Từ đó dẫn đến việc các tổ chức tài chính kết hợp các yếu tố phi tài chính vào mô hình kinh doanh cũng như vào quy trình đầu tư và tài chính (Eccles và cộng sự, 2017; Grim và Berkowitz, 2020; Signori và cộng sự, 2021). Ảnh hưởng tích cực của các yếu tố ESG đến hiệu quả tài chính của ngân hàng thể hiện ở tăng trưởng cho vay, trong khi đưa những yếu tố này vào quyết định cho vay của ngân hàng dẫn đến hiệu quả tài chính tốt hơn. Gangi và cộng sự (2019) cho thấy các ngân hàng có tính đến yếu tố ESG có mức độ rủi ro thấp hơn và sự tham gia của ngân hàng vào các vấn đề ESG giúp giảm nguy cơ mất khả năng thanh toán (Neitzert và Petras, 2019). Ngày càng có nhiều tổ chức tài chính cân nhắc các yếu tố ESG trong quá trình ra quyết định do nhu cầu đầu tư vốn vào sản phẩm tài chính bền vững. Xiong (2021) tiết lộ rằng, lợi nhuận cho cổ phiếu có xếp hạng rủi ro ESG thấp (cổ phiếu xanh) cao hơn và chúng cũng giúp cải thiện rủi ro đuôi trong danh mục đầu tư (so với các cổ phiếu có xếp hạng rủi ro ESG cao (cổ phiếu nâu)), đặc biệt, trong thời kì khủng hoảng do Covid-19. Maiti (2021) cho thấy, trong mọi trường hợp, danh mục đầu tư được hình thành trên các yếu tố xã hội và quản trị mang lại hiệu quả tốt hơn hiệu quả đầu tư hơn so với danh mục đầu tư truyền thống chỉ dựa trên quy mô và giá trị. 
 
Xét về góc độ thực thi ESG, nghĩa vụ môi trường của ngân hàng được xem xét đầu tiên và đánh giá quan trọng nhất, bao gồm ba góc độ: Hiệu quả nguồn lực nội bộ, tài trợ cho các dự án công nghiệp có ý thức về môi trường và giảm rủi ro cung cấp vốn cho doanh nghiệp có các dự án gây tổn hại đến môi trường (Gangi và cộng sự, 2019; Batae và cộng sự, 2021). Trong khi đó, về khía cạnh trách nhiệm xã hội của ngân hàng, có thể kể đến các hoạt động như tài trợ cho tổ chức phi chính phủ, quỹ đầu tư có đạo đức, tài trợ tài chính giáo dục cho công chúng... 
 
(Esteban-Sanchez và cộng sự, 2017; Siueia và cộng sự, 2019). Cuối cùng, sự thành công trong quản trị bị ảnh hưởng bởi quy mô hội đồng quản trị, năng lực, kiến thức và tính độc lập của ban giám đốc, sự đa dạng về văn hóa và bình đẳng giới trong hội đồng quản trị, thù lao điều hành và quản trị rủi ro... Trong nền kinh tế toàn cầu, ngân hàng phải phổ biến các mục tiêu bền vững của mình thông qua ESG tới khách hàng và đối tác kinh doanh để có được niềm tin của khách hàng, cải thiện danh tiếng cũng như lợi nhuận (Esteban-Sanchez và cộng sự, 2017; Gangi và cộng sự, 2019). Theo đó, tình huống lí tưởng nhất là khi ngân hàng vừa có thể áp dụng cơ chế quản trị doanh nghiệp có chất lượng cao nhất trong khi giảm thiểu hậu quả môi trường và tham gia tích cực vào các hoạt động trách nhiệm xã hội. 
 
Tuy nhiên, xung đột lợi ích của các bên liên quan và bộ phận quản lí có thể gây nguy hiểm cho việc cải thiện chính sách ESG và hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Ví dụ, việc theo đuổi lợi nhuận trong các khoản đầu tư rủi ro hơn có thể ngăn cản ngân hàng thực hiện việc áp dụng các chính sách ESG tốt hơn. Lập luận này dẫn đến sự quan tâm ngày càng tăng trong việc đánh giá mối quan hệ giữa ESG và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng trên toàn cầu (Friede và cộng sự, 2015; Azmi và cộng sự, 2021; El Khoury và cộng sự, 2021). Tuy nhiên, những kết quả này không có tính thuyết phục cao do chưa đồng nhất (có thể các kết quả nghiên cứu mâu thuẫn nhau đến từ việc bỏ qua sai số biến đổi, cỡ mẫu nhỏ và kết quả sơ cấp không nhất quán...). Bên cạnh đó, theo Friede và cộng sự (2015) khi tiến hành tổng hợp hơn 2.000 kết quả nghiên cứu về việc xem xét mối liên hệ giữa việc thực thi ESG và hiệu quả tài chính cho thấy, hơn 90% kết quả nghiên cứu đã chứng minh mối liên hệ thuận chiều giữa việc thực thi các tiêu chí ESG với thành công trong kinh doanh. Trong bối cảnh xảy ra các cuộc khủng hoảng tài chính gần đây, Cornett và cộng sự (2016) cho rằng, thành công về mặt tài chính của các ngân hàng Hoa Kỳ từ năm 2003 đến năm 2013 có liên quan mạnh mẽ, thuận chiều với điểm đánh giá ESG. Có nghĩa là, các ngân hàng được khen thưởng vì có trách nhiệm xã hội cũng đồng thời có thành công về mặt tài chính kinh doanh. Bischof và cộng sự (2021) giải thích rằng, việc kết hợp ESG vào mô hình kinh doanh giúp các ngân hàng hiểu rõ hơn và gắn kết với khách hàng về rủi ro biến đổi khí hậu và các chuyển đổi bền vững, từ đó đảm bảo mối quan hệ với khách hàng. Wang và cộng sự (2015), Broadstock và cộng sự (2021), El Khoury và cộng sự (2021), Yoo và cộng sự (2021), Zhang và cộng sự (2022) đều ủng hộ ý kiến ESG có tác động tích cực đến hiệu quả tài chính, ngay cả trong lĩnh vực phi tài chính.
 
Tại Việt Nam, trong bối cảnh nhận thức về tầm quan trọng của việc thực thi các tiêu chuẩn ESG trong các hoạt động tài chính, tín dụng, đầu tư và quản trị ngày càng gia tăng, sự ảnh hưởng của ngân hàng đối với nền kinh tế và xã hội trở nên đáng kể. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sự thịnh vượng của xã hội và bảo vệ môi trường, mà còn kéo theo một loạt tác động kinh tế, xã hội và môi trường có thể kéo dài vào tương lai.
 
Được xem là ngân hàng đầu tiên công bố báo cáo phát triển bền vững, Ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần Á Châu (ACB) đã lựa chọn và trình bày các chỉ số liên quan đến phát triển bền vững trong các lĩnh vực ESG dựa trên các tiêu chuẩn thông tin công bố được thiết lập bởi Ủy ban Tiêu chuẩn Báo cáo Bền vững Toàn cầu (GSSB) cùng với sự tham chiếu đến các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) của Liên hợp quốc. ACB cũng tuân theo 18 tiêu chí của Tổ chức Sáng kiến Báo cáo Toàn cầu (GRI). Báo cáo Phát triển Bền vững của ACB năm 2022 bao gồm các thông tin liên quan đến việc xác định hướng đi và cách tiếp cận các vấn đề liên quan đến phát triển bền vững, phương thức quản lí những lĩnh vực quan trọng và kết quả mà ACB đã đạt được trong lĩnh vực này. 
 
Tháng 6/2023, Finance Asia, một trong những tạp chí hàng đầu và uy tín nhất trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại khu vực châu Á, đã trao danh hiệu "Ngân hàng có tác động ESG xuất sắc nhất tại Việt Nam" cho NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB). Sự vinh dự này được thể hiện nhờ những tác động tích cực của SHB đối với môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp. Sự thành công trong việc xây dựng và triển khai hiệu quả khung quản trị ESG đã giúp SHB thu hút một lượng lớn vốn viện trợ không hoàn lại (ODA) từ các tổ chức quốc tế, đạt tổng giá trị hàng tỉ USD. Đây là nguồn vốn cần thiết để SHB tiếp tục hỗ trợ các dự án chuyển đổi sang mô hình kinh doanh xanh, có tác động tích cực đối với cả khía cạnh kinh tế và xã hội. Đồng thời, thành tựu này đã củng cố vị thế của SHB như một trong những ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực tài trợ và quản lí nguồn vốn xanh và bền vững tại Việt Nam. 
 
NHTM cổ phần Quân đội (MB) cũng đã nhận thấy vai trò quan trọng của mình trong việc hỗ trợ và thúc đẩy các hoạt động và dự án xanh. MB đã sử dụng nguồn vốn huy động của mình để cấp tín dụng cho các lĩnh vực xanh như nông nghiệp bền vững và cung cấp nguồn nước trong cả khu vực đô thị và nông thôn, giúp thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế có tầm quan trọng lớn trong việc bảo vệ môi trường và đảm bảo sự bền vững của nguồn lực. Ngoài việc tập trung vào cấp tín dụng nội địa, MB cũng đã tiến hành nghiên cứu và thực hiện tiếp cận nguồn vốn quốc tế xanh thông qua các định chế tài chính và tổ chức phi chính phủ. Điều này giúp mở rộng khả năng ảnh hưởng của MB đối với các dự án và hoạt động quốc tế có mục tiêu xanh, đồng thời tạo cơ hội cho việc hợp tác quốc tế trong việc giải quyết những thách thức toàn cầu về môi trường và phát triển bền vững. Từ những nỗ lực này, MB không chỉ đóng góp vào sự thịnh vượng của xã hội và bảo vệ môi trường mà còn xác định mình như một đối tác quan trọng trong việc xây dựng một tương lai bền vững và xanh hơn.
 
Tuy nhiên, việc phát triển và thực hiện các tiêu chí ESG cũng như tuân thủ các quy tắc và tiêu chuẩn đòi hỏi sự đầu tư thời gian và nguồn lực tài chính, vì vậy, không phải tất cả các tổ chức tài chính và doanh nghiệp trên thị trường đều đặt sự quan tâm cao đối với việc này. Để đảm bảo, các ngân hàng và tổ chức tài chính thực hiện “Hành trình xanh” toàn diện và hiệu quả, cần thiết phải có một hệ thống cơ chế định hướng, giám sát và chế tài mạnh mẽ được thiết lập bởi các cơ quan quản lí nhà nước, trong đó Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đóng vai trò quan trọng.
 
5. Kết luận và giải pháp
 
Bài viết đã trình bày và thảo luận về tác động của việc thực thi các yếu tố ESG đối với hệ thống ngân hàng và đặc biệt tập trung vào ngân hàng Việt Nam. Bài viết cũng so sánh với thực trạng thế giới để đánh giá tầm quan trọng của ESG trong việc định hình hệ thống ngân hàng và quản trị rủi ro.
 
Từ góc nhìn Việt Nam, bài viết cho thấy sự gia tăng tầm quan trọng của ESG đối với các ngân hàng trong việc xây dựng và điều chỉnh mô hình kinh doanh. Việc thực thi ESG đã giúp các ngân hàng thu hút nguồn vốn ODA quốc tế và đảm bảo nguồn vốn để hỗ trợ dự án chuyển đổi xanh. Ngoài ra, những nỗ lực trong việc thực hiện ESG đã giúp ngân hàng ở Việt Nam đạt được danh hiệu về tác động tích cực đến môi trường, xã hội và quản trị, góp phần củng cố vị thế là các ngân hàng xanh và bền vững hàng đầu trong nước.
 
Từ góc nhìn toàn cầu, bài viết đã cho thấy ESG được coi là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá rủi ro trong hệ thống ngân hàng. Rủi ro phi tài chính bao gồm rủi ro ESG, đã được phát triển và tích hợp vào quy trình ra quyết định của các tổ chức tài chính trên thế giới. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, việc tích hợp yếu tố ESG vào hoạt động ngân hàng có thể mang lại nhiều lợi ích như: Tăng trưởng cho vay, hiệu quả tài chính tốt hơn và giảm nguy cơ mất khả năng thanh toán.
 
Để thúc đẩy và khuyến khích doanh nghiệp nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng (mà trước hết là các doanh nghiệp đại chúng) công bố thông tin ESG một cách ngày càng chất lượng hơn, minh bạch và đáng tin cậy hơn, các cơ quan, ban, ngành, Chính phủ cần có những động thái rõ ràng. 
 
Thứ nhất, phải có cơ chế chấm, công bố xếp hạng báo cáo phát triển bền vững của các doanh nghiệp đại chúng hằng năm. Từ đó, có cơ sở tham chiếu nhằm khuyến khích những doanh nghiệp có thứ hạng cao bằng những cơ chế ưu đãi về chính sách thuế, chính sách ưu đãi khi đầu tư cũng như khi tham gia đấu thầu để doanh nghiệp có thể nhận thấy những lợi ích cụ thể, từ đó sẽ chú trọng nâng cao chất lượng báo cáo phát triển bền vững bằng cách công bố cụ thể các chỉ tiêu ESG.
Thứ hai, do đây là một hoạt động còn tương đối mới ở Việt Nam nên không thể bỏ qua vai trò của tổ chức đào tạo (bao gồm cả các trường đại học) trong việc đào tạo ra các chuyên gia có đầy đủ kiến thức không chỉ về tài chính mà còn chuyên ngành về môi trường, xã hội.
Thứ ba, NHNN cần thể hiện vai trò lãnh đạo trong việc xây dựng và áp dụng các chính sách và quy định cụ thể về lĩnh vực tín dụng xanh, đảm bảo các NHTM và tổ chức tài chính thực hiện nguyên tắc và tiêu chuẩn xanh một cách nghiêm túc và hiệu quả, đồng thời đảm bảo tính thống nhất trong tham gia và thực thi ESG trong toàn Ngành.

 
Sự hợp tác và đóng góp của tất cả các bộ, ban, ngành có thẩm quyền cũng là yếu tố quan trọng để đảm bảo việc thực thi ESG được triển khai một cách toàn diện và được thực hiện đúng các cam kết của Chính phủ liên quan đến giảm phát thải ròng. Thông qua sự đoàn kết và cùng hành động của tất cả các bên liên quan, chúng ta có thể đảm bảo sự bền vững của hệ thống tài chính và môi trường tự nhiên trong tương lai.
 
Tài liệu tham khảo:
 
1. Azmi, W., Hassan, M.K., Houston, R. and Karim, M.S. (2021). “ESG activities and banking performance: international evidence from emerging economies”, Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, Vol. 70, 101277.
2. Batae, O.M., Dragomir, V.D. and Feleaga, L. (2021). “The relationship between environmental, social, and financial performance in the banking sector: a European study”, Journal of Cleaner Production, Vol. 290, 125791.
3. Bebbington, J., Larrinaga, C., & Moneva, J. M. (2008). Corporate social reporting and reputation risk management. Accounting, Auditing & Accountability Journal, 23, pages 337 - 361. https://doi.org/10.1108/ 09513570810863932.
4. Bischof, R., Bourdier, N., Gassmann, P., Wackerbeck, P. and Marek, S. (2021), “European bank transformation: why banks can no longer ignore ESG”, available at: https://www.strategyand.pwc.com/de/en/industries/financial-services/transforming-eu-banks/esg.html
5. Cornett, M.M., Erhemjamts, O. and Tehranian, H. (2016). “Greed or good deeds: an examination of the relation between corporate social responsibility and the financial performance of U.S. commercial banks around the financial crisis”, Journal of Banking and Finance, Vol. 70, pages 137 - 159.
6. Chodnicka-Jaworska, P. (2021). Esg as a measure of credit ratings. Risks, 9(12), page 226 https://doi.org/10.3390/risks9120226
7. Deloitte (2018). The future of Non-Financial Risk in financial services: Building an effective Non-Financial Risk management program. Available at: https://www2. deloitte.com/de/de/pages/financial-services/articles/non-financial-risk-financial services.html (Accessed December 18, 2023).
8. Dicuonzo, G., Donofrio, F., Iannuzzi, A., & Dell’Atti, V. (2022). The integration of sustainability in corporate governance systems: an innovative framework applied to the european systematically important banks. International Journal of Disclosure and Governance, 19(3), pages 249 - 263. https://doi.org/10.1057/s41310-021-00140-2
9. EBA (2021). EBA report on management and supervision of ESG risks for credit institutions and investment firms. European Banking Authority. EBA/REP/2021/18 Available: https://www.eba.europa.eu/sites/default/documents/files/document_library/Publications/Reports/2021/1015656/EBA%20Report%20on%20ESG%20risks%20management%20and%20supervision.pdf (accessed December 18, 2023).
10. Eccles, R. G., Kastrapeli, M. D., and Potter, S. J. (2017). How to integrate ESG into investment decision-making: Results of a global survey of institutional investors. J. App. Corp. Fin. 29 (4), pages 125 - 133. doi:10.1111/jacf.12267.
11. Ellili, N. (2022). Impact of corporate governance on environmental, social, and governance disclosure: any difference between financial and non‐financial companies? Corporate Social Responsibility and Environmental Management, 30(2), pages 858 - 873. https://doi.org/10.1002/csr.2393
12. Eliwa, Y., Aboud, A., & Saleh, A. (2021). Esg Practices and the cost of debt: evidence from eu countries. Critical perspectives on accounting, 79, 102097. Https://doi.org/10.1016/j.cpa.2019.102097.
13. Esteban-sanchez, p., de la cuesta-gonzalez, m. And paredes-gazquez, j.d. (2017). “Corporate social performance and its relation with corporate financial performance: international evidence in the banking industry”, journal of cleaner production, vol. 162, pages 1102 - 1110.
14. Freeman, r. (1984). Strategic management: a stakeholder approach. Boston: Pitman publishing.
15. Khoury, r., nasrallah, n., & alareeni, b. (2021). The determinants of esg in the banking sector of mena region: A trend or necessity? Competitiveness review an international business journal incorporating journal of global competitiveness, 33(1), pages 7 - 29. https://doi.org/10.1108/cr-09-2021-0118.
16. Galletta, s. And mazzù, s. (2022). Esg controversies and bank risk taking. Business strategy and the environment, 32(1), pages 274 - 288. https://doi.org/10.102/bse.3129
17. Gangi, f., meles, a., d’angelo, e. And daniele, l.m. (2019). “Sustainable development and corporate governance in the financial system: are environmentally friendly banks less risky?”, corporate social responsibility and environmental management, vol. 26 no. 3, pages 529-547.
18. Grim, d. M., and berkowitz, d. B. (2020). Esg, sri, and impact investing: a primer for decision-making. J. Impact esg invest. 1 (1), pages 47 - 65. Doi:10.3905/jesg.2020.1.1.047.
19. Jacobs, b.w., singhal, v.r. and subramanian, r. (2010). “An empirical investigation of environmental performance and the market value of the firm”, journal of operations management, vol. 28 no. 5, pages 430 - 441.
20. Leo, m., sharma, s., and maddulety, k. (2019). Machine learning in banking risk management: a literature review. Risks 7 (1), 29. Doi:10.3390/risks7010029.
21. Maiti, m. (2021). Is esg the succeeding risk factor? J. Sustain. Finance invest. 11 (3), pages 199 - 213. Doi:10.1080/20430795.202.
22. Neitzert, f., and petras, m. (2019). Corporate social responsibility and bank risk. Ssrn electron. J. Doi:10.2139/ssrn.3456754.
23. Nguyễn Văn Tú (2023). Các nguyên tắc ngân hàng bền vững - kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng.
24. Oikonomou, i., brooks, c., & pavelin, s. (2012). The impact of corporate social performance on financial risk and utility: a longitudinal analysis. Financial management, 41, pages 483-515. https://doi.org/10.1111/j.1755- 053x.2012.01190.x
25. Rastogi, s. And singh, k. (2022). The impact of esg on the bank valuation: Evidence of moderation by ict. Journal of global responsibility, 14(2), pages 273 - 288. https://doi.org/10.1108/jgr-07-2022-0075. 
26. Signori, s., san-jose, l., retolaza, j. L., and rusconi, g. (2021). Stakeholder value creation: comparing esg and value added in european companies. Sustainability 13 (3), 1392. Doi:10.3390/su13031392.
27. Siueia, t.t., wang, j. And deladem, t.g. (2019). “Corporate social responsibility and financial performance: a comparative study in the sub-saharan africa banking sector”, journal of cleaner production, vol. 226, pages 658 - 668.
28. Tommaso, c. And thornton, j. (2020). Do esg scores effect bank risk taking and value? Evidence from european banks. Corporate social responsibility and environmental management, 27(5), 2286-2298. https://doi.org/10.1002/csr.1964
29. Xiong, j. X. (2021). The impact of esg risk on stocks. J. Impact esg invest. 2 (1), pages 7 - 18. Doi:10.3905/jesg.2021.1.025.
30. Zioło, m., bąk, i., cheba, k., filipiak, b., & spoz, a. (2023). Environmental, social, governance risk versus cooperation models between financial institutions and businesses. Sectoral approach and esg risk analysis. Frontiers in environmental science, 10. https://doi.org/10.3389/fenvs.2022.1077947.
31. Friede, g., busch, t. And bassen, a. (2015). “esg and financial performance: Aggregated evidence from more than 2000 empirical studies”, journal of sustainable finance and investment, vol. 5 no. 4, pages 210 - 233.
32. Yoo, s., keeley, a.r. and managi, s. (2021). “Does sustainability activities performance matter during financial crises? Investigating the case of covid-19”, energy policy, vol. 155, page 112330.
33. Yuen, m., ngo, t., le, t., & ho, t. (2022). The environment, social and governance (esg) activities and profitability under covid-19: evidence from the global banking sector. Journal of economics and development, 24(4), pages 345 - 364. https://doi.org/10.1108/jed-08-2022-0136
34. Zhang, d., wang, c. And dong, y. (2022). “How does firm esg performance impact financial constraints? An experimental exploration of the covid-19 pandemic”, the european journal of development research (online first).
35. Zioło, m., filipiak, b., bąk, i., & cheba, k. (2019). How to design more sustainable financial systems: the roles of envi-ronmental, social, and governance factors in the decision-making process. Sustainability, 11(20), 5604. https://doi.org/10.3390/su11205604
 
PGS., TS. Trần Ngọc Hùng
Viện Tài chính - Kế toán, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh 
 
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?
13/12/2024 08:32 368 lượt xem
Bài viết giới thiệu nghiên cứu của Giáo sư Antonio Fatas (2024), trong đó phân tích những lý do dẫn đến “sự bất khả xâm phạm” đáng ngạc nhiên của châu Á, vốn trước đây, giống như tất cả các nền kinh tế đang phát triển, dễ bị ảnh hưởng bởi lạm phát ...
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam
09/12/2024 08:32 467 lượt xem
Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam
05/12/2024 07:51 709 lượt xem
Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách
22/11/2024 10:50 1.219 lượt xem
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).
Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam
Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam
15/11/2024 10:30 1.464 lượt xem
Phát triển khu vực kinh tế tư nhân là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Tại Việt Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế”.
Hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu - Kinh nghiệm từ châu Á và gợi ý cho  Việt Nam
Hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu - Kinh nghiệm từ châu Á và gợi ý cho Việt Nam
11/11/2024 10:22 1.430 lượt xem
Xếp hạng tín nhiệm không phải là một thuật ngữ xa lạ trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đặc biệt là đối với hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn.
Châu Á và Việt Nam đón đầu làn sóng kinh tế “bạc”
Châu Á và Việt Nam đón đầu làn sóng kinh tế “bạc”
03/11/2024 07:15 1.601 lượt xem
Ủy ban về quyền kinh tế, văn hóa và xã hội của Liên hợp quốc năm 2023 xác định già hóa dân số là một xu hướng mang tính toàn cầu. Xu hướng già hóa dân số không chỉ diễn ra mạnh mẽ ở châu Âu mà đã, đang và sẽ lan rộng sang khu vực châu Á, tạo ra những cơ hội lẫn thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế, xã hội.
Quy định về cấp phép ngân hàng ảo tại Thái Lan và một số gợi ý cho  Việt Nam
Quy định về cấp phép ngân hàng ảo tại Thái Lan và một số gợi ý cho Việt Nam
30/10/2024 09:30 1.560 lượt xem
Tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và lĩnh vực tài chính trong những năm qua đã dẫn đến những thay đổi đáng kể trong hành vi của người tiêu dùng và hệ thống tài chính trên toàn cầu.
Những rủi ro cho nền kinh tế toàn cầu năm 2024 và hàm ý cho Việt Nam
Những rủi ro cho nền kinh tế toàn cầu năm 2024 và hàm ý cho Việt Nam
23/10/2024 08:04 12.332 lượt xem
Triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2024 cho thấy có sự cải thiện nhẹ so với năm 2023, với dự báo tăng trưởng đạt 3,1 - 3,2% GDP và lạm phát giảm xuống 5,8 - 5,9%.
Tác động của kiều hối đến tăng trưởng kinh tế của một số quốc gia trong khu vực ASEAN
Tác động của kiều hối đến tăng trưởng kinh tế của một số quốc gia trong khu vực ASEAN
14/10/2024 15:40 1.713 lượt xem
Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, kiều hối đang đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Ngân hàng mở: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
Ngân hàng mở: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
08/10/2024 08:03 2.074 lượt xem
Ngân hàng mở là một khái niệm mới nổi trong ngành tài chính - ngân hàng, mang lại sự đổi mới và cách mạng hóa phương thức hoạt động của ngân hàng truyền thống.
Chính sách tín dụng nông nghiệp của Ấn Độ và kinh nghiệm đối với Việt Nam
Chính sách tín dụng nông nghiệp của Ấn Độ và kinh nghiệm đối với Việt Nam
03/10/2024 14:46 1.758 lượt xem
Nằm ở lưu vực sông Ấn và sông Hằng, Ấn Độ là một quốc gia có nền nông nghiệp lâu đời với quy mô thị trường ước đạt 372,94 tỉ USD vào cuối năm 2024, dự kiến ​​sẽ đạt 473,72 tỉ USD vào năm 2029 (Mordorintelligence, 2024).
Tác động của địa chính trị đến thương mại quốc tế
Tác động của địa chính trị đến thương mại quốc tế
01/10/2024 16:10 2.911 lượt xem
Bài viết giới thiệu một số kết quả nghiên cứu thực nghiệm về tác động của địa chính trị đến thương mại toàn cầu thông qua phương pháp nghiên cứu định tính với kỹ năng chính là khai thác, phân tích, tổng hợp và bình luận các thông tin thứ cấp từ các nghiên cứu có liên quan.
Pháp luật về giám sát tập đoàn tài chính tại Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Pháp luật về giám sát tập đoàn tài chính tại Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
30/09/2024 08:01 1.921 lượt xem
Tập đoàn tài chính không phải là một hình thái tổ chức hoạt động kinh doanh mới trên thị trường mà bắt đầu được hình thành từ những năm 60 tại Mỹ khi hiện tượng các ngân hàng với hoạt động cấp tín dụng kết nối các công ty bảo hiểm, chứng khoán thông qua sở hữu vốn...
Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong đầu tư phát triển kinh tế vùng
Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong đầu tư phát triển kinh tế vùng
26/09/2024 13:23 10.434 lượt xem
Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, cả hai quốc gia đều trải qua thời kỳ thuộc địa, chiến tranh và tái xây dựng trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn.
Giá vàngXem chi tiết

Giá vàng - Xem theo ngày

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81,600

83,600

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81,600

83,600

Vàng SJC 5c

81,600

83,620

Vàng nhẫn 9999

81,600

83,400

Vàng nữ trang 9999

81,500

83,000


Ngoại tệXem chi tiết
Tỷ giá - Xem theo ngày 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,153 25,483 26,041 27,469 31,401 32,736 158.95 168.19
BIDV 25,183 25,483 26,192 27,397 31,737 32,670 160.03 167.75
VietinBank 25,180 25,483 26,272 27,472 31,695 33,705 161.47 169.22
Agribank 25,210 25,483 26,181 27,385 31,604 32,695 160.79 168.44
Eximbank 25,170 25,483 26,272 27,228 31,706 32,816 161.8 167.71
ACB 25,190 25,483 26,288 27,190 31,818 32,778 161.82 168.21
Sacombank 25,210 25,483 26,231 27,206 31,686 32,853 161.86 168.91
Techcombank 25,222 25,483 26,070 27,413 31,464 32,808 158.16 170.62
LPBank 25,190 25,485 26,543 27,441 32,072 32,600 162.71 169.79
DongA Bank 25,220 25,483 26,310 27,150 31,740 32,770 160.10 167.80
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,50
2,70
3,50
3,70
4,40
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,80
2,90
3,20
4,20
4,30
4,90
5,00
Techcombank
0,05
-
-
-
3,10
3,10
3,30
4,40
4,40
4,80
4,80
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,20
4,20
4,20
5,30
5,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,90
3,90
4,10
5,55
5,70
5,80
6,10
Agribank
0,20
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
Eximbank
0,10
0,50
0,50
0,50
3,10
3,30
3,40
4,70
4,30
5,00
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?