Keywords: Cryptocurrency, Blockchain, Initial Coin Offering (ICO).
1. Tiền mã hóa trong nền kinh tế hiện đại
Có nhiều quan niệm về tiền mã hóa (cryptocurrency) hay còn gọi là tiền kĩ thuật số, tiền điện tử, tiền ảo.
Theo Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB, 2012), tiền ảo là một loại tiền kĩ thuật số, không được quản lí, giám sát và được phát hành, kiểm soát bởi nhóm phát triển phần mềm, được sử dụng và chấp nhận giữa các thành viên trong một cộng đồng ảo. Đến năm 2016, ECB đưa ra định nghĩa: Tiền ảo là sự hiển thị số của giá trị, không được phát hành bởi tổ chức tài chính hoặc tổ chức cung cấp dịch vụ tiền điện tử, trong vài trường hợp, tiền ảo có thể được sử dụng thay thế cho tiền.
Theo Lực lượng Đặc nhiệm tài chính quốc tế (FATF), tiền ảo là tiền đại diện số của giá trị, có thể được giao dịch bằng kĩ thuật số và hoạt động như một phương tiện trao đổi; một đơn vị tài khoản và/hoặc như phương tiện cất trữ giá trị nhưng không có tư cách pháp lí. Tiền ảo không được phát hành hoặc được đảm bảo bởi bất kì quốc gia, vùng lãnh thổ nào và chỉ thực hiện chức năng nêu trên theo thỏa thuận trong cộng đồng người dùng tiền ảo.
Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF, 2017), tiền ảo là biểu hiện số của giá trị, được phát hành bởi nhà phát triển tư nhân và được niêm yết theo đơn vị riêng; có thể được thu giữ, lưu trữ, tiếp cận và giao dịch trực tuyến; có thể sử dụng cho nhiều mục đích miễn là các bên giao dịch đồng ý sử dụng. Bao trùm hàng loạt các loại “tiền” từ công cụ nợ đơn giản có thể giao dịch (như thẻ điện thoại, sổ dặm bay) đến loại tiền được đối ứng bởi tài sản (vàng) và đến các loại tiền mã hóa.
Theo Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), tiền mã hóa và tiền tệ kĩ thuật số thể hiện các đặc điểm chính: (i) Là tài sản, nhưng không có giá trị nội tại; (ii) Sử dụng sổ cái phân tán để cho phép trao đổi ngang hàng giá trị điện tử; (iii) Không được vận hành bởi bất kì cá nhân hay tổ chức cụ thể nào.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, tiền mã hóa được coi là một trong những ứng dụng đầu tiên của Blockchain, được thiết kế để làm việc như một trung gian trao đổi, sử dụng mật mã để đảm bảo các giao dịch, để kiểm soát việc tạo ra các đơn vị bổ sung và để xác minh việc chuyển giao tài sản. Nếu như giá trị của tiền giấy được đảm bảo bởi Chính phủ phát hành thì đối với tiền mã hóa, giá trị của nó được tổ chức phát hành đảm bảo bằng việc cam kết sẽ chuyển đổi tiền mã hóa sang tiền giấy theo yêu cầu của người sở hữu.
Tiền mã hóa mang lại nhiều lợi ích hơn so với các đồng tiền truyền thống như giao dịch nhanh chóng, không có bên thứ 3 can thiệp với những ưu điểm nổi bật như sau:
Chi phí giao dịch tiền mã hóa là rất thấp. Vì là sản phẩm tài chính tương đối mới, chưa được công nhận rộng rãi bởi chính phủ các quốc gia, không có bên trung gian nào quản lí giao dịch bằng tiền mã hóa nên chi phí giao dịch là rất thấp, thậm chí bằng không.
Tiền mã hóa làm gia tăng tiện ích khi giao dịch. Với những hình thức gửi tiền thông thường hiện nay như qua ngân hàng hay dịch vụ thanh toán online (trung gian giao dịch), khách hàng sẽ bị giới hạn về lượng tiền chuyển và nhận về trong ngày, nhưng tiền mã hóa thì hoàn toàn không có sự ràng buộc này, có thể gửi tùy ý với số lượng không giới hạn ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, vào bất cứ thời gian nào.
Tiền mã hóa có tính bảo mật cao, mọi thông tin giao dịch tiền mã hóa đều được hiển thị trên Internet nhưng danh tính người giao dịch không xuất hiện, nên thông tin người dùng được bảo mật tốt.
Tiền mã hóa tạo tiềm năng phát triển cho ngành thương mại điện tử. Với nhiều tính năng ưu việt, tiền mã hóa đã và đang được sử dụng tại nhiều doanh nghiệp thương mại điện tử, tiết kiệm chi phí và nâng cao năng suất của hoạt động tài chính, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Tiền mã hóa không gây ô nhiễm môi trường như các loại tiền truyền thống. Tiền mã hóa tồn tại dưới dạng tài sản kĩ thuật số, không cần đến giấy, mực; hay in ấn như các đồng tiền thông thường nên không hề tác động tới môi trường.
Bên cạnh những ưu điểm, tiền mã hóa cũng tồn tại một số rủi ro cần lưu ý như sau:
Các giao dịch tiền mã hóa được đánh giá là có mức độ rủi ro khá cao. Do giá trị của đồng tiền mã hóa không dựa trên thông tin cơ sở nào, không được quản lí bởi các chính phủ và ngân hàng trung ương, không có dữ liệu để phân tích, mà hầu hết phụ thuộc theo xu hướng đầu tư của đám đông, nên trị giá tiền mã hóa biến động rất mạnh và bất ổn, điển hình là sự bất ổn của đồng Bitcoin trong thời gian vừa qua. Nhiều chuyên gia lo ngại Bitcoin sẽ trở thành một “bong bóng tài chính” nguy hiểm đối với nền kinh tế.
Tiền mã hóa không phải là hàng hóa và cũng không phải là tiền tệ thuần túy, không được bảo đảm hoặc sở hữu tài sản bảo đảm được cung cấp bởi bất kì chính phủ hoặc tổ chức nào. Chính vì thế, tiền mã hóa rất khó kiểm soát. Khi sai sót xảy ra, hệ thống phát sinh lỗi, giao dịch thất bại hoặc tiền mã hóa của nhà đầu tư bị hack thì không ai đứng ra xử lí và bảo vệ. Ngoài ra, tiền mã hóa có thể dễ dàng bị lợi dụng cho mục đích phạm tội, tính ẩn danh cung cấp bởi Blockchain và quá trình giao dịch giúp tội phạm lẩn trốn mà không để lại dấu vết. Cũng có những vụ lừa đảo sử dụng Bitcoin và các loại tiền mã hóa khác để gây quỹ khủng bố, mua công nghệ và các hoạt động tài chính phạm pháp.
Công nghệ tạo ra tiền mã hóa tiềm ẩn nhiều rủi ro chưa thể lượng hóa. Đầu tiên phải kể đến, rủi ro về an toàn bảo mật thông tin, mặc dù công nghệ Blockchain cung cấp sự an toàn trong giao dịch nhưng lại tiềm ẩn rủi ro đối với tài khoản và ví đựng tiền mã hóa. Bên cạnh đó, tiền mã hóa còn có rủi ro đối với sự an toàn mạng sử dụng Blockchain khi một đối tượng nào đó kiểm soát các thiết bị kết nối trong một khoảng thời gian. Hơn nữa, vì việc chuyển nhượng giá trị trong cơ chế Blockchain phát sinh bằng việc sử dụng cơ chế mã hóa, theo đó, các chủ thể tham gia đồng thuận cùng cập nhật lại trên sổ cái nên tiền mã hóa còn mang đến nguy cơ rủi ro về sự đồng thuận trong cộng đồng mạng. Trên thực tế, có nhiều cơ chế mã hóa được sử dụng để đạt được sự đồng thuận này. Nếu sự đồng thuận không đạt được vì một lí do nào đó thì sổ cái sẽ không được hoàn thiện và giao dịch chuyển nhượng sẽ không được thực hiện.
Tiền mã hóa có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến tài chính quốc gia nếu không được kiểm soát chặt chẽ. Theo các nhà kinh tế, đầu tư vào tiền mã hóa là bị phân quyền và thậm chí có thể rất nguy hiểm đến mức độ tài chính. Loại tiền tệ có thể trao đổi tự do mà không tốn phí hay các khoản thuế này có thể gây ra một biến động lớn. Đối với một số quốc gia, hệ thống thuế được dựa trên việc tiêu dùng và thu nhập của người dân thông qua việc thu thuế thu nhập và thuế giá trị gia tăng. Do đó, lưu hành tiền mã hóa sẽ làm gián đoạn dòng tiền và thu nhập của người dân. Điều này cũng có thể ảnh hưởng đến các khoản thu thuế của nhà nước, chính vì thế, các biện pháp quản lí giám sát là rất cần thiết để đảm bảo tiền mã hóa không tác động tiêu cực đến tài chính và ngân sách nhà nước. Hiện nay, bên cạnh một số quốc gia ủng hộ tiền mã hóa công khai thì có rất nhiều quốc gia vẫn chưa chấp nhận tiền mã hóa là một loại tiền tệ. Việt Nam vẫn chưa có quy định cụ thể về chính sách quản lí tiền mã hóa.
Qua các rủi ro tiềm ẩn của tiền mã hóa, có thể thấy rằng, việc quản lí và giám sát các hoạt động này là rất quan trọng và cần thiết đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng và toàn thế giới nói chung.
2. Kinh nghiệm quản lí tiền mã hóa của các nước trên thế giới
Trên thực tế, có rất nhiều ý kiến trái chiều về tiền mã hóa, đa số tiếp cận thận trọng với công cụ tài chính mới này.
Ở châu Á, Trung Quốc từng là một trung tâm giao dịch tiền mã hóa hàng đầu thế giới trước năm 2013. Tuy nhiên, sau đó Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) đã cấm các tổ chức tài chính xử lí các giao dịch Bitcoin, cấm các ICO và các sàn giao dịch tiền mật mã trong nước vào năm 2017. Đến tháng 6/2021, Chính phủ Trung Quốc đã cấm tất cả hoạt động khai thác tiền mật mã trong nước, cấm các sàn giao dịch tiền mã hóa và ICO, đồng thời chặn luôn việc truy cập vào các nền tảng giao dịch tiền mã hóa ở nước ngoài và ngừng cung cấp điện cho những thợ đào Bitcoin (tháng 9/2021). Tuy vậy, Trung Quốc hiện nay đang dẫn đầu thế giới về việc tăng cường kiểm soát thị trường tiền mã hóa.
Nhật Bản đóng vai trò dẫn đầu sau khi ra mắt hệ thống cấp quyền cho các sàn giao dịch tiền mã hóa trong năm 2017. Bitcoin được chấp nhận như một phương tiện thanh toán ở quốc gia này. Tuy nhiên, việc một sàn giao dịch của Nhật Bản bị tấn công vào cuối tháng 01/2018 đã khiến Cơ quan dịch vụ Tài chính (FSA) nước này phải chú trọng hơn tới việc giám sát. Gần đây, một tổ chức tự quản thị trường đã ra đời nhằm tăng cường an ninh và tính pháp lí của thị trường tiền mã hóa.
Hàn Quốc cũng từng là trung tâm giao dịch tiền mã hóa trong năm 2017, hiện đang tăng cường giám sát, nghiên cứu về một bộ quy định quản lí toàn diện cho thị trường tiền mã hóa.
Với Singapore, quốc gia này hiện vẫn xem tiền mã hóa là “một cuộc thử nghiệm”.
Ở Đài Loan, các cơ quan quản lí chấp nhận phương pháp chờ và theo dõi thị trường tiền mã hóa (waitand-see approach), trong khi ở Philippines, Chính phủ đã đưa ra quy định quản lí hoạt động ICO vào cuối năm 2020.
Ở Thái Lan, Chính phủ đã ban hành 02 Nghị định khẩn cấp (vào đầu năm 2018) liên quan đến hoạt động kinh doanh tài sản kĩ thuật số, trong đó có tiền mã hóa và Nghị định sửa đổi về Luật Thuế, trong đó có chính sách thuế liên quan đến giao dịch tài sản kĩ thuật số. Hai Nghị định này ra đời làm thay đổi tình trạng đầu tư của Thái Lan thông qua việc thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư vào lĩnh vực này. Theo các Nghị định trên, tài sản kĩ thuật số được chia làm hai loại: Tiền mã hóa (tài sản kĩ thuật số có mã thông báo tiện ích dùng để trao đổi hàng hóa với nhau) và xu hướng công nghệ kĩ thuật số (mã thông báo kĩ thuật số được bảo mật từ các nước châu Âu và Mỹ). Theo đó, để tiền mã hóa được hiện diện và giao dịch một cách hợp pháp, các nhà phát hành tiền mã hóa trong và ngoài nước phải thông qua cổng ICO của Thái Lan để được cấp phép phát hành, sau đó, các nhà đầu tư, thông qua cổng ICO sẽ mua được tiền mã hóa một cách hợp pháp. Hình thức này cũng giống như sàn giao dịch chứng khoán, ở đó có những môi giới hoặc những đại lí tương tự mô hình truyền thống của sàn chứng khoán. Với cách này, hoạt động mua bán, trao đổi tiền mã hóa của Thái Lan sẽ được kiểm soát và nhà nước Thái Lan có thể thu thuế cho các hoạt động này, nhằm đóng góp cho ngân sách nhà nước. Có rất nhiều loại tiền ảo trên thế giới, nhưng Thái Lan chỉ cho phép 07 loại tiền ảo được giao dịch, trong đó có Bitcoin. Đối với cá nhân, giao dịch tiền mã hóa thông qua cổng ICO chỉ được giới hạn ở mức 1.000 USD cho một lần giao dịch. Do có khung pháp lí điều chỉnh cụ thể, nên các nhà phát hành và đầu tư phải đảm bảo tuân thủ theo đúng quy định nếu không muốn bị áp dụng các hình phạt nặng như phạt tiền hoặc đi tù. Về chính sách thuế đối với các giao dịch về tiền mã hóa, Thái Lan phân biệt thuế đối với giao dịch giữa cá nhân với nhau và thuế đối với giao dịch kêu gọi vốn. Cụ thể, giao dịch tiền mã hóa giữa cá nhân với nhau được xem như hàng hóa và bị đánh thuế giá trị gia tăng, còn các giao dịch kêu gọi vốn thì sẽ bị đánh thuế nhà thầu.
Ở châu Âu, một số quốc gia cho rằng, tiền mã hóa không phải là tiền vì nó không mang tính chất truyền thống và chỉ là một dạng tiền của tư nhân (private currency). Đa số các nước châu Âu phủ nhận tính tiền tệ của tiền mã hóa vì không được nhà nước ban hành. Ví dụ, Thụy Sĩ xem tài sản mã hóa như một dạng voucher, ở Pháp thì xem như động sản vô hình. Tại Điều 1 Chỉ thị của Nghị viện châu Âu số 2018/843 ngày 30/5/2018 quy định tiền mã hóa là một dạng chuỗi kĩ thuật số có giá trị, nhưng không được phát hành hoặc bảo đảm bởi ngân hàng trung ương hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tiền mã hóa không có mối liên hệ với tiền pháp định, do đó tiền mã hóa không có giá trị pháp lí. Tuy nhiên, tiền mã hóa được chấp nhận như một phương thức thanh toán cho các giao dịch điện tử. Liên minh châu Âu (EU) rất quan tâm tới việc tìm phương án giải quyết các vấn đề rủi ro tiền mã hóa, các nhà hoạch định chính sách khối này lo ngại về tình trạng mất việc làm và giảm tăng trưởng kinh tế đối với các nền kinh tế khác nếu quản lí quá chặt về vấn đề đổi mới công nghệ. Cơ quan Thị trường Chứng khoán châu Âu (ESMA) đã đề xuất áp đặt các giới hạn lên các sản phẩm phái sinh có liên quan tới tiền mã hóa đối với các nhà đầu tư nhỏ lẻ, đồng thời xem xét cách thức áp dụng quy định MiFID II mới của EU cho các tài sản kĩ thuật số. Chính phủ Anh đang khởi động sáng kiến thành lập một lực lượng đặc nhiệm quản lí giám sát hoạt động giao dịch tiền mã hóa ở nước này. Mục đích là tạo ra một tổ chức trực thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm đánh giá rủi ro và lợi ích tiềm năng của tiền mã hóa. Sau khi rời khỏi EU, trong năm 2020, Anh chuyển các quy định 5AMLD và 6AMLD liên quan đến tiền mã hóa thành luật trong nước. Theo đó, các sàn giao dịch phải đăng kí hoạt động với FCA và tuân thủ các quy định phòng, chống rửa tiền/tài trợ khủng bố (AML/CFT). Tại Nga, từ tháng 01/2018 đã dự thảo luật, theo đó cấm thanh toán bằng tiền mã hóa, nhưng lại cho phép ICO và việc hoán đổi từ tiền mã hóa sang loại tiền truyền thống.
Tại Mỹ, ban đầu, phần lớn hoạt động giao dịch tiền mã hóa đều diễn ra ở những khu vực chưa rõ ràng về mặt pháp lí. Ủy ban Giao dịch Chứng khoán Mỹ (SEC) lập tức tiến hành điều tra mọi thứ liên quan tới tiền mã hóa, từ ICO cho tới các quỹ đầu tư và sàn giao dịch để có biện pháp kiểm soát thị trường này trong thời gian sớm nhất. Hiện nay, SEC coi tiền mã hóa như một loại chứng khoán và áp dụng luật chứng khoán một cách toàn diện cho các sàn giao dịch và ví kĩ thuật số. Sàn giao dịch tiền mã hóa được coi là hợp pháp và được điều chỉnh bởi Đạo luật Bảo mật Ngân hàng (BSA). Mạng lưới thực thi tội phạm tài chính (FINCEN) triển khai các biện pháp giám sát giao dịch trên thị trường, triển khai chương trình chống rửa tiền/tài trợ khủng bố (AML/CFT). Theo đó, các nhà cung cấp dịch vụ giao dịch tiền mã hóa phải đăng kí với FINCEN, lưu trữ lịch sử giao dịch và gửi báo cáo cho các cơ quan có thẩm quyền; cơ quan thuế (IRS) ban hành hướng dẫn về thuế cho các giao dịch trên thị trường này. Các quy định về quản lí tiền mã hóa đã dần được bổ sung cập nhật trong Đạo luật Bảo mật Ngân hàng và các văn bản liên quan khác, theo đó, từ tháng 6/2019, FINCEN yêu cầu các sàn giao dịch tiền mã hóa tuân thủ quy định “Travel rule”, thu thập và chia sẻ thông tin về những người khởi tạo, người thụ hưởng trong các giao dịch tiền mã hóa. Đến tháng 12/2020, FINCEN đã đề xuất một quy định mới về tiền mã hóa liên quan đến việc thu thập dữ liệu đối với các ví và sàn giao dịch. Quy định sẽ yêu cầu các sàn giao dịch gửi báo cáo hoạt động đáng ngờ (SAR) cho các giao dịch trên 10.000 USD và yêu cầu chủ sở hữu ví xác định danh tính khi gửi hơn 3.000 USD trong một giao dịch. Bộ Tư pháp tiếp tục phối hợp với Ủy ban Chứng khoán để xây dựng các quy định đối với tiền mã hóa nhằm bảo vệ người tiêu dùng và có các quy định phù hợp, chặt chẽ hơn. Trong năm 2021, Quốc hội đã thảo luận các vấn đề liên quan đến các nhà cung cấp dịch vụ tiền mã hóa với các quy tắc mới được đưa vào dự luật cơ sở hạ tầng của Chính phủ. Theo quy định mới, các sàn giao dịch được coi là nhà môi giới và phải tuân thủ các nghĩa vụ báo cáo và lưu trữ hồ sơ AML/CFT có liên quan. Đầu năm 2023, Chính phủ đưa ra lộ trình giảm thiểu các rủi ro liên quan đến tiền mã hóa và tăng cường sự giám sát thông qua các cơ quan liên quan như Công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC), Cục Dự trữ liên bang (Fed) và Văn phòng Kiểm soát tiền tệ (OCC).
Ở Canada, các cơ quan quản lí cho biết, ICO có thể được xem như là chứng khoán và các sản phẩm có liên quan tới tiền kĩ thuật số cần được lưu ý có rủi ro cao. Thêm vào đó, các sàn giao dịch chứng khoán nước này trở thành lựa chọn phổ biến cho các cổ phiếu và quỹ ETF có liên quan tới tiền mã hóa.
Theo IMF, tiền mã hóa có thể gây ra rủi ro và cơ bản công nghệ đằng sau nó có thể là giải pháp để giảm thiểu rủi ro. IMF đề xuất, các giải pháp giảm thiểu rủi ro sẽ mang hình thức công nghệ sổ cái phân tán hoạt động như một chuỗi Blockchain cho phép các tổ chức tài chính và các nhà quản lí điều phối cùng với sinh trắc học và trí tuệ nhân tạo nhằm cải thiện an ninh số và xác định hành vi đáng ngờ. Ngân hàng Thế giới (WB) đang hết sức thận trọng xem xét công nghệ Blockchain - nền tảng công nghệ sử dụng “sổ cái phân tán” cho phép giao dịch các tài sản số một cách an toàn. Công nghệ này được kì vọng có thể áp dụng tại các quốc gia đang phát triển để theo dõi dòng tiền hiệu quả hơn và giảm nạn tham nhũng.
3. Một số khuyến nghị chính sách trong quản lí tiền mã hóa tại Việt Nam
Ở Việt Nam, tiền mã hóa bắt đầu xuất hiện từ năm 2011 bằng việc một số cá nhân thực hiện việc đầu tư Bitcoin trên các sàn giao dịch quốc tế. Nhưng từ đó đến nay, Việt Nam chưa có quy định hay khung pháp lí riêng để quản lí việc giao dịch tiền mã hóa từ phía Chính phủ. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) không công nhận tiền mã hóa là phương tiện thanh toán; Bộ Công Thương không công nhận tiền mã hóa là một loại hàng hóa hay dịch vụ; Bộ Tư pháp không công nhận tiền mã hóa là một loại tài sản. Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng chưa có quy định cụ thể về tài sản ảo, tài sản điện tử; luật pháp về ngân hàng, về tổ chức tín dụng cũng chưa có quy định quản lí phương tiện thanh toán điện tử này. Theo NHNN khuyến cáo, việc sử dụng Bitcoin làm phương tiện thanh toán không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Mặc dù không được thừa nhận, nhưng một số loại tiền mã hóa trên thế giới như Bitcoin, Ethereum, Litecoin và Ripple... đều đã xuất hiện và có những giao dịch tại Việt Nam. Nó đã và đang trở thành một loại tài sản, phương tiện thanh toán, công cụ đầu tư, phương thức huy động vốn tại Việt Nam. Thống kê của Statista 2022 cho thấy, Việt Nam xếp hạng 7/10 quốc gia về tỉ lệ sử dụng hoặc sở hữu tiền mã hóa. Người dùng ở Việt Nam liên tiếp đứng hạng 1 trong xếp hạng về mức độ chấp nhận sử dụng tiền mã hóa theo báo cáo của Chainalysis (2022). Chính vì chưa có khuôn khổ pháp lí đầy đủ đối với tiền mã hóa nên đã có nhiều bất cập xảy ra liên quan đến các hoạt động giao dịch tiền mã hóa, đặc biệt là các hành vi lừa đảo gây tổn hại cho người tiêu dùng tài chính.
Để quản lí giám sát hiệu quả tiền mã hóa ở Việt Nam, cần triển khai thực hiện một số nội dung sau:
Thứ nhất, cần xác định rõ tiền mã hóa là gì? Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì tiền mã hóa có được xem là hàng hóa hay không để có thể giao dịch và tiến hành thu thuế cho các giao dịch đó? Liệu tiền mã hóa có thể coi là tiền hay một loại tài sản tài chính không? Liệu tiền mã hóa có được xem như một phương tiện thanh toán hay không? Trả lời được các câu hỏi trên sẽ đưa ra được chính sách phân định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lí, giám sát chuyên ngành phù hợp.
Thứ hai, dù công nhận tiền mã hóa là hàng hóa hay là một tài sản tài chính, cần có những nghiên cứu toàn diện và khoa học để có cơ chế giám sát chặt chẽ, hỗ trợ bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư, dần dần khắc phục các nhược điểm và đẩy mạnh khai thác những ưu điểm của tiền mã hóa, phát triển thành công cụ hữu hiệu cho nền tài chính thời đại mới, bắt kịp tốc độ công nghiệp hóa của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thứ ba, nên tận dụng thế mạnh của công nghệ đằng sau tiền mã hóa thay vì tập trung nhiều vào việc thắt chặt quá mức cần thiết loại tiền này. Công nghệ Blockchain mang lại nhiều lợi thế cho hệ thống tài chính, đặc biệt là đối với hệ thống thanh toán.
Thứ tư, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tăng cường các biện pháp quản lí, giám sát đối với các giao dịch liên quan tới tiền mã hóa xuyên biên giới.
Cuối cùng, cần có khung pháp lí hoàn thiện chỉ định rõ ràng, giúp doanh nghiệp và người dân có cái nhìn đầy đủ hơn về tiền mã hóa và công nghệ Blockchain.
Từ việc xem xét kinh nghiệm của các nước trên thế giới và thực tiễn Việt Nam thời gian qua cho thấy: Việc thừa nhận tiền mã hóa là điều thật sự cần thiết trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập toàn cầu và đối diện với nền công nghiệp 4.0. Nhưng thừa nhận ở mức độ nào và xây dựng khung pháp lí như thế nào để kiểm soát và quản lí nó một cách hiệu quả mới là điều mà chúng ta quan tâm. Mặc dù không có chức năng thanh toán, nhưng tiền mã hóa có thể được giao dịch như một loại chứng khoán theo mô hình của Thái Lan, để từ đó Nhà nước có thể quy định điều kiện phát hành, tham gia đầu tư, mua bán trao đổi tiền mã hóa trên các sàn giao dịch. Thu nhập có được từ hoạt động đầu tư tiền mã hóa sẽ được đánh thuế thu nhập cá nhân hoặc thu nhập doanh nghiệp, tùy vào chủ thể tham gia. Từ đó, Nhà nước có thể kiểm soát tốt các giao dịch liên quan đến loại tài sản đặc biệt này, góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước, bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân. Bằng cách đó, Nhà nước cũng có thể kiểm soát, ngăn ngừa và hạn chế tối đa việc sử dụng tiền mã hóa cho các hoạt động phi pháp như tài trợ khủng bố, rửa tiền, lừa đảo…
4. Kết luận
Dưới góc độ kinh tế hay dưới góc độ kĩ thuật, cho đến nay, tiền mã hóa vẫn tồn tại và giao dịch mua bán, trao đổi tiền mã hóa vẫn đang diễn ra rất sôi động trên thế giới. Thực tế cho thấy, trên các sàn giao dịch quốc tế về tiền mã hóa, Việt Nam lại nằm trong số 10 quốc gia giao dịch về tiền mã hóa nhiều nhất trên thế giới. Tiền mã hóa hiện đang là cơn sốt cho giới tài chính nói riêng và cho toàn nền kinh tế nói chung. Bên cạnh những ích lợi, tiền mã hóa còn tiềm ẩn những rủi ro có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thế giới, do vậy, cần có phương pháp quản lí, giám sát đúng đắn để không những phòng ngừa rủi ro mà còn khai thác hiệu quả tiềm năng của các công cụ tài chính thời đại mới này, góp phần phát triển nền kinh tế, làm tiền đề đẩy mạnh tiến độ hoàn thành Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Tài liệu tham khảo:
1. Chainalysis (2022), The 2022 Geography of Cryptocurrency Report. https://blog.chainalysis.com/reports/2022-global-crypto-adoption-index/
2. FINMA (2018), Guidelines for enquiries regarding the regulatory
framework for initial coin offerings (ICOs).
3. Kharpal Arjun (2018), “There’s a $799 hack-proof smartphone designed to keep your cryptocurrencies safe”, CNBC, https://www.cnbc.com/2018/02/27/sikur-cryptocurrency-wallet-martphone.html
4. White Adam (16/12/2017), GDAX’s White Sees growing Interest in Digital Currencies, Bloomberg Technology.
5. Möbert Jochen, Bitcoin: Myths, misconceptions and misunderstandings, 09/02/2018, EU Monitor Global financial markets, Deutsche Bank research.
6. Mark Gates (2018). Bản chất của Blockchain, Bitcoin, hợp đồng thông minh và tương lai của tiền tệ. NXB Lao động.
7. TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2018). Bitcoin và những vấn đề đặt ra. Tạp chí Tài chính. http://m.tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binhluan/bitcoin-va-nhung-van-de-dat-ra-142519.html
8. Võ Hữu Phước, TS. Võ Thị Quý (2017). Tiền ảo Bitcoin và một số khuyến nghị chính sách quản lý tại Việt Nam. Tạp chí tài chính. http://m.tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/tien-ao-bitcoin-va-motso-khuyen-nghi-chinh-sach-quan-ly-tien-ao-o-vietnam-128885.html
9. Các nước đang quản lý tiền kỹ thuật số như thế nào? (2018). https://vietstock.vn/2018/03/cacnuoc-dang-quan-ly-tien-ky-thuat-so-nhu-thenao-4309-589059.htm
10. Việt Nam: Chính phủ "mạnh tay với tiền ảo". (2018). https://www.bbc.com/vietnamese/business-43754321
PGS., TS. Lê Thị Kim Nhung và ThS. Nguyễn Lê Đức
Trường Đại học Thương mại