1. Đặt vấn đề
Sự phát triển mạnh mẽ của các hình thức kinh doanh quốc tế đã chứng tỏ vai trò quan trọng của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Hoạt động kinh doanh quốc tế tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia chủ động và tích cực vào sự phân công lao động quốc tế, giúp nền kinh tế quốc gia trở thành một hệ thống mở, tạo cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển sâu rộng như hiện nay, Việt Nam đã và đang khẳng định vị thế là nước đi đầu trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế tại khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, giữa xu hướng thay đổi hoạt động kinh doanh quốc tế với tác động lớn từ xung đột chính trị, mối lo về suy thoái kinh tế, rủi ro tài chính và an ninh năng lượng… đòi hỏi Việt Nam cần phải làm rõ được những hạn chế, khó khăn trong hoạt động kinh doanh quốc tế, từ đó đưa ra những giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh quốc tế phát triển hiệu quả, bền vững.
2. Thực trạng hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam
Trong môi trường hội nhập quốc tế, làn sóng kí kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) đang trở nên mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu và là xu thế mà các quốc gia không thể đứng ngoài cuộc. Các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương đã mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế - xã hội nói chung và hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam nói riêng. Đến tháng 12/2023, Việt Nam đã chính thức kí kết thực hiện 16 FTA và đều đã có hiệu lực. Mặc dù tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2023 đạt 683 tỉ USD, giảm 6,6% so với năm 2022, song hoạt động xuất, nhập khẩu vẫn đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và tích lũy quốc gia, tạo ra nhiều việc làm, tăng nhanh thu nhập trong ngành kinh doanh quốc tế qua các hoạt động như ngoại thương, dịch vụ logistics/hậu cần, thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại...
Trong năm 2022, kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước kí Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đạt 104,5 tỉ USD, tăng 14,3% so với năm 2021; trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước của Hiệp định CPTPP đạt 53,6 tỉ USD, tăng 17,3% so với năm 2021, kim ngạch nhập khẩu đạt 50,9 tỉ USD, tăng 11,3% so với năm 20211. Tỉ lệ sử dụng Giấy chứng nhận xuất xứ từ các nước thuộc CPTPP (C/O CPTPP) của hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam năm 2022 tiếp tục tăng trưởng tích cực và tăng đáng kể so với năm 2021. Cụ thể, C/O CPTPP thủy sản tăng 41,7%; giày, dép tăng 51,7%; dệt may tăng 185,2%; cà phê tăng 140,1%; rau quả tăng 62,32%; hạt điều tăng 39,4%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 23,5%; máy móc và thiết bị tăng 152,3%2. Năm 2023, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường các nước thuộc CPTPP mặc dù có suy giảm nhưng vẫn có xuất siêu. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường các nước thuộc CPTPP năm 2023 đạt 2,4 tỉ USD, đây là nhóm thị trường có tỉ trọng tăng trưởng lớn thứ 2 sau Trung Quốc. Nếu như năm 2018, nhóm thị trường các nước thuộc CPTPP chỉ chiếm 25% xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, tới năm 2023 con số này chiếm gần 27%3.
Theo báo cáo thống kê của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trong số 50 quốc gia có giao dịch thương mại lớn nhất thế giới năm 2022, Việt Nam là nền kinh tế có sự vươn lên mạnh mẽ nhất trong bảng xếp hạng thế giới về thương mại hàng hóa4. Nguyên nhân do Việt Nam đang tham gia ngày càng tích cực hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu (Global Value Chain - GVC), đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất, giúp giải quyết việc làm, dự trữ ngoại hối và cải thiện đời sống dân cư. Có thể nói, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, đặc biệt là khi Việt Nam tham gia kí kết nhiều FTA với các nước đối tác, đã đem lại nhiều cơ hội lớn cho các doanh nghiệp nội địa có bước chuyển mình, nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, sự gia tăng này lại chủ yếu là liên kết sau (chiếm 45%), trong khi liên kết trước chỉ chiếm 11%, nên giá trị gia tăng đem lại vẫn chưa thực sự lớn5.
Từ khi gia nhập WTO, Việt Nam đã thực hiện các cam kết như tự do hóa quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu; xóa bỏ các hạn chế xuất, nhập khẩu; xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu gây bóp méo cạnh tranh; giảm thiểu sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp; tăng cường các cam kết mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ; minh bạch hóa chính sách..., hệ thống pháp luật của Việt Nam đã và đang tiếp tục được hoàn thiện theo hướng ngày càng trở nên rõ ràng, minh bạch hơn, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, linh hoạt.
3. Một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam
Kinh doanh quốc tế là hoạt động có yếu tố nước ngoài với quy mô đa quốc gia, vì vậy ở Việt Nam, hoạt động này vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như:
Thứ nhất, trình độ, năng lực điều hành, quản lí kinh tế của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp chưa có tầm nhìn và chiến lược mang tính lâu dài, bền vững; chỉ chú trọng đến hiện tại mà chưa đầu tư, phân tích năng lực nội tại cũng như nghiên cứu môi trường kinh doanh bên ngoài để thiết lập kế hoạch phát triển cụ thể. Từ đó, doanh nghiệp không thể khai thác và tận dụng những lợi thế cạnh tranh dài hạn trong quá trình hoạt động kinh doanh và bỏ lỡ các cơ hội trong lĩnh vực kinh doanh toàn cầu. Công tác quản lí, đào tạo, nuôi dưỡng nhân tài của doanh nghiệp còn lỏng lẻo, nhiều doanh nghiệp không có kế hoạch cụ thể, mạch lạc để thu hút, đào tạo và phát triển nhân tài trong nội bộ và cả bên ngoài tổ chức, điều này gây nhiều khó khăn khi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào thị trường Việt Nam.
Thứ hai, chiến lược kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp chưa toàn diện, cụ thể, chưa tận dụng được hết lợi ích của kinh doanh quốc tế để tăng nguồn lực phát triển kinh tế, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do chưa xây dựng được một chiến lược kinh doanh quốc tế với lộ trình cụ thể, phù hợp với điều kiện chung của đất nước nên định hướng phát triển bền vững, sáng tạo trong quá trình kinh doanh quốc tế tại một số khâu, giai đoạn còn chưa được triển khai đồng bộ. Trong một số trường hợp, hoạt động kinh doanh quốc tế còn bị động, chưa có cơ sở khoa học, thực tiễn phù hợp với thực trạng phát triển đất nước, chưa phát huy được đầy đủ các hiệu quả và lợi ích mà hoạt động này mang lại.
Thứ ba, quá trình tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh doanh quốc tế chưa thực sự đồng bộ. Kinh doanh quốc tế đòi hỏi phải có sự phối hợp thường xuyên giữa các bộ, ban, ngành, giữa các cơ quan quản lí nhà nước và doanh nghiệp, cộng đồng, sự phối hợp, triển khai đồng bộ từ cấp Trung ương đến địa phương. Tuy nhiên thời gian qua, một bộ phận đầu mối về kinh doanh quốc tế tại một số bộ, ban, ngành và địa phương vẫn chưa thực sự chú trọng đến khâu phối hợp và tham vấn với các chương trình hành động. Chính vì vậy, việc triển khai công tác hội nhập đã không đạt được kết quả như mong muốn. Bên cạnh đó, khi xây dựng các kế hoạch, đề án, chương trình hành động về kinh doanh quốc tế, một số đầu mối về kinh doanh quốc tế tại các bộ, ban, ngành, địa phương còn thiếu kế hoạch, đề án cụ thể. Do thực hiện các quy định về cơ chế giám sát, theo dõi, đánh giá chưa thực sự đồng bộ, nên việc tổng hợp đầy đủ, kịp thời cũng như đánh giá kết quả của hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam vẫn chưa đáp ứng kì vọng.
Thứ tư, mỗi quốc gia, mỗi khu vực và mỗi nền kinh tế khác nhau đều chịu sự tác động và quản lí bởi yếu tố kinh tế và văn hóa kinh doanh khác nhau. Sự khác nhau còn xuất hiện ở tốc độ phát triển kinh tế của từng khu vực, từng lĩnh vực. Chính vì vậy, các chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh quốc tế trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng khó có thể tránh khỏi những rắc rối khi tiếp cận cũng như làm việc trong những môi trường kinh doanh khác nhau. Hơn nữa, sự khác biệt giữa ngôn ngữ, tôn giáo, vị trí địa lí và văn hóa ứng xử là những yếu tố gây không ít rào cản cho hoạt động kinh doanh quốc tế.
Thứ năm, hiện nay, hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam đa phần liên quan đến FTA, tuy nhiên rất nhiều doanh nghiệp chưa nắm bắt được đầy đủ thông tin về FTA, từ đó, không xác định được các tác động trực tiếp của FTA lên các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc không hiểu rõ những thông tin cần thiết khiến doanh nghiệp không có sự chuẩn bị tốt nhất trong quá trình hội nhập. Nhiều doanh nghiệp vẫn đang phát triển theo chiều rộng nhưng chưa chú trọng cải thiện về chất lượng sản phẩm cũng như chiều sâu trong công tác quản lí. Hơn nữa, xu hướng toàn cầu hóa khiến thị trường tiêu thụ hàng hóa trong nước phải đối mặt gay gắt với các mặt hàng nhập khẩu có chất lượng, thương hiệu và giá cả cạnh tranh hơn từ các nước đối tác FTA. Điều này gây ra nhiều thách thức và khó khăn đối với hàng hóa của các nhà sản xuất trong nước. Nguồn lực của doanh nghiệp Việt Nam như vốn, chất lượng nguồn lao động, trình độ khoa học kĩ thuật, ứng dụng công nghệ, trình độ ngoại ngữ… còn nhiều hạn chế. Từ đó khiến việc quản lí, vận hành của nhiều doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả như kì vọng, năng suất và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung còn ở mức thấp.
4. Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam
Trong bối cảnh mới hiện nay, việc hoàn thiện các giải pháp để phát triển hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam là điều rất cần thiết, do đó, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục quán triệt và thể chế hóa kịp thời, đầy đủ những chủ trương, định hướng của Đảng, ban hành kịp thời các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh quốc tế; kịp thời điều chỉnh, tháo gỡ hạn chế, bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật về đầu tư kinh doanh. Bên cạnh đó, cần đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác tuyên truyền, kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật; phòng ngừa, giải quyết kịp thời các tranh chấp thương mại, các kiến nghị, phản ánh, khiếu nại của nhà đầu tư. Xử lí kịp thời những vướng mắc, bất cập, tạo môi trường kinh doanh quốc tế thuận lợi, công khai, minh bạch và thông thoáng, tiếp tục thể chế hóa, nội luật hóa các cam kết quốc tế, đặc biệt là đối với các FTA.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả công tác phân tích, dự báo chiến lược và đánh giá rủi ro hệ thống, đáp ứng được việc xử lí những tình huống phức tạp phát sinh. Nhận diện sớm các động thái, xu hướng phát triển lớn của thế giới, từ đó có sự điều chỉnh đúng đắn trong chiến lược phát triển, tận dụng triệt để những cơ hội mới mở ra trong quá trình hội nhập quốc tế. Tăng cường đầu tư vào khoa học công nghệ để hiện đại hóa và đồng bộ hóa công nghệ kĩ thuật số. Nguồn nhân lực để phục vụ cho hoạt động kinh doanh quốc tế cần được đầu tư và đào tạo bài bản, nâng cao kĩ năng sử dụng công nghệ, ngoại ngữ, đồng thời có thể ứng biến với mọi tình huống xảy ra trong hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, tiếp tục triển khai nhiều hơn nữa các hoạt động kết nối doanh nghiệp Việt Nam với đối tác tại thị trường nước ngoài; làm tốt công tác marketing; tăng cường hỗ trợ cho doanh nghiệp tham gia các hội chợ chuyên ngành tại thị trường nước ngoài… Tăng cường hơn nữa sự hợp tác chặt chẽ từ phía các chủ thể kinh doanh Việt Nam tại nước ngoài trong việc cung cấp thông tin cập nhật về thị trường nước sở tại, các rào cản kĩ thuật, cảnh báo sớm nguy cơ bị áp đặt, kiện chống bán phá giá, các chương trình ưu đãi về đầu tư, thương mại mà chính quyền sở tại có thể dành cho Việt Nam. Tiếp tục tăng cường trao đổi thông tin về nhu cầu xuất, nhập khẩu của doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài. Các chủ thể kinh doanh tại thị trường nước ngoài cần phối hợp trong công tác quản lí nhà nước về tổ chức tham gia hội chợ triển lãm thương mại tại nước ngoài, hỗ trợ quảng bá các sự kiện xúc tiến thương mại tổ chức tại Việt Nam, các hội chợ chuyên ngành lớn, các chương trình quảng bá thương hiệu quốc gia, thương hiệu sản phẩm.
Thứ tư, tiếp tục phổ biến, tuyên truyền về các FTA thế hệ mới một cách chi tiết với các nội dung được xây dựng theo hướng gắn sát thực tiễn, ngắn gọn, phù hợp với mối quan tâm của từng nhóm đối tượng doanh nghiệp cụ thể. Các chương trình, hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp cần tập trung vào các hoạt động thực chất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, xúc tiến thương mại ở tầm quốc gia một cách hệ thống, nhất là ở các thị trường mới, cập nhật thông tin thị trường và kết nối cung - cầu. Các hoạt động này cũng cần được thiết kế theo các nhóm đối tượng riêng, ưu tiên đặc biệt dành cho các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ. Đề cao vai trò của doanh nghiệp, xác định doanh nghiệp là chủ thể trung tâm trong các hoạt động kinh tế đối ngoại thông qua việc tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và xuất, nhập khẩu hàng hóa; đặc biệt là định hướng, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra thị trường nước ngoài để tiếp cận công nghệ tiên tiến, tiếp thu kinh nghiệm quản lí và đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc nhằm thay đổi tầm nhìn, kĩ năng lao động6. Tổ chức định kì hằng quý các hội nghị xúc tiến thương mại với các thị trường ngoài nước nhằm hỗ trợ, đồng hành cùng các địa phương, các ngành kinh tế và doanh nghiệp giảm thiểu khó khăn, chủ động xây dựng chiến lược và thực hiện các biện pháp phát triển kinh doanh quốc tế phù hợp trong những điều kiện thị trường mới. Tạo cơ hội cho các hiệp hội ngành hàng trao đổi về khó khăn, thuận lợi, đề xuất nhu cầu hỗ trợ và các sáng kiến liên quan đến việc thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại, xuất, nhập khẩu với các thị trường nước ngoài.
Thứ năm, tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, ban hành các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin thương mại thông qua phát triển hệ thống thông tin thị trường, tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại, tăng cường công tác phân tích, dự báo thị trường, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, qua đó hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp, hiệu quả chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị hàng hóa toàn cầu. Tăng cường công tác cảnh báo các quy định về rào cản và những vấn đề phát sinh đối với hàng hóa xuất khẩu. Các doanh nghiệp cần tìm hiểu kĩ về cam kết trong các FTA, nhất là FTA thế hệ mới; tìm hiểu kĩ về thị trường các nước thành viên FTA. Chủ động đối phó với các biện pháp phòng vệ thương mại như: Thường xuyên trao đổi thông tin với đối tác nhập khẩu; cập nhật thông tin cảnh báo sớm; tham gia, phối hợp tích cực với cơ quan điều tra, từ đó, chủ động sử dụng biện pháp phòng vệ thương mại. Đồng thời, nâng cao năng lực cạnh tranh, thông qua áp dụng các tiêu chuẩn kĩ thuật, tuân thủ quy định của thị trường đối tác; áp dụng công nghệ vào sản xuất, quản lí, xây dựng chiến lược, lựa chọn khách hàng, lựa chọn thị trường. Ngoài ra, liên kết và hợp tác trong kinh doanh, qua đó thu lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp từ quá trình này cũng là điều cần chú ý. Đồng thời, thay vì những nỗ lực đơn lẻ, kém hiệu quả, doanh nghiệp cần tăng cường hợp tác để vận động chính sách, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, qua đó phát huy sức sáng tạo và hội nhập quốc tế thành công.
Thứ sáu, các doanh nghiệp buộc phải am hiểu thị trường, hành vi tiêu dùng của khách hàng để đưa ra các sản phẩm, chiến lược marketing phù hợp. Doanh nghiệp cần chủ động tham khảo dịch vụ tư vấn, giải pháp từ các chuyên gia đã có kinh nghiệm trên thị trường để có được hỗ trợ về chiến lược, thuế, marketing... phù hợp từng thị trường, qua đó hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh quốc tế. Đặc biệt các doanh nghiệp cần chú trọng ứng dụng mô hình kinh doanh mới như mô hình kinh tế chia sẻ, mô hình kinh doanh liên kết… cùng sự trợ giúp của công nghệ để tinh chỉnh kế hoạch kinh doanh và nắm bắt nhu cầu thị trường có nhiều biến động trong bối cảnh hiện nay.
5. Kết luận
Trước những thách thức và cơ hội đang mở ra cho hoạt động kinh doanh quốc tế, Việt Nam cần ưu tiên chú trọng phát triển, lấy hoạt động kinh doanh quốc tế làm động lực thúc đẩy phát triển đất nước. Xu hướng thế giới phẳng và sự phát triển vũ bão của công nghệ đã đặt ra yêu cầu thay đổi trong hoạt động kinh doanh quốc tế của Việt Nam, trước hết là phải ứng dụng triệt để các tiến bộ công nghệ, phát triển các mô hình kinh doanh mới, phù hợp với trật tự kinh tế mới, đồng thời luôn nâng cao tính kết nối và thích ứng trong môi trường quốc tế hết sức đa dạng trong hiện tại và tương lai.
1 Hương Nguyễn (2023), Kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và các thị trường khối CPTPP tăng trưởng tích cực, Bộ Công Thương Việt Nam, https://moit.gov.vn/tin-tuc/thi-truong-nuoc-ngoai/kim-ngach-thuong-mai-giua-viet-nam-va-cac-thi-truong-khoi-cptpp-tang-truong-tich-cuc.html
2 Lê Vân (2023), Trị giá kim ngạch xuất khẩu có sử dụng C/O ngày càng cao, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, https://kinhtevadubao.vn/tri-gia-kim-ngach-xuat-khau-co-su-dung-co-ngay-cang-cao-27891.html
3 Tú Chi (2024), Khối thị trường CPTPP chiếm 27% xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, Tạp chí điện tử Thương hiệu và Pháp luật, https://thuonghieuvaphapluat.vn/khoi-thi-truong-cptpp-chiem-27-xuat-khau-thuy-san-cua-viet-nam-d64999.html
4 Nguyễn Minh Phong (2022), Dấu ấn Việt Nam sau 15 năm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, https://tapchinganhang.gov.vn/dau-an-viet-nam-sau-15-nam-gia-nhap-to-chuc-thuong-mai-the-gioi.html
5 Nguyễn Văn Tiến (2021), Kinh doanh quốc tế - Chuyên ngành phát triển bền vững, https://tapchinganhang.gov.vn/kinh-doanh-quoc-te-chuyen-nganh-phat-trien-ben-vung.html
6 Phương Diệp (2021), Hội nghị Đối ngoại toàn quốc: Nâng cao tư duy đối ngoại trong phát triển kinh tế, https://www.vietnamplus.vn/hoi-nghi-doi-ngoai-nang-cao-tu-duy-doi-ngoai-trong-phat-trien/760755.vnp
Tài liệu tham khảo:
1. Bảo Châu (2023), Thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, Tuyên giáo, https://www. tuyengiao.vn/thuc-day-xuat-khau-hang-hoa-cua-viet-nam-151699
2. Bộ Công Thương (2021), Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam 2020.
3. Hoàng Hiếu Thảo (2018), Thực trạng hoạt động kinh doanh quốc tế của Vinamilk, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thuc-trang-hoat-dong-tham-gia-kinh-doanh-quoc-te-cua-cong-ty-vinamilk-28859.html
4. Hương Nguyễn (2023), Kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và các thị trường khối CPTPP tăng trưởng tích cực, Bộ Công Thương Việt Nam, https://moit.gov.vn/tin-tuc/thi-truong-nuoc-ngoai/kim-ngach-thuong-mai-giua-viet-nam-va-cac-thi-truong-khoi-cptpp-tang-truong-tich-cuc.html
5. Lê Vân (2023), Trị giá kim ngạch xuất khẩu có sử dụng C/O ngày càng cao, https://kinhtevadubao.vn/tri-gia-kim-ngach-xuat-khau-co-su-dung-co-ngay-cang-cao-27891.html
6. Nguyễn Hạnh (2023), Xuất siêu liên tiếp giúp ổn định tỉ giá và các chỉ số kinh tế vĩ mô!, Báo Công Thương, https://tapchitaichinh.vn/chu-dong-buoc-vao-san-choi-hoi-nhap.html
7. Nguyễn Văn Tiến (2021), Kinh doanh quốc tế - Chuyên ngành phát triển bền vững, https://
tapchinganhang.gov.vn/kinh-doanh-quoc-te-chuyen-nganh-phat-trien-ben-vung.html
8. Phương Diệp (2021), Hội nghị Đối ngoại toàn quốc: Nâng cao tư duy đối ngoại trong phát triển kinh tế, https://www.vietnamplus.vn/hoi-nghi-doi-ngoai-nang-cao-tu-duy-doi-ngoai-trong-phat-trien/760755.vnp
9. Trung tâm WTO và Hội nhập Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2022), Xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường CPTPP tăng trưởng dương, https://trungtamwto.vn/chuyen-de/20302-xuat-khau-cua-viet-nam-sang-cac-thi-truong-cptpp-tang-truong-duong
10. Tú Chi (2024), Khối thị trường CPTPP chiếm 27% xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, Tạp chí điện tử Thương hiệu và Pháp luật, https://thuonghieuvaphapluat.vn/khoi-thi-truong-cptpp-chiem-27-xuat-khau-thuy-san-cua-viet-nam-d64999.html
11. Vũ Văn Hiền (2019), Đổi mới tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quan-triet-va-thuc-hien-nghi-quyet-ai-hoi-xii-cua-ang/-/2018/54702/doi-moi-tu-duy-ve-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te.aspx
12. Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Tuyên truyền về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) cho các công đoàn cơ sở, https://baria-.gov.vn/sphere/baria/vungtau/page/print.cpx?uuid=5b9094545256891b87b81ef3
ThS. Lê Thị Khánh Hòa