Khi các đồng tiền kỹ thuật số như Bitcoin, Libra, JPM Coin, SBI Coin được sử dụng trong trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ trong thanh toán chuyển tiền toàn cầu, đủ lớn tạo ra hệ thống ngân hàng ngầm (trên mạng), chúng sẽ đe dọa hệ thống thanh toán quốc gia hay chuyển tiền quốc tế; lấn át việc kiểm soát tiền trong lưu thông của các NHTW...
Ảnh minh họa: Nguồn Internet
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương (Central Bank Digital Currency - CBDC) là một thuật ngữ chưa được định nghĩa một cách thống nhất1 do đặc tính, phương thức phát hành không có sự thống nhất giữa các quốc gia. Cho đến nay, cơ bản CBDC được hiểu là dạng số của tiền pháp định do Ngân hàng Trung ương (NHTW) hoặc cơ quan tiền tệ của một quốc gia, vùng lãnh thổ có chủ quyền phát hành đóng vai trò là thước đo giá trị, phương tiện trao đổi và phương tiện tích trữ của cải.
1. Lý do các quốc gia phát hành CBDC
Có nhiều lý do dẫn đến xu hướng phát triển CBDC các nước, tuy nhiên có ba lý do chủ yếu sau:
Thứ nhất, sự phát triển mạnh mẽ tiền kỹ thuật số của các chủ thể không phải là NHTW phát hành đe dọa trực tiếp chủ quyền tiền tệ và vai trò quản lý điều tiết thị trường tài chính của quốc gia. Cho đến nay, chức năng phát hành tiền tệ được mặc định là độc quyền của NHTW (hoặc cơ quan có thẩm quyền tương đương của một quốc gia, vùng lãnh thổ). Việc phát hành và quản lý lưu thông tiền tệ được coi là một bộ phận của chủ quyền quốc gia bên cạnh chủ quyền về lãnh thổ, đối ngoại…
Tuy nhiên, sự phát triển đáng kinh ngạc của công nghệ tài chính đã dẫn đến sự ra đời và phát triển nhanh chóng của một loại hình sản phẩm tài chính kỹ thuật số được gọi là tiền kỹ thuật số do các chủ thể phi Nhà nước phát hành. Các dạng tiền kỹ thuật số này có đủ ba chức năng của tiền là thước đo giá trị, là phương tiện thanh toán và phương tiện tích trữ của cải. Với đặc điểm ưu việt của phương tiện kỹ thuật số được tạo ra bởi các thuật toán lập trình, người nắm giữ có quyền ngang hàng, mật mã giúp cho bất cứ chủ thể nắm giữ tiền kỹ thuật số có thể trao đổi bình đẳng không cần phê duyệt, cho phép và ẩn danh.
Tiền kỹ thuật số mặc dù đang ở giai đoạn đầu nhưng phát triển tốc độ đáng kinh ngạc và thể hiện một tham vọng lớn. Ví dụ thứ nhất là đồng Bitcoin, từ giao dịch 10 Bitcoin đầu tiên được cha đẻ của Bitcoin là Satoshi Nakamoto gửi cho nhà mật mã học Hal Finney vào ngày 12/01/2009, giá trị ấn định trên sàn giao dịch khởi điểm 1 Bitcoin = 0,00076 USD (ngày 05/10/2009), đến ngày 19/02/2021, tổng giá trị vốn hóa của Bitcoin đã vượt 1.000 tỷ USD và giá giao dịch Bitcoin tăng kỷ lục quanh mức 56.000 USD/Bitcoin (theo Reuters). Tháng 8/2015, Barclays trở thành ngân hàng lớn đầu tiên tại Anh chấp nhận Bitcoin, ngày 14/4/2021, Coinbase - sàn giao dịch tiền điện tử lớn nhất ở Hoa Kỳ, trở thành công ty đại chúng với mã COIN trên sàn giao dịch Nasdaq. Bitcoin ngày càng được chấp nhận và sử dụng rộng rãi ngay cả với nhiều nhà đầu tư và doanh nghiệp lớn như Tesla, Mastercard Inc, BNY Mellon… Ngày 07/9/2021, El Salvador trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới công nhận Bitcoin là một đồng tiền hợp pháp. Ví dụ thứ hai là dự án phát hành đồng Libra của Facebook: Với việc neo giữ với rổ tiền tệ mạnh và trái phiếu chính phủ của một số quốc gia trên thế giới theo tỷ lệ nhất định và với lợi thế người dùng sẵn có của Facebook là khoảng 2,4 tỷ người, nếu dự án thành công, đồng Libra tham vọng có thể trở thành đồng tiền chuyển đổi chung của thế giới, có tính ổn định cao và đe dọa vị thế của những đồng tiền truyền thống hùng mạnh nhất như USD, Euro...
Khi các đồng tiền kỹ thuật số như Bitcoin, Libra, JPM Coin, SBI Coin được sử dụng trong trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ trong thanh toán chuyển tiền toàn cầu, đủ lớn tạo ra hệ thống ngân hàng ngầm (trên mạng), chúng sẽ đe dọa hệ thống thanh toán quốc gia hay chuyển tiền quốc tế; lấn át việc kiểm soát tiền trong lưu thông của các NHTW. Ẩn danh và sử dụng mật mã, tiền kỹ thuật số có thể chuyển đi bất kỳ đâu khiến cho việc kiểm soát tiền tệ ra/vào quốc gia trở nên rất khó khăn, ảnh hưởng đến thị trường ngoại tệ, điều hành tỷ giá, kiểm soát rửa tiền, tham nhũng và tài trợ khủng bố2. Đây thực sự là thách thức cho chính sách tiền tệ độc lập và an ninh tiền tệ - tài chính của các quốc gia. Điều này đặc biệt nghiêm trọng với các quốc gia đang phát triển khi niềm tin của công chúng vào đồng nội tệ không cao và dễ bị bào mòn trước các biến cố như lạm phát, do vậy dễ chuyển sang nắm giữ tiền kỹ thuật số có chất lượng. Đây là lý do tại sao nhiều quốc gia, kể cả các quốc gia phát triển như Mỹ, Pháp phản đối quyết liệt dự án đồng Libra của Facebook. Trung Quốc cũng siết chặt quy định về tiền ảo, đặc biệt là Bitcoin, coi đây là mối đe dọa với đồng Nhân dân tệ. Theo hãng tin Reuters ngày 24/9, 10 cơ quan của Chính phủ Trung Quốc, bao gồm NHTW cùng các cơ quan quản lý ngân hàng, chứng khoán và ngoại hối ra tuyên bố chung về việc hợp tác chặt chẽ để siết chặt các hoạt động liên quan đến tiền điện tử. NHTW Trung Quốc cho biết, tiền điện tử không được lưu thông trên thị trường như tiền tệ truyền thống và cấm các sàn giao dịch ở nước ngoài cung cấp dịch vụ cho các nhà đầu tư ở Trung Quốc đại lục thông qua Internet. NHTW Trung Quốc cũng cấm các tổ chức tài chính, công ty thanh toán và công ty Internet tạo điều kiện cho các giao dịch tiền điện tử.
Xu thế sử dụng tiền kỹ thuật số là tất yếu và ngày càng phổ biến, điều này khiến các quốc gia muốn giữ vững chủ quyền tiền tệ thì NHTW một mặt phải siết chặt quy định sử dụng tiền kỹ thuật số của khu vực tư nhân, mặt khác phải tạo ra một đồng tiền kỹ thuật số mạnh đối trọng và lấn át được các đồng tiền kỹ thuật số này. Đây cũng là một lý do khiến Trung Quốc thúc đẩy NHTW Trung Quốc triển khai đồng tiền số của mình.
Thứ hai, xu hướng thanh toán không dùng tiền mặt. Với sự phát triển và ưu thế của công nghệ, máy tính, các phương tiện di động thông minh và lợi thế nhanh, rẻ, dễ dàng, vượt qua giới hạn của không gian và thời gian, xu hướng thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) ngày càng trở nên phổ biến và tất yếu trên toàn cầu. Tại các quốc gia Bắc Âu, nhiều doanh nghiệp, nhà hàng và quán rượu, thậm chí các ngân hàng nhỏ, đã ngừng tiếp nhận tiền mặt và các quốc gia này có kế hoạch không còn sử dụng tiền mặt vào năm 2023. NHTW Thụy Điển cho biết, chỉ còn chưa đầy 10% người dân dùng tiền mặt trong năm 2020, so với mức 40% trước đó 10 năm.
Tại châu Á, cùng với sự bùng nổ của thương mại điện tử, Trung Quốc đã dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực thanh toán trực tuyến và đang trên đường trở thành một xã hội không tiền mặt. Hơn 600 triệu người Trung Quốc đã sử dụng các công cụ Alipay của Alibaba và WeChat Pay của Tencent để thanh toán hầu hết các giao dịch mua sắm. Nhiều ngành và lĩnh vực trên khắp Trung Quốc cũng đã bắt đầu áp dụng công nghệ Blockchain để thanh toán hóa đơn. Những nhà cung cấp dịch vụ thứ ba như Alipay, thậm chí đe dọa những nỗ lực của các ngân hàng và các nhà cung cấp dịch vụ mạng khi xây dựng mạng lưới riêng của mình kể cả ở nước ngoài, với 110.000 cửa hàng chấp nhận Alipay (Louise, 2017). Tại Trung Quốc, phần lớn doanh nghiệp cho phép khách hàng dùng ứng dụng quét mã QR để thanh toán mua hàng. Điều này phổ biến đến mức Chính phủ Trung Quốc phải xử phạt những cửa hàng từ chối thanh toán bằng tiền mặt và nhắc nhở công chúng nhớ rằng, đồng Nhân dân tệ mới là đồng tiền chính thức của Trung Quốc. Hàn Quốc cũng đang dần theo kịp Trung Quốc về thanh toán không tiền mặt. Đây là một trong những nước có nền tảng chuyển khoản tiền tốt nhất thế giới và tiền mặt chỉ chiếm 20% giao dịch trong năm 2018, số người không mang theo tiền cũng ngày càng tăng cao.
Như vậy, hệ thống thanh toán trực tuyến thế giới có xu hướng ngày càng phụ thuộc vào các chủ thể cung cấp giải pháp thanh toán ngoài ngân hàng hơn là hệ thống ngân hàng và NHTW. Điều này làm suy yếu vai trò của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là NHTW trong lĩnh vực thanh toán. CBDC là phương tiện và giải pháp để NHTW củng cố và hiện diện mạnh mẽ hơn trong lĩnh vực thanh toán trực tuyến và làm giảm các nguy cơ đối với sự ổn định tài chính gây ra bởi sự phụ thuộc vào các hệ thống thanh toán phi ngân hàng.
Thứ ba, những lợi ích kỳ vọng và sự cạnh tranh ảnh hưởng từ CBDC. Đến nay, CBDC trên thế giới vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu, thử nghiệm nên những lợi ích và cả rủi ro3 từ phát hành CBDC vẫn chưa thực sự rõ ràng. Quan điểm ủng hộ cho rằng, CBDC mang lại các lợi ích: (1) Đối với kinh tế vĩ mô, CBDC tạo thuận lợi và thúc đẩy quá trình tái phân bổ nguồn lực, giúp các chính phủ thực hiện các chính sách và quản lý nền kinh tế dễ dàng hơn, đặc biệt trong các trường hợp khẩn cấp như đại dịch Covid-19 qua việc có thể tính toán chính xác hơn các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như tỷ lệ lạm phát, giảm chi phí giao dịch của nền kinh tế; hỗ trợ tích cực tăng trưởng kinh tế thông qua thúc đẩy kinh tế số, thương mại điện tử, TTKDTM, các mô hình kinh doanh trên nền tảng số, giao dịch số; (2) Đối với hệ thống tài chính, CBDC giúp cắt giảm chi phí in ấn, vận chuyển và bảo quản tiền tệ; kích thích cạnh tranh sự đổi mới, mở đường cho các hoạt động thanh toán linh hoạt, hiệu quả, toàn diện và sáng tạo hơn, giúp cải thiện tài chính toàn diện ở các quốc gia (Dyson và Hodgson, 2016 và Ricks và ctg, 2018); nâng cao khả năng phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế thông qua hoạt động của trung tâm dữ liệu lớn, giảm bớt việc cung cấp thông tin, báo cáo giữa các tổ chức tín dụng và nhà quản lý; (3) Đối với chính sách tệ, CBDC có thể giúp NHTW tăng hiệu quả của chính sách tiền tệ qua việc có thể thực hiện chính sách lãi suất dương và âm, khả năng truyền tải chính sách lãi suất của NHTW thông qua CBDC đến thị trường tiền tệ và lãi suất huy động, thu thập dữ liệu thời gian thực như việc phát hành, ghi sổ và lưu hành của tiền...
Nhưng có lẽ động lực và tham vọng lớn nhất để các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia lớn khi phát hành CBDC mà các NHTW đang nhắm đến là nhằm tranh giành sức ảnh hưởng của đồng tiền quốc gia trên phạm vi toàn cầu. Việc các nước có đồng tiền mạnh, nền tảng công nghệ hiện đại và đầu tư bài bản, nếu thành công, CBDC của các quốc gia này sẽ là vòi bạch tuộc vươn ra can thiệp và chi phối hệ thống tài chính toàn cầu. Trên không gian số, chủ quyền tiền tệ của các quốc gia có đồng tiền yếu sẽ bị đe dọa nghiêm trọng, việc chủ động quản lý và giám sát thị trường tài chính sẽ trở nên rất khó khăn do các giao dịch, đặc biệt là các giao dịch xuyên biên giới được thực hiện trong tích tắc, ẩn danh và không hoặc để lại ít dấu vết.
CBDC còn là một vũ khí mới, một chiến thuật mới của “cuộc chiến tiền tệ” giữa các siêu cường trên mặt trận TTKDTM (mặt trận chính trong tương lai gần). Từ lâu, Trung Quốc đã không giấu giếm tham vọng quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ và thách thức vị trí thống trị của đồng Đô la Mỹ. Theo giới phân tích, nếu Trung Quốc phát triển thành công một loại tiền kỹ thuật số mạnh, đồng Đô la Mỹ sẽ mất dần ảnh hưởng toàn cầu, do CDBC của Trung Quốc có thể thu hút các quốc gia mới nổi nắm giữ, những đối tác thương mại và con nợ đang phụ thuộc vào Bắc Kinh. Trong một thông báo vào tháng 9/2020, NHTW Trung Quốc cho biết, Trung Quốc cần trở thành nước đầu tiên phát hành tiền ảo nhằm thúc đẩy quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ và giảm phụ thuộc vào hệ thống thanh toán đồng Đô la Mỹ toàn cầu.
2. Tác động tiềm tàng của việc các quốc gia phát hành CBDC đến Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, đồng tiền chưa mạnh, nền kinh tế và thị trường tài chính có độ mở cao. Trong tương lai, nếu CBDC của các quốc gia khác, đặc biệt là của Trung Quốc, Mỹ phát hành và phổ biến sẽ tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống tài chính nói riêng. Bên cạnh các tác động tích cực4, các thách thức và rủi ro dưới đây cần được xem xét thấu đáo và cẩn trọng:
Thứ nhất, thách thức với kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính: Các dòng vốn và dòng tiền đầu cơ bằng CBDC nước ngoài có thể bơm vào, rút ra đột ngột kể cả cố ý hay vô ý gây ra các cú sốc cho nền kinh tế, đặc biệt là một nền kinh tế có độ mở cao, phụ thuộc nhiều vào xuất nhập khẩu như Việt Nam. CBDC mạnh của nước ngoài có thể làm suy yếu và lấn át đồng Việt Nam, dẫn đến tình trạng tương tự như đô la hóa nền kinh tế và đe dọa chủ quyền tiền tệ. Cũng như tiền kỹ thuật số tư nhân, CBDC của quốc gia khác tạo điều kiện cho các loại tội phạm công nghệ cao, rửa tiền, trốn thuế, tham nhũng phát triển.
Thứ hai, thách thức với việc thực thi chính sách tiền tệ và vị thế của NHTW: Việc các dòng tiền và giao dịch nằm ngoài tầm kiểm soát của cơ quan quản lý trong nước khiến cho việc thống kê và đo lường tổng lượng tiền, xác định các mục tiêu trở nên rất khó khăn. Điều này tác động tiêu cực đến quyền chủ động thực thi chính sách tiền tệ của NHTW. Đơn cử vụ việc sử dụng mạng Internet (công nghệ kết nối chưa phải tiền kỹ thuật số) của công dân Trung Quốc sang du lịch Việt Nam sử dụng POS của doanh nghiệp Trung Quốc đặt chui ở Việt Nam chuyển thẳng tiền về Trung Quốc, đã khiến cho các cơ quan quản lý trong nhiều trường hợp không thể xử lý.
3. Việt Nam nên định hướng chính sách và hành động như thế nào trước tác động tiềm tàng của việc các quốc gia phát triển CBDC?
Tác động của CBDC nước ngoài với Việt Nam hiện nay là chưa lớn do hầu hết các quốc gia mới trong giai đoạn nghiên cứu phát triển. Tuy nhiên, Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế phát triển tất yếu của CBDC trên toàn cầu. Trước mắt, Việt Nam cần quan sát, nghiên cứu cẩn trọng xu hướng và sự phát triển của CBDC thế giới, từ đó có thể dự liệu cơ chế, giải pháp phù hợp để ứng phó và thích ứng với xu thế phát triển và ảnh hưởng của CBDC các nước, đặc biệt là các nước lớn trong tương lai.
Thứ nhất, Việt Nam cần nghiên cứu dự liệu một khuôn khổ pháp lý và cơ chế pháp lý phù hợp để có thể nắm bắt, quản lý và kiểm tra, giám sát việc lưu thông CBDC của nước ngoài ra vào Việt Nam trong tương lai. Trước tiên, cần phải tiếp tục nghiên cứu, rà soát các quy định của các điều ước quốc tế, điều lệ của các tổ chức tài chính quốc tế để hiểu rõ, đầy đủ các cam kết cũng như quyền, nghĩa vụ thành viên của mình, xây dựng các cơ chế, hàng rào bảo vệ chủ quyền tiền tệ phù hợp mà không vi phạm các cam kết quốc tế. Ví dụ, trong một số điều ước quốc tế, Việt Nam bảo lưu được các quyền, kể cả hạn chế hoặc không cam kết một số nội dung liên quan đến mục tiêu chính sách công để đảm bảo phát triển thị trường dịch vụ trong nước.
Thứ hai, củng cố và nâng cao sức mạnh của hệ thống thanh toán chính thức (do Nhà nước quản lý và giữ vai trò chủ đạo) hiện có. Hiện nay, TTKDTM ở Việt Nam chưa phát triển như kỳ vọng, tỷ lệ giao dịch sử dụng tiền mặt còn cao5; hạ tầng và trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho hoạt động TTKDTM chưa đồng bộ, hiệu quả; thiếu đồng bộ giữa các trung gian thanh toán và các đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ; các hình thức thanh toán mới như QR Code, sinh trắc học... đang ở trong giai đoạn đầu phát triển. Do đó, cần: (1) Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động truyền thông đồng bộ, hiệu quả trong việc phổ biến kiến thức, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi và cách thức thanh toán tiêu dùng của người dân, qua đó nâng cao khả năng tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng cho người dân, khuyến khích sử dụng các phương thức TTKDTM chính thống; (2) Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động TTKDTM, thanh toán điện tử, đáp ứng yêu cầu phát triển các mô hình, sản phẩm, dịch vụ thanh toán mới, ban hành các cơ chế, chính sách thích hợp về phí dịch vụ thanh toán để khuyến khích tổ chức, cá nhân thực hiện TTKDTM; (3) Nâng cấp hạ tầng thanh toán quốc gia, nâng cao chất lượng của hoạt động thanh toán điện tử, áp dụng các công nghệ, phương thức thanh toán hiện đại nhằm tăng mức độ tiện lợi, giảm chi phí sử dụng và rủi ro, đảm bảo an toàn về tài sản và thông tin của người sử dụng. Tăng cường năng lực của cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát, phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố trong hoạt động TTKDTM, thanh toán điện tử, trung gian thanh toán... Một hệ thống TTKDTM chính thống do Nhà nước điều hành đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả, an ninh và tiện lợi được sử dụng phổ biến rộng rãi, trở thành thói quen của người dân trong nước sẽ là đối trọng và cũng là hàng rào phòng vệ hữu hiệu trước nguy cơ bành trướng của tiền kỹ thuật số nước ngoài, trong đó có CBDC.
1IMF định nghĩa CBDC là một dạng mới của tiền, được NHTW phát hành dưới dạng số hóa, dự kiến có vai trò như tiền pháp định hoặc CBDC là dạng số của một đồng tiền của quốc gia có chủ quyền được phát hành và là khoản nợ của NHTW quốc gia đó. Diễn đàn Kinh tế thế giới định nghĩa CBDC là một hình thức mới của tiền có chủ quyền được số hóa, thường được coi là tương đương với tiền mặt vật chất hoặc các khoản dự trữ được giữ tại NHTW; đó là tiền của NHTW, hoặc một thành phần của cơ sở tiền tệ và là khoản nợ trực tiếp của NHTW. NHTW Anh định nghĩa CBDC là dạng điện tử của tiền NHTW mà có thể được sử dụng bởi hộ gia đình và doanh nghiệp để thanh toán và cất trữ giá trị.
2Theo Công ty phần mềm an ninh mạng (McAfee) và Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), tội phạm mạng là nguyên nhân khiến nền kinh tế toàn cầu thiệt hại 1,2% GDP toàn cầu (hơn 1.000 tỷ USD năm 2020), tăng 50% so với năm 2018 và nhiều thiệt hại khác không thể tính bằng tiền. Đáng chú ý, xu hướng tội phạm tài chính gia tăng mạnh trong bối cảnh dịch COVID-19. Theo báo cáo của Công ty tư vấn EMR (2020), thị trường cung cấp giải pháp quản lý, kiểm soát tội phạm tài chính toàn cầu có giá trị khoảng 1.100 tỷ USD và dự báo tăng khoảng 5,7%/năm giai đoạn 2020-2025.
3Ví dụ, sự lưu thông ngày càng tăng của các loại tiền KTS kỹ thuật số đã tạo ra một số rủi ro về kinh tế và an ninh quốc gia, chẳng hạn như rò rỉ dữ liệu thanh toán cho các quốc gia khác, mở cửa cho các hoạt động bất hợp pháp như rửa tiền và việc sử dụng tiền điện tử để tài trợ cho khủng bố, buộc các NHTW phải gia tăng nguồn lực để giám sát.
4Như tạo thuận lợi cho hoạt động giao thương, đầu tư và thanh toán với quốc tế, thúc đẩy và hỗ trợ kinh tế số, thương mại điện tử, thanh toán không dùng tiền mặtTTKDTM, các mô hình kinh doanh trên nền tảng số, giao dịch số.
5Theo Tập đoàn Dữ liệu quốc tế (IDG) năm 2019, gần 40% số dân Việt Nam có tài khoản ngân hàng nhưng vẫn còn 80% chi tiêu hằng ngày sử dụng tiền mặt, 98% sử dụng tiền mặt khi thanh toán các mặt hàng dưới 100 nghìn đồng và có tới gần 85% giao dịch tại ATM là giao dịch rút tiền.
Chu Tuệ Anh (Hà Nội)