Một năm thực thi CPTPP: Xuất khẩu tăng chưa đúng kỳ vọng

Nghiên cứu - Trao đổi
Trong năm đầu tiên Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có hiệu lực, doanh nghiệp đã tận dụng cơ hội để thâm nhập những thị trường mới, song tăng trưởng xuất khẩu chưa...
aa

Trong năm đầu tiên Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có hiệu lực, doanh nghiệp đã tận dụng cơ hội để thâm nhập những thị trường mới, song tăng trưởng xuất khẩu chưa đạt như kỳ vọng.

Có tăng trưởng, nhưng không lớn

Kết quả xuất khẩu trên 260 tỷ USD, xuất siêu gần 10 tỷ USD trong năm 2019 có dấu ấn từ các thị trường mà Việt Nam đã ký kết hiệp định thương mại tự do (FTA), điển hình là CPTPP, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc (KVFTA)... Trong đó, CPTPP đã ít nhiều tạo ra những thay đổi trong thương mại, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang khu vực này.

Đánh giá kết quả sau 1 năm CPTPP có hiệu lực, ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, tác động trước hết của CPTPP là về mặt thể chế, giúp thúc đẩy cải cách thể chế của Việt Nam cho phù hợp với yêu cầu của kinh tế, thương mại toàn cầu và đảm bảo định hướng phát triển bền vững.

Cơ bản, trong năm qua, các doanh nghiệp đã tận dụng cơ hội từ CPTPP để thâm nhập những thị trường mới mà trước khi có CPTPP, chúng ta chưa tiếp cận được. Tuy nhiên, tăng trưởng xuất khẩu chưa toàn diện, mới tập trung ở một số thị trường.

Theo thống kê của Bộ Công thương, xuất khẩu sang một số thị trường CPTPP đạt mức tăng trưởng tốt, cho thấy bước đầu tận dụng hiệu quả các cam kết từ hiệp định này để thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường. Cụ thể, xuất sang Canada đạt 3,86 tỷ USD, tăng 28,2%; sang Mexico đạt 2,84 tỷ USD, tăng 26,8%; xuất sang Chi Lê tăng 20,5%, đạt gần 1 tỷ USD; sang Peru tăng tới 40%, đạt 350 triệu USD.

Tuy nhiên, có thị trường tăng rất không đáng kể, như Singapore (chỉ tăng 1,1%, đạt 3,231 tỷ USD). Thậm chí, xuất khẩu sang một số thị trường còn giảm, như Australia (giảm 12% so với năm trước, đạt 3,523 tỷ USD), Malaysia (giảm 3%, đạt 3,376 tỷ USD).

Dệt may tăng trưởng chưa như kỳ vọng

Dệt may, giày dép, thủy sản, đồ gỗ… là những ngành hàng luôn được đánh giá có khả năng tận dụng cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu, nhờ hưởng ưu đãi thuế quan khi CPTPP đi vào thực thi, nhưng trên thực tế lại không hẳn như vậy. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu 39 tỷ USD năm 2019 của ngành dệt may được xem là chưa đạt kỳ vọng.


"Thách thức lớn nhất của ngành dệt may nằm ở câu chuyện về nguyên liệu đầu vào, bởi đến nay, chúng ta vẫn phải nhập khẩu trên 50% nguyên phụ liệu. Trong khi đó, quy hoạch phát triển ngành, vùng nguyên liệu vẫn đang bỏ ngỏ. Để giải quyết được bài toán khó này, cần có ‘bàn tay’ của Chính phủ và sự nỗ lực, quyết tâm của toàn ngành".

Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam


Ông Lê Tiến Trường, Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) thừa nhận, xuất khẩu dệt may vẫn chưa tận dụng được các cơ hội của CPTPP nếu so sánh với các mặt hàng như nông sản, bởi lẽ, các mặt hàng có những quy tắc xuất xứ khác nhau.

Với mặt hàng nông sản, quy tắc xuất xứ có vẻ “dễ thở” so với mặt hàng dệt may, nhờ dễ dàng chứng minh quy tắc xuất xứ hơn, trong khi với mặt hàng dệt may lại yêu cầu “từ sợi trở đi”. Điều đáng nói là, quy định xuất xứ từ sợi trở đi trong CPTPP đã đánh đúng vào “điểm nghẽn” của ngành dệt may, khi ngành này hàng năm phải nhập gần 99% bông, 80% vải...

Theo số liệu của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương), năm 2019, ngành dệt may chi 13,3 tỷ USD nhập khẩu vải, tăng 4%; xơ sợi dệt các loại 2,4 tỷ USD, tương đương năm 2018; nhập khẩu bông 2,567 tỷ USD, bằng 85% so với 2018…

Có mặt tại Hội nghị Tổng kết ngành Công thương 2019 mới đây, ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) thừa nhận, việc không tự chủ được nguyên phụ liệu đang làm khó ngành dệt may trong việc tận dụng ưu đãi từ các FTA lớn, như CPTPP và EVFTA.

Khó khăn nữa khiến ngành dệt may khó tận dụng được cơ hội từ CPTPP là khâu nhuộm còn yếu, dẫn đến Việt Nam khó đáp ứng được quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”.

VCCI đã thực hiện khảo sát đối với 8.600 doanh nghiệp về sự quan tâm đến với CPTPP. Kết quả cho thấy, có 26% số doanh nghiệp có tìm hiểu về CPTPP, nhưng vẫn còn tới 70% doanh nghiệp chưa rõ về CPTPP. Khảo sát này cũng chỉ ra khó khăn, cản trở lớn nhất để tận dụng CPTPP, như 84% doanh nghiệp thiếu thông tin về cam kết và cách thực hiện; 81,48% doanh nghiệp thấy bất cập trong tổ chức thực thi của cơ quan nhà nước...

Thế Hải

Nguồn: https://baodautu.vn/mot-nam-thuc-thi-cptpp-xuat-khau-tang-chua-dung-ky-vong-d114237.html

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Một số vấn đề pháp lý về công bố thông tin của ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Một số vấn đề pháp lý về công bố thông tin của ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Trong các cổ phiếu niêm yết, cổ phiếu của các ngân hàng niêm yết thuộc nhóm cổ phiếu khá đặc biệt xuất phát từ đặc thù kinh doanh và tính chất nhạy cảm của ngành Ngân hàng...
Nhân tố ảnh hưởng đến ý định áp dụng tài chính xanh tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến ý định áp dụng tài chính xanh tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Tài chính xanh là công cụ giúp các quốc gia không chỉ đạt được mục tiêu kinh tế mà còn bảo vệ môi trường, thực hiện trách nhiệm xã hội hướng đến phát triển bền vững.
Bảo đảm an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng - Thách thức và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Bảo đảm an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng - Thách thức và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Bảo đảm an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng là yêu cầu cần thiết để bảo vệ tài sản, duy trì lòng tin của khách hàng cũng như thúc đẩy sự phát triển bền vững trong môi trường kinh doanh đầy thách thức hiện nay.
Kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025

Kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025

Năm 2024 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025. Mặc dù bối cảnh quốc tế và trong nước vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức: Lạm phát tăng cao, xung đột địa chính trị kéo dài, sự tăng trưởng chậm lại của các nền kinh tế lớn, nhưng kinh tế Việt Nam đã vượt qua khó khăn để đạt được những thành tựu nổi bật.
Thực trạng và đề xuất phát triển thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam

Thực trạng và đề xuất phát triển thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam

Thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể trong những năm gần đây, tuy nhiên vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức.
Xếp hạng tín dụng khách hàng cá nhân với khai phá dữ liệu, thuật  toán C4.5

Xếp hạng tín dụng khách hàng cá nhân với khai phá dữ liệu, thuật toán C4.5

Khai phá dữ liệu (Data Mining - DM) là khái niệm rộng và có thể gây khó khăn cho các nhà nghiên cứu không chuyên sâu về công nghệ thông tin. Điều quan trọng là phải nắm được nguyên lý, khái niệm liên quan đến DM, từ đó, định hướng mục tiêu và ứng dụng DM trong từng lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Thực trạng công bố thông tin môi trường, xã hội và quản trị của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Thực trạng công bố thông tin môi trường, xã hội và quản trị của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Phát triển bền vững được xem là một trong những vấn đề cấp bách nhất của thời đại. Hiện nay, ngày càng nhiều tổ chức tài chính áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường, xã hội, quản trị (ESG) vào hoạt động thực tiễn của mình để hướng tới thông điệp chung tay vì sự phát triển bền vững.
Mối quan hệ giữa mức độ thực hiện quy định thanh khoản ngân hàng theo Basel III với một số giải pháp và khuyến nghị

Mối quan hệ giữa mức độ thực hiện quy định thanh khoản ngân hàng theo Basel III với một số giải pháp và khuyến nghị

Quy định thanh khoản Basel III được Ủy ban Basel Giám sát ngân hàng (BCBS) đưa ra sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 nhằm giám sát, quản lý rủi ro thanh khoản hợp lý; thúc đẩy khả năng phục hồi để ngân hàng tồn tại trong tình huống căng thẳng cấp tính kéo dài một tháng và tình huống phục hồi kéo dài hơn một năm.
Xem thêm
Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Tín dụng xanh là một công cụ tài chính được thiết kế để hỗ trợ các dự án và hoạt động có lợi cho môi trường. Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp là quá trình mà các công ty áp dụng những phương pháp và chiến lược bền vững nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

Những tháng cuối năm, doanh nghiệp tập trung tăng cường sản xuất, kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng nên nhu cầu tín dụng cũng sẽ tăng theo.
Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Trong những tháng đầu năm 2024, dù kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều biến động khó lường như xung đột địa chính trị kéo dài, lạm phát duy trì ở mức cao, cùng những thách thức nội tại của nền kinh tế trong nước và ảnh hưởng nặng nề của thiên tai...
Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tầm quan trọng của hệ thống tiền gửi tại Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua sự an toàn và ổn định; từ đó, mang lại niềm tin đối với người gửi tiền.
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Để góp phần ổn định hệ thống tài chính, ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội đất nước, trong bài viết này, tác giả làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và định hướng sửa đổi, bổ sung Luật BHTG.
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Lạm phát gia tăng toàn cầu sau đại dịch Covid-19, vốn đã ảnh hưởng đến cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, nhưng dường như đã “bỏ qua” châu Á. Một trong những lý do chính là sự phục hồi chậm của các nền kinh tế châu Á do các đợt “đóng cửa”, “phong tỏa”, “cách ly”, “giãn cách” kéo dài và lặp đi lặp lại.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).
Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Phát triển khu vực kinh tế tư nhân là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Tại Việt Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế”.

Thông tư sô 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Thông tư số 54/2024/TT-NHNN ngày 17/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 26/2021/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn giao dịch ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối

Thông tư số 53/2024/TT-NHNN ngày 04/12/2024 Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3

Thông tư số 52/2024/TT-NHNN ngày 29/11/2024 Quy định việc ngân hàng thương mại có cổ đông, cổ đồng và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ quy định tại Điều 55 của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 17/2017/QH14 xây dựng và thực hiện lộ trình để bảo đảm tuân thủ các quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15

Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 06/11/2024 Về tăng cường quản lý rủi ro rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng giai đoạn 2024 - 2028

Thông tư số 50/2024/TT-NHNN ngày 31/10/2024 Quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 49/2024/TT-NHNN ngày 25/10/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 46/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 48/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đông Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài