Sự phát triển của công nghệ cao như internet, điện thoại di động đã giúp ngành Ngân hàng phát triển những kênh phân phối dịch vụ hiện đại với xu hướng ngân hàng không chi nhánh (branchless banking). Theo đó, khách hàng có thể tiếp cận dịch vụ một cách thuận tiện mà không cần phải đến chi nhánh ngân hàng truyền thống. Không nằm ngoài xu thế đó, trong khoảng mười năm trở lại đây, trên thế giới phát triển mạnh một mô hình ngân hàng không chi nhánh trên cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại, gọi là đại lý ngân hàng.
Đến nay, đã có rất nhiều quốc gia ban hành quy định hướng dẫn hoạt động của mô hình này. Là một trong những kênh phân phối mang tính đổi mới giúp mở rộng sự tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính, hoạt động đại lý ngân hàng được coi là sáng kiến nổi bật nhất cho việc thực hiện mục tiêu thúc đẩy tài chính toàn diện ở các quốc gia.
Bài viết này sẽ tập trung phân tích khái niệm, ưu nhược điểm và xu hướng phát triển mô hình đại lý ngân hàng trên thế giới qua tổng kết kinh nghiệm tại một số quốc gia điển hình là Colombia, Brazil, Kenya, Ấn Độ và Malaysia. Đồng thời, phân tích thực trạng thí điểm mô hình đại lý ngân hàng ở Việt Nam để từ đó đề xuất hướng đi tiếp theo phù hợp với xu thế và thông lệ quốc tế hiện nay.
1. Tổng quan về đại lý ngân hàng
1.1. Khái niệm và vai trò của đại lý ngân hàng
Trong những năm gần đây, trên thế giới, xuất hiện một mô hình hoạt động ngân hàng mới được gọi là đại lý ngân hàng, tiếng Anh là Agent Banking hoặc Banking Correspondent hoặc Business Correspondent tùy từng quốc gia. Một cách khái quát, hoạt động đại lý ngân hàng là việc cung ứng dịch vụ tài chính cho khách hàng bởi một đối tác bên thứ ba thay mặt cho tổ chức nhận tiền gửi hoặc/và tổ chức cung ứng dịch vụ tiền di động được cấp phép.
Đại lý ngân hàng được xem là một trong những kênh phân phối mang tính đổi mới giúp mở rộng sự tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính. Thông qua đại lý thường là các cửa hàng tạp hóa, cửa hiệu thuốc, bưu điện hoặc cửa hàng bán lẻ xăng dầu, các dịch vụ ngân hàng cơ bản như thanh toán hóa đơn, rút tiền, chuyển tiền, gửi tiền tiết kiệm… được cung cấp tới người dân một cách thuận tiện ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, những nơi không có chi nhánh ngân hàng thương mại.
1.2. Các mô hình đại lý ngân hàng
Hiện nay, trên thế giới, tồn tại hai mô hình đại lý ngân hàng: (i) mô hình ngân hàng làm chủ; và (ii) mô hình phi ngân hàng làm chủ.
(i) Trong mô hình ngân hàng làm chủ, một tổ chức tài chính được cấp phép hoạt động mà điển hình là ngân hàng sẽ cung cấp dịch vụ tài chính thông qua một đại lý. Điều này nghĩa là ngân hàng sẽ phát triển và cung ứng sản phẩm, dịch vụ tài chính nhưng phân phối chúng qua các đại lý. Ngân hàng vẫn là người cung cấp dịch vụ tài chính, đồng thời là người quản lý, duy trì tài khoản của khách hàng.
Đại lý sẽ giao dịch trực tiếp với khách hàng, bao gồm thực hiện chức năng nhận tiền - ứng tiền mặt thay cho khách hàng. Điều này tương tự như giao dịch viên tại một chi nhánh/phòng giao dịch thực hiện nhận tiền gửi hoặc rút tiền cho khách hàng. Đại lý còn có thể giải quyết cả quá trình mở tài khoản, thậm chí thẩm định và cung cấp dịch vụ vay vốn cho khách hàng.
Mỗi đại lý phải được trang bị một số thiết bị và hạ tầng công nghệ cần thiết để kết nối trực tiếp với ngân hàng khi tiến hành các giao dịch tài chính. Các trang thiết bị điện tử này thường là một máy chấp nhận thẻ POS kết nối trực tuyến với hệ thống máy chủ (hệ thống core banking) của ngân hàng chủ quản, máy đọc mã vạch, máy tính, điện thoại di động.
Khi thực hiện giao dịch với khách hàng, đại lý sẽ tiến hành xác thực nhân thân khách hàng (thực hiện bằng một đầu đọc thẻ căn cước và/hoặc thiết bị quét vân tay được tích hợp với máy POS, mật khẩu PIN). Với các giao dịch có liên quan đến tiền mặt thì tiền mặt được đại lý trực tiếp nhận hoặc ứng tiền mặt cho khách hàng, đồng thời các bút toán tương ứng ghi nợ/có tài khoản của khách hàng và đại lý sẽ được ngân hàng hạch toán tại ngân hàng. Một thông điệp điện tử của giao dịch đó sẽ được truyền trực tiếp từ đại lý đến ngân hàng chủ quản của đại lý theo thời gian thực. Thông thường, ngân hàng chủ quản yêu cầu đại lý phải duy trì một mức tiền mặt nhất định tại tài khoản mở tại ngân hàng hoặc ngân hàng duy trì một hạn mức tín dụng cho mỗi đại lý.
Qui trình giao dịch với thẻ ngân hàng tại đại lý sẽ đơn giản hơn. Khi khách hàng sử dụng thẻ để rút tiền, nạp tiền hay chuyển khoản, đại lý sẽ lựa chọn giao dịch trên máy POS và thực hiện giao dịch bằng thẻ của khách hàng sau khi khách hàng nhập mã PIN. Máy POS kết nối với máy chủ của ngân hàng chủ quản sẽ xác thực và giao dịch hoàn thành với một hóa đơn được in ra.
(ii) Mô hình phi ngân hàng làm chủ: tương tự với mô hình ngân hàng làm chủ, mô hình này chỉ khác biệt ở chỗ tổ chức chủ quản đại lý là một tổ chức vận hành mạng viễn thông/điện thoại di động (MNO) và thực hiện giao dịch thông qua tài khoản tiền điện tử của khách hàng thay vì tài khoản ngân hàng. Các tổ chức phi ngân hàng này phải mở tài khoản tại ngân hàng và duy trì số dư tổng bằng với số tiền khách hàng ký quỹ để thực hiện giao dịch.
1.3. Ưu điểm và nhược điểm của đại lý ngân hàng
Ưu điểm
Sử dụng mô hình đại lý ngân hàng đem lại những lợi ích lớn đối với các tổ chức tín dụng, khách hàng và bản thân đại lý.
- Chi phí thành lập và hoạt động của kênh đại lý thấp hơn rất nhiều so với kênh chi nhánh truyền thống. Việc thành lập một đại lý chỉ tốn 2% đến 4% chi phí của một chi nhánh ngân hàng. Đại lý cũng có chi phí hoạt động thấp hơn (khoảng 3 lần) so với kênh chi nhánh ngân hàng do giảm thiểu chi phí cố định nhờ tận dụng các cửa hàng bán lẻ sẵn có, không mất chi phí đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
- Tăng cơ hội tiếp cận, tăng tần suất sử dụng các dịch vụ ngân hàng của khách hàng hiện có và khách hàng mới, từ đó làm tăng cơ sở khách hàng và doanh thu cho ngân hàng. Việc các đại lý luôn ở gần nơi dân cư sinh sống giúp khách hàng có thể dễ dàng tiếp cận các điểm cung cấp dịch vụ mà không phải mất thời gian và công sức đi xa để đến chi nhánh ngân hàng, chi phí giao dịch cũng rẻ hơn nhiều so với của ngân hàng truyền thống như chi nhánh hay ATM. Kể cả người nghèo, thu nhập thấp cũng có thể được phục vụ từ đại lý ngân hàng.
- Các đại lý tăng thêm thu nhập từ khoản hoa hồng khi thực hiện những giao dịch tài chính thay ngân hàng. Đồng thời, họ có thể đạt doanh thu và thu nhập cao hơn từ hoạt động bình thường của mình do lượng khách hàng đến với cơ sở nhiều hơn khi trở thành đại lý ngân hàng.
- Ở góc độ quốc gia, đại lý ngân hàng là cách thức hiệu quả nhất hiện nay nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính cho người dân nông thôn, vùng sâu, vùng xa ở những nơi không có các chi nhánh, phòng giao dịch của ngân hàng, là động lực thúc đẩy tài chính toàn diện.
Nhược điểm
- Rủi ro từ đại lý bán lẻ trong mô hình ngân hàng làm chủ
Việc đặt hoàn toàn quá trình giao tiếp với khách hàng vào đại lý bán lẻ là rủi ro hơn so với trường hợp giao dịch viên ngân hàng. Những đại lý bán lẻ này có thể hoạt động ở những vùng sâu, vùng xa hoặc những nơi có độ an ninh thấp, họ cũng thiếu các hệ thống an ninh cần thiết và cũng không có nhân viên được đào tạo chuyên sâu. Việc thiếu đào tạo chuyên sâu có thể là một vấn đề lớn vì chức năng của đại lý không chỉ xuất quỹ/nhập quỹ mà còn cả thẩm định và quyết định cho vay đối với hồ sơ khách hàng.
Do đó, rủi ro từ đại lý bán lẻ có thể bao gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý, rủi ro thanh khoản, rủi ro danh tiếng. Ngoài ra, kênh đại lý ngân hàng có thể tạo mối lo ngại về vấn đề luật bảo vệ người tiêu dùng cũng như những quy định về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố. Tuy nhiên, với những quy định điều chỉnh hoạt động của đại lý ngân hàng hiện nay, chỉ cho phép đại lý được thực hiện một phạm vi hạn chế các dịch vụ cũng như quy mô giao dịch có giá trị nhỏ, những rủi ro phát sinh từ hoạt động đại lý ngân hàng được đánh giá là thấp. Đồng thời, với việc ứng dụng công nghệ thông tin thì những rủi ro này sẽ được giảm nhẹ.
- Rủi ro tiền điện tử trong mô hình phi ngân hàng làm chủ
Mô hình phi ngân hàng làm chủ cũng có đầy đủ các rủi ro như mô hình ngân hàng làm chủ nêu trên. Tuy nhiên, rủi ro lớn nhất của mô hình tổ chức phi ngân hàng làm chủ không xuất phát từ đại lý bán lẻ mà lại từ chính tổ chức phi ngân hàng. Bởi vì tổ chức phi ngân hàng này chịu sự giám sát nới lỏng hơn nhiều so với ngân hàng nên rủi ro dễ dàng xảy ra khi tổ chức phi ngân hàng sử dụng tiền mặt của khách hàng (tiền khách hàng gửi vào để chuyển sang tiền điện tử) một cách không cẩn trọng (đầu tư quá mạo hiểm), dẫn đến mất khả năng chi trả khi khách hàng muốn rút tiền mặt (chuyển từ tiền điện tử sang tiền mặt) và vỡ nợ. Khả năng vỡ nợ của tổ chức phi ngân hàng sẽ phụ thuộc vào sức mạnh tài chính, năng lực quản lý thanh khoản của tổ chức phi ngân hàng. Thông thường, các nước quản lý rủi ro này bằng hình thức buộc các tổ chức phát hành tiền điện tử phải mở tài khoản tại một ngân hàng và duy trì số dư tổng bằng với số tiền khách hàng ký quỹ để thực hiện giao dịch.
2. Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
2.1. Hoạt động đại lý ngân hàng trên thế giới
Theo Báo cáo về Tài chính toàn diện năm 2017 của Ngân hàng Thế giới dựa trên kết quả điều tra đối với 124 cơ quan quản lý tài chính (ngân hàng trung ương) đại diện cho 141 nền kinh tế thế giới, hiện tại có 105/124 cơ quan quản lý (85%) cho phép thực hiện hoạt động đại lý. Trong đó, 81% cho phép NHTM hợp đồng với đại lý bán lẻ làm kênh phân phối, 91% cho phép tổ chức phi ngân hàng hợp đồng với đại lý bán lẻ làm kênh phân phối. Hơn 60% các cơ quan quản lý còn cho phép các hợp tác xã tài chính (tương đương như Quỹ tín dụng nhân dân ở Việt Nam), các tổ chức nhận tiền gửi khác như tổ chức tài chính vi mô được phép triển khai hoạt động này (cụ thể tại hình dưới đây).
Nguồn: 2017 Report on Global Financial Inclusion and Consumer Protection Survey, NHTG, 2017
Hoạt động đại lý phổ biến nhất là thực hiện các giao dịch rút tiền (cash-out), nhưng cũng có nhiều hoạt động khác được các đại lý thực hiện và quy định này khác nhau giữa các nước. Hơn 50% quốc gia cho phép các NHTM thuê các đại lý thực hiện qui trình nhận biết khách hàng, nhận tiền gửi, nhận đơn xin mở tài khoản tiền gửi và xin vay. 42% quốc gia cho phép NHTM thuê đại lý thực hiện mở tài khoản cho khách hàng và một số ít hơn cho phép đại lý phê duyệt khoản vay theo chính sách cụ thể của tổ chức chủ quản.
2.2. Bài học cho Việt Nam
Các quốc gia triển khai mô hình đại lý ngân hàng cho đến nay đều được đánh giá thành công, đặc biệt là trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện. Qua nghiên cứu kinh nghiệm tại những quốc gia áp dụng thành công nhất và được nghiên cứu tổng kết nhiều nhất là Colombia, Brazil, Malaysia, Kenya, Ấn Độ, có thể rút ra một số bài học sau:
a) Phạm vi áp dụng
- Hoạt động đại lý ngân hàng thường được thực hiện tại những khu vực chưa (ít) có điểm giao dịch dịch vụ tài chính giúp nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính chính thức cho người dân vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Hình thức cung cấp dịch vụ này thay thế cho các kênh cung cấp truyền thống tốn kém chi phí hơn nhiều như chi nhánh/phòng giao dịch hay ATM. Thậm chí, kênh đại lý ngân hàng được sử dụng như một kênh giải quyết hiệu quả đối với vấn đề nhận tiền - ứng tiền mặt thay cho khách hàng ở những nơi không có sự hiện diện của ngân hàng, đặc biệt phục vụ cho những đối tượng ở vùng sâu, vùng xa, người nghèo.
- Nhìn chung, quan điểm của các cơ quan quản lý coi mô hình đại lý ngân hàng có rủi ro thấp do hoạt động đại lý ngân hàng cung cấp những dịch vụ hạn chế, chủ yếu là những dịch vụ cơ bản, như rút tiền, chuyển tiền, thanh toán hóa đơn tiện ích, với giá trị giao dịch và khối lượng giao dịch thấp.
- Những Chính phủ có cam kết mạnh mẽ về thúc đẩy tài chính toàn diện trên thế giới đều thừa nhận vai trò và triển khai mô hình hoạt động đại lý ngân hàng là một giải pháp quan trọng để thúc đẩy tài chính toàn diện ở quốc gia mình.
b) Những yêu cầu chung đối với mô hình đại lý ngân hàng
- Trước hết, cần thiết phải xây dựng một khuôn khổ pháp lý phù hợp cho mô hình đại lý ngân hàng hoạt động. Thông thường khuôn khổ pháp lý này do Ngân hàng trung ương (NHTW) ban hành. Khuôn khổ pháp lý cần quy định rõ ai được làm đại lý và những điều kiện phải đáp ứng là gì, bao gồm cả những yêu cầu về cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Quy định rõ đại lý được cung cấp những dịch vụ nào và những dịch vụ nào không được làm.
- NHTW cần nghiên cứu rõ tiềm năng và rủi ro mà mô hình đại lý ngân hàng mang lại, bản thân các NHTM phát triển mô hình đại lý sẽ phải áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro phù hợp. Đồng thời, các quy định khác có liên quan đến hoạt động của mô hình đại lý ngân hàng cũng phải sửa đổi phù hợp, đặc biệt là những quy định về phòng chống rửa tiền/tài trợ khủng bố, những quy định về tiền điện tử, quy trình nhận biết khách hàng…
- Ứng dụng công nghệ có ý nghĩa quyết định đối với mô hình đại lý ngân hàng. Đại lý thường hoạt động ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa nhưng nhờ có ứng dụng công nghệ thông tin viễn thông, điện thoại di động mà những thiết bị đầu cuối như POS có thể kết nối trực tuyến với ngân hàng chủ quản và thực hiện các giao dịch thời gian thực. Điều này đảm bảo cho sự vận hành suôn sẻ của mô hình cũng như phục vụ tốt cho công tác quản lý và giám sát.
c) Quản lý và giám sát đại lý ngân hàng của tổ chức chủ quản
- Tổ chức chủ quản (ngân hàng) chịu trách nhiệm hoàn toàn về mặt pháp lý đối với các hoạt động của đại lý ngân hàng và trực tiếp chịu trách nhiệm trước khách hàng. Hợp đồng đại lý ngân hàng phải nói rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của tổ chức chủ quản đối với khách hàng và cụ thể nhiệm vụ của cả bên chủ quản và bên đại lý.
- Tổ chức chủ quản phải chịu trách nhiệm đối với việc quản lý có hiệu quả những rủi ro phát sinh trong hoạt động đại lý cho ngân hàng để đảm bảo hoạt động đại lý cho ngân hàng được thực hiện một cách an toàn, tin cậy và hiệu quả. Theo đó, tổ chức chủ quản phải thiết lập một môi trường kiểm soát hoạt động của đại lý với các quy trình quản trị phù hợp, thiết lập các bộ phận chịu trách nhiệm quản trị hoạt động, quản trị rủi ro, kiểm toán nội bộ với vai trò rõ ràng để bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình vận hành.
- Tổ chức chủ quản phải kiểm soát các hoạt động của đại lý thông qua thiết lập mức giới hạn giao dịch và thiết lập cơ chế để chặn các giao dịch của đại lý từ xa khi cần thiết. Tổ chức chủ quản phải thiết lập hạn mức rút tiền trong ngày phù hợp cho khách hàng để nhiều khách hàng cùng được hưởng dịch vụ và giảm thiểu các rủi ro lây lan. Các hạn mức này có thể được thiết lập dựa trên đánh giá về trạng thái thanh khoản của từng đại lý.
- Công tác đào tạo đóng vai trò quan trọng. Sau khi lựa chọn được những đại lý đủ tiêu chuẩn, tổ chức chủ quản cần tiến hành ký kết hợp đồng và đào tạo cho đại lý về các nội dung: sản phẩm, dịch vụ của tổ chức chủ quản; bảo vệ thông tin khách hàng, cơ chế phòng chống gian lận, vận hành và bảo dưỡng thiết bị, giải quyết khiếu nại. Tuyên truyền, đào tạo khách hàng về hoạt động đại lý, tập trung vào quyền lợi và những điều khách hàng cần lưu ý khi giao dịch với đại lý.
d) Hoạt động quản lý, thanh tra, giám sát của NHTW
Ở tất cả các nước triển khai mô hình đại lý ngân hàng, NHTW rất chú trọng vấn đề kiểm soát nội bộ, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, các chính sách thuế và quản lý các đại lý ngân hàng của tổ chức chủ quản. Chương trình phát triển mạng lưới đại lý ngân hàng của Malaysia là ví dụ thành công điển hình trong việc triển khai mô hình đại lý ngân hàng mà Việt Nam có thể tham khảo và học tập. NHTW Malaysia đã xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý, giám sát phù hợp và mang lại hiệu quả sau 5 năm triển khai thực hiện bằng những quy định cụ thể về hệ thống cơ sở hạ tầng và kiểm soát nội bộ, thủ tục xin cấp phép hoạt động, báo cáo các tổ chức chủ quản phải gửi về NHTW, tuân thủ các quy định hiện hành khác do NHTW ban hành…
e) Bảo vệ khách hàng
- Vấn đề bảo vệ khách hàng luôn được coi trọng. Các nước đều quy định tổ chức chủ quản phải xây dựng cơ chế xử lý khiếu nại và tranh chấp để xử lý mọi khiếu nại và tranh chấp giữa khách hàng và đại lý ngân hàng; bảo vệ khách hàng và bảo mật thông tin cá nhân.
- Tất cả giao dịch tại đại lý phải được xác nhận trực tuyến qua một thiết bị đầu cuối đã được chỉ định. Các đại lý ngân hàng không được phép: hoạt động nếu đường truyền kết nối với tổ chức chủ quản bị lỗi; tính thêm phí phụ trội; không công khai phí thu; không công khai tình trạng tài chính của đại lý; đề xuất bất kỳ dịch vụ tài chính nào mà không có trong hợp đồng đại lý ngân hàng với tổ chức tài chính chủ quản. Khách hàng phải được nhận hóa đơn giao dịch ngay lập tức với thông tin và tên ngân hàng trên hóa đơn đó.
- Tổ chức chủ quản phải thiết kế hình ảnh quảng bá ngân hàng cho các đại lý để khách hàng nhận thức rõ ràng rằng đại lý chỉ thay mặt tổ chức tài chính chính thức cung cấp những dịch vụ tài chính đó và tổ chức chủ quản vẫn chịu mọi trách nhiệm đối với các giao dịch.
- Yêu cầu các đại lý ngân hàng công khai thông tin liên hệ với cơ quan giám sát ngân hàng và phòng đại diện ngân hàng chủ quản về chăm sóc khách hàng trên bảng hiệu của đại lý mình. Các đại lý ngân hàng cũng phải ghi rõ trên bảng hiệu của mình rằng đại lý là tổ chức thay mặt ngân hàng cung cấp dịch vụ và ghi rõ mức phí cho từng loại hình dịch vụ.
f) Cơ chế khuyến khích
- Các quốc gia triển khai hoạt động đại lý ngân hàng cũng đưa ra nhiều khuyến khích để thúc đẩy hoạt động đại lý ngân hàng, ví dụ như: áp dụng các tài khoản tiết kiệm giá trị nhỏ; ban hành các quy định về tài khoản ngân hàng di động và điện tử khác; miễn thuế cho khách hàng ngân hàng khi thực hiện giao dịch tài chính; và cải thiện các quy định về tín dụng vi mô (quy định mới về lãi suất cho tín dụng vi mô nhằm thu hút người dân sử dụng dịch vụ ngân hàng).
- Một số quốc gia (cụ thể như Colombia) còn có những chính sách tài trợ cho ngân hàng để ngân hàng hỗ trợ các cơ sở đại lý ngân hàng gặp khó khăn trong hoạt động ở một số địa phương.
g) Triển khai thực hiện
- Trước khi đưa mô hình vào triển khai, các nước thường triển khai thí điểm và chỉ định ngân hàng tiên phong thực hiện mô hình đại lý ngân hàng. Thông thường những ngân hàng được triển khai thực hiện ban đầu là những ngân hàng có định hướng phát triển ở khu vực nông thôn. Những đại lý tiềm năng được triển khai áp dụng nhiều nhất và trước nhất thường là mạng lưới bưu điện, các điểm đại lý của công ty viễn thông.
- Mô hình đại lý ngân hàng do ngân hàng làm chủ thường có xu hướng được ưu tiên áp dụng và triển khai đầu tiên còn mô hình đại lý ngân hàng do phi ngân hàng làm chủ thì thường được áp dụng chậm hơn do mô hình này có mức độ rủi ro cao hơn.
3. Thực trạng triển khai mô hình đại lý ngân hàng tại Việt Nam
3.1. Thực trạng triển khai mô hình đại lý ngân hàng tại Việt Nam
Dựa trên kinh nghiệm quốc tế và căn cứ điều kiện thực tiễn ở Việt Nam, NHNN đã xây dựng Đề án thí điểm phát triển một số hình thức thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) ở khu vực nông thôn giai đoạn 2014 – 2015. Đề án hướng tới sử dụng các phương thức thanh toán hiện đại nhưng dễ sử dụng, phù hợp với địa bàn nông thôn trên cơ sở liên kết, kết hợp giữa NHTM với mạng lưới sẵn có của các tổ chức khác (như cửa hàng xăng dầu, đại lý phân phối viễn thông, hệ thống bưu cục...) để mở rộng, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt trên địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo. Về bản chất, đây chính là việc thí điểm mô hình đại lý ngân hàng do ngân hàng làm chủ tại Việt Nam nhưng giới hạn trong việc NHTM liên kết với một số tổ chức phi ngân hàng để cung ứng dịch vụ thanh toán, chuyển tiền (chứ không mở rộng ra các dịch vụ ngân hàng khác) tại những nơi mà người dân khó tiếp cận đến điểm giao dịch, chi nhánh của NHTM.
Nên triển khai một khung giải pháp tổng thể về phát triển khu vực tài chính để đạt được các mục tiêu đã đề ra
Đến nay, Việt Nam đã có 3 mô hình đại lý ngân hàng được triển khai và đi vào hoạt động là:
- Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) và Tập đoàn viễn thông Quân đội (Viettel): được NHNN chấp thuận, MB và Viettel đã thực hiện triển khai dựa trên các quy định tại văn bản số 8512/NHNN-TT ngày 14/11/2014. Theo đó, các dịch vụ được thực hiện bao gồm nộp tiền vào tài khoản mở tại MB hoặc tại các ngân hàng khác; rút tiền từ tài khoản của khách hàng mở tại MB; chuyển khoản cho tài khoản mở tại MB hoặc tại ngân hàng khác; chuyển tiền cho người nhận bằng Giấy CMND/thẻ căn cước.
- Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex (PG Bank) và Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex): ngày 31/12/2014, NHNN có Công văn số 9953/NHNN-TT chấp thuận triển khai thí điểm mô hình dịch vụ thanh toán do PG Bank phối hợp với Petrolimex. Theo đó, PG Bank hợp tác sử dụng mạng lưới các xí nghiệp, chi nhánh và công ty xăng dầu thành viên của Petrolimex để cung ứng dịch vụ chuyển tiền cho người nhận chưa có tài khoản tại PG Bank (chuyển tiền cho người nhận bằng Giấy chứng minh thư nhân dân hoặc Hộ chiếu) và chuyển tiền cho người nhận có tài khoản tại PG Bank (nộp tiền vào tài khoản của người nhận mở tại PG Bank).
- Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Công ty M_Service: triển khai dịch vụ chuyển tiền giá trị nhỏ dựa trên nền tảng Ví điện tử Momo theo Công văn số 103/NHNN-TT ngày 07/01/2015. Các dịch vụ bao gồm: cung cấp dịch vụ chuyển tiền C2C (Cash to Cash) cho khách hàng không có Ví điện tử MoMo và không có tài khoản ngân hàng; dịch vụ chuyển tiền M2M (Mobile to Mobile) cho khách hàng có ví điện tử MoMo và có tài khoản thanh toán tại Vietcombank.
Kết quả triển khai 3 mô hình thí điểm như sau:
- Tính đến cuối năm 2017, số điểm cung cấp dịch vụ của cả 3 mô hình đạt 32.185 điểm, tăng 1,4 lần so với năm 2015. Số lượng khách hàng đạt hơn 6 triệu người, tăng hơn 8 lần so với năm 2015, trong đó số lượng khách hàng ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa chiếm gần 60% tổng số khách hàng. Tổng số lượng giao dịch đạt hơn 11 triệu giao dịch và tổng giá trị giao dịch đạt hơn 81 nghìn tỷ đồng. Như vậy, các mô hình thí điểm đã có bước phát triển đột phá với tốc độ tăng rất cao, đóng vai trò quan trọng giúp người dân ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa tiếp cận dịch vụ ngân hàng.
- Mô hình MB-Viettel đều chiếm tỷ trọng lớn nhất đối với tất cả các chỉ tiêu, đặc biệt chiếm tới 98% tổng giá trị giao dịch của 3 mô hình thí điểm. Mô hình Vietcombank-M_Service tuy số điểm cung cấp dịch vụ giảm do chủ trương tối ưu hóa mạng lưới cung cấp dịch vụ, giảm điểm tĩnh ở những nơi chưa hiệu quả nhưng số lượng khách hàng và tổng số lượng giao dịch lại tăng nhanh nhất trong 3 mô hình với lần lượt là 12,5 và 11,5 lần. Mô hình PG Bank-Petrolimex các chỉ tiêu đều tăng nhưng tốc độ là rất nhỏ so với hai mô hình còn lại.
3.2. Những khó khăn, bất cập khi triển khai mô hình đại lý ngân hàng tại Việt Nam
Tuy các mô hình thí điểm có tốc độ tăng trưởng cao nhưng vẫn còn tồn tại những khó khăn, vướng mắc sau:
- Luật các Tổ chức tín dụng 2010 (đã được sửa đổi, bổ sung) chỉ quy định việc ngân hàng làm đại lý mà chưa quy định việc ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được “giao đại lý”, do đó, hiện nay chưa có cơ sở pháp lý cho các mô hình đang thí điểm nêu trên. Cũng do vướng mắc này mà NHNN vẫn chưa ban hành văn bản hướng dẫn về mô hình dịch vụ cũng như các nội dung hướng dẫn chi tiết về vai trò, trách nhiệm của các bên liên quan khi cung cấp dịch vụ, quản trị rủi ro và bảo vệ khách hàng nên các đơn vị được thí điểm còn gặp khó khăn trong quá trình triển khai.
- Do 3 mô hình trên đưa ra các sản phẩm/dịch vụ mới thông qua ứng dụng công nghệ hiện đại nên một lượng lớn người dân còn tâm lý e ngại về độ an toàn và tính tin cậy của sản phẩm/dịch vụ. Mặc khác, người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn hạn chế về trình độ, kiến thức cần thiết về công nghệ cũng như chưa quen sử dụng các sản phẩm đòi hỏi tính ứng dụng công nghệ cao. Do đó, các mô hình này vẫn còn gặp nhiều khó khăn để tiếp cận đến các khách hàng có nhu cầu, đòi hỏi sự truyền thông rộng rãi, phổ cập thông tin về các sản phẩm/dịch vụ mới, đặc biệt so sánh tiện ích của các sản phẩm/dịch vụ này so với các sản phẩm/dịch vụ ngân hàng truyền thống để ngay từ đầu tạo được niềm tin cho khách hàng khi tiếp cận và tiến tới sử dụng các sản phẩm/dịch vụ mới này.
- Hạn mức giao dịch áp dụng chung cho tất cả các đối tượng khách hàng trong thời gian thí điểm vừa qua đôi khi chưa đáp ứng được nhu cầu của một số đối tượng khách hàng (như hộ kinh doanh cá thể, tiểu thương).
- Khách hàng sử dụng dịch vụ chuyển tiền rất đa dạng và có tính thời điểm, mùa vụ. Do vậy, cần có thời gian để xây dựng và bố trí hệ thống điểm giao dịch/cửa hàng/đại lý/cộng tác viên một cách hợp lý để đồng thời đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và mang lại hiệu quả kinh tế cho các ngân hàng và đối tác.
- Dịch vụ thanh toán theo các mô hình vẫn đang hoạt động thí điểm, chưa được cấp phép chính thức nên phần nào ảnh hưởng đến các quyết định tăng ngân sách đầu tư cho phát triển dịch vụ.
- Đối với mô hình của PG Bank và Petrolimex: Trong thời gian trước, PG Bank tập trung vào hoàn thành các thủ tục sáp nhập vào VietinBank nên việc phát triển dịch vụ cũng bị ảnh hưởng nhất định, do PG Bank không triển khai các chương trình khuyến mại, thúc đẩy nên số lượng khách hàng mới chưa tăng mạnh, tập trung chủ yếu các khách hàng truyền thống đã quen sử dụng dịch vụ.
4. Khuyến nghị chính sách cho Việt Nam
Căn cứ thực trạng thí điểm mô hình đại lý ngân hàng ở Việt Nam và kinh nghiệm các nước triển khai thành công mô hình này đã nêu ở các phần trên, một số khuyến nghị có thể đưa ra xem xét như sau:
4.1. Xây dựng khuôn khổ pháp lý cho mô hình đại lý ngân hàng do ngân hàng làm chủ hoạt động, bao gồm tối thiểu các vấn đề:
- Khái niệm về đại lý ngân hàng;
- Điều kiện tối thiểu để trở thành một đại lý ngân hàng;
- Các dịch vụ ngân hàng/tài chính mà một đại lý ngân hàng có thể cung cấp;
- Vai trò - trách nhiệm, nghĩa vụ của 4 bên: đại lý ngân hàng, ngân hàng chủ quản, ngân hàng Nhà nước và khách hàng;
- Quy định về tính độc quyền giữa ngân hàng chủ quản và đại lý ngân hàng;
- Quy định các nguyên tắc về mức phí thu giữa khách hàng và đại lý ngân hàng, giữa đại lý ngân hàng và ngân hàng chủ quản (cân nhắc về mức phí trần);
- Giới hạn giá trị giao dịch đối với từng dịch vụ mà đại lý ngân hàng cung ứng trong từng ngày;
- Cơ chế đảm bảo khả năng thanh toán.
4.2. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan
Bên cạnh việc ban hành khung khổ pháp lý hướng dẫn hoạt động của mô hình đại lý ngân hàng, cần thiết phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung những nội dung có liên quan ở các văn bản pháp luật khác để tạo điều kiện hoạt động thuận lợi cho mô hình này trong điều kiện thực tế. Những văn bản pháp luật cần điều chỉnh bao gồm, quy trình nhận biết khách hàng và mở tài khoản, những quy định về phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, những quy định về kế toán điện tử, quy định về tài khoản điện tử và tiền điện tử, quy định về tiếp cận và khai thác thông tin từ các cơ sở dữ liệu cá nhân và doanh nghiệp để phục vụ cho việc xác thực khách hàng trực tuyến... Theo đó, NHNN cần nghiên cứu và sớm trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn về mở tài khoản theo cấp độ, xác thực khách hàng trên nền tảng kỹ thuật số (eKYC),… Ngoài ra, cũng cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở dữ liệu dân cư và các chính sách về kết nối với cơ quan quản lý, doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng, người dân cũng như đầu tư nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin viễn thông để tạo nền tảng cho phát triển các kênh cung ứng dịch vụ tài chính đổi mới trong đó có mô hình đại lý cho ngân hàng.
4.3. Xây dựng khuôn khổ pháp lý cần có sự điều chỉnh linh hoạt theo thực tế
Việc xây dựng khuôn khổ pháp lý cho mô hình đại lý ngân hàng không nên mang tính cứng nhắc mà cần có sự linh hoạt cần thiết. Tức là, khi khuôn khổ pháp lý được đưa vào thực tế, nếu có những quy định gây khó khăn cho hoạt động của các bên tham gia thì cần nghiên cứu để điều chỉnh phù hợp. Thêm vào đó, với sự hỗ trợ có thể kêu gọi từ các tổ chức quốc tế như IMF, UNDP, World Bank, Liên minh tài chính toàn diện, ADB cũng như các nước đã triển khai thành công mô hình đại lý ngân hàng như Kenya, Ấn Độ, Brazil thì Ngân hàng Nhà nước có thể cân nhắc yêu cầu sự hỗ trợ khi thiết lập khuôn khổ pháp luật cho mô hình đại lý ngân hàng do ngân hàng làm chủ tại Việt Nam.
4.4. NHNN nên cho phép mở rộng phạm vi các dịch vụ ngân hàng mà bên đại lý ngân hàng thay mặt ngân hàng cung cấp cho khách hàng thay vì chỉ hai dịch vụ thanh toán và chuyển tiền như cấp phép thí điểm hiện nay
Thanh toán và chuyển tiền là 2 dịch vụ cơ bản và cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro (rủi ro thanh khoản, rủi ro quản lý quỹ, rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố) nhưng đã được triển khai được 8-9 năm và đều được báo cáo lên NHNN là an toàn và không phát sinh rủi ro. Việc mở rộng các dịch vụ là cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang xây dựng và triển khai thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia với mục tiêu nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính của người dân nông thôn, người nghèo, vùng sâu, vùng xa.
Những dịch vụ cung cấp trong mô hình đại lý ngân hàng có thể là: (i) Rút tiền, chuyển tiền giá trị nhỏ; (ii) Nhận gửi tiền gửi tiết kiệm giá trị nhỏ; (iii) Thanh toán hóa đơn tiện ích; (iv) Vấn tin tài khoản; (v) Chi trả lương hưu, trợ cấp xã hội; (vi) Nhận, xem xét và chuyển tiếp hồ sơ đăng ký mở tài khoản ngân hàng; (vii) Nhận, xem xét và chuyển tiếp hồ sơ đăng ký mở thẻ tín dụng/thẻ ghi nợ; (viii) Nhận, xem xét và chuyển tiếp hồ sơ đăng ký mua bảo hiểm nhân thọ/ phi nhân thọ. Các dịch vụ từ (v) đến (vii) mặc dù được đại lý ngân hàng cung cấp nhưng thực tế người quyết định cuối cùng lại là ngân hàng chủ quản.
4.5. Xây dựng cơ chế thanh tra, giám sát của NHNN
Để được triển khai hoạt động đại lý ngân hàng, các tổ chức chủ quản phải xin cấp phép của NHNN và chịu sự giám sát của NHNN. Theo đó, NHNN cần ban hành các quy định cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục cấp phép cho loại hình hoạt động này. Đồng thời, xây dựng và thực thi cơ chế thanh tra, giám sát hoạt động đại lý ngân hàng để đảm bảo các tổ chức chủ quản và các đại lý hoạt động an toàn, hiệu quả, tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
4.6. Triển khai từng bước, theo lộ trình thích hợp
- Mô hình đại lý ngân hàng cần được triển khai theo từng bước. Trước mắt có thể lựa chọn triển khai ở những ngân hàng có điều kiện về mạng lưới hoạt động ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa ở Việt Nam, cụ thể là Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội. Đồng thời, tiếp tục những mô hình đại lý hiện đang thực hiện là Ngân hàng TMCP Ngoại thương, Ngân hàng TMCP Xăng dầu, Ngân hàng TMCP Quân đội nhưng mở rộng thêm phạm vi cung cấp dịch vụ. Sau đó, mô hình đại lý ngân hàng sẽ được mở rộng ra cho các ngân hàng thương mại khác.
- Khi mô hình đại lý ngân hàng đã triển khai rộng rãi ở Việt Nam, có thể cân nhắc tới thí điểm mô hình đại lý ngân hàng do phi ngân hàng làm chủ. Tuy nhiên, tổ chức phi ngân hàng có thể chịu sự giám sát của các Bộ chủ quản khác nhau như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thông tin truyền thông... Do đó, khi thí điểm mô hình đại lý do phi ngân hàng làm chủ sẽ phức tạp hơn và cần sự phối hợp của những bộ, ngành liên quan trong việc đưa ra khuôn khổ pháp lý và giám sát cho mô hình này.
Cuối cùng, kinh nghiệm của các nước cho thấy không nên triển khai hoạt động đại lý cho ngân hàng một cách riêng rẽ mà nên đặt trong một khung giải pháp tổng thể về phát triển khu vực tài chính, phát triển tài chính toàn diện để các nhóm giải pháp có thể cùng hỗ trợ nhau và đạt được các mục tiêu đã đề ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Regulating Banking Agent, CGAP, 2010, 2011.
2. 2017 Report on Global Financial Inclusion anh Consumer Protection Survey, World Bank, 2017.
3. Agent Banking in Latin America, Alliance for Financial Inclusion (AFI), 2011.
4. Making Finance World for Afica, Patrick Honohan and Thorsten Beck, World Bank, 2011.
5. The Guideline on Agent Banking CBK/PG/15, Central Bank of Kenya, 2010.
6. Policy Guidelines for Issuance and Operation of prepaid payment instruments, Reserve Bank of India, 2009.
7. Agent Banking, Bank Negara Malaysia (Central Bank of Malaysia), 2015.
8. How Agent banking changes The economics of small Accounts, 2010, Clara Veniard, Bill & Melinda Gates Foundation, 2010.
Vũ Thị Hải Yến
Nguồn: TCNH số 24/2018