Kinh nghiệm quốc tế về việc tổ chức bảo hiểm tiền gửi hỗ trợ tài chính đối với quỹ tín dụng nhân dân được kiểm soát đặc biệt
15/05/2023 08:32 18.551 lượt xem
Theo tài liệu “Các vấn đề xử lí tổ chức tín dụng hợp tác - Tổng quan về các đặc điểm và công cụ xử lí” (Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế - IADI, 2018),  các tổ chức tài chính nhận tiền gửi như hiệp hội tín dụng, các ngân hàng hợp tác hoặc tương hỗ hay quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) được gọi chung là tổ chức tín dụng (TCTD) hợp tác, là một thành viên quan trọng trong hệ thống tài chính của nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Nhìn chung, các TCTD hợp tác có những đặc điểm khác biệt với ngân hàng. 
 
Kinh nghiệm chỉ ra rằng, có nhiều công cụ có thể được tổ chức bảo hiểm tiền gửi (BHTG) sử dụng trong quá trình xử lí các TCTD hợp tác, tùy vào quyền hạn pháp lí hoặc mục tiêu chính sách công của mỗi tổ chức BHTG. Một trong số các công cụ xử lí là việc tổ chức BHTG thực hiện hỗ trợ tài chính. Hỗ trợ tài chính là một biện pháp xử lí trong đó TCTD có nguy cơ hoặc đang lâm vào tình trạng đổ vỡ nhận hỗ trợ tài chính bằng các hình thức như: Cho vay trực tiếp, đầu tư, góp vốn, mua lại nợ và các hình thức khác. Tổ chức BHTG có thể thực hiện hỗ trợ tài chính theo nhiều cách, cho nhiều đối tượng khác nhau, như hỗ trợ trực tiếp cho các TCTD yếu kém¹, có nguy cơ đổ vỡ, hỗ trợ tài chính cho các hoạt động chuyển giao, cho ngân hàng bắc cầu hoặc hỗ trợ tài chính cho TCTD hỗ trợ để đảm bảo quá trình xử lí hiệu quả.
 
Để có cái nhìn thực tiễn về việc tổ chức BHTG hỗ trợ tài chính đối với các TCTD hợp tác, bài viết xin giới thiệu kinh nghiệm của Tổng công ty BHTG Nhật Bản (DICJ), Quỹ bảo hiểm TCTD hợp tác Colombia (Fogacoop), Quỹ BHTG Ba Lan (BFG).
 
1. Một số kinh nghiệm xử lí tổ chức tài chính hợp tác của các tổ chức BHTG
 
1.1. Kinh nghiệm của DICJ 
 
DICJ được thành lập năm 1971, hoạt động trên cơ sở pháp lí là Luật BHTG Nhật Bản. Căn cứ theo Luật BHTG, DICJ có thể thực hiện các hoạt động: (i) Chi trả BHTG; (ii) Hỗ trợ tài chính; (iii) Bơm vốn; (iv) Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến vai trò là cơ quan quản lí tài chính; (v) Mua tiền gửi và các trái quyền khác; (vi) Bảo hiểm toàn bộ tiền gửi và quản lí khủng hoảng đặc biệt để đối phó với khủng hoảng tài chính; (vii) Thực hiện các biện pháp xử lí có trật tự tài sản có và tài sản nợ của tổ chức tài chính vì mục đích đảm bảo ổn định hệ thống tài chính.
 
Theo Điều 59 Luật BHTG Nhật Bản, DICJ thực hiện hoạt động hỗ trợ tài chính thông qua các hình thức: Cấp vốn; cho vay hoặc gửi tiền; mua lại tài sản; bảo lãnh các nghĩa vụ; tiếp nhận các nghĩa vụ; mua cổ phiếu ưu đãi; bồi thường thiệt hại cho chủ nợ trong trường hợp nợ không được hoàn trả hoặc hoàn trả đầy đủ.
 
Từ năm 1992 - 2022, DICJ đã thực hiện hỗ trợ tài chính cho 160 TCTD hợp tác dưới hình thức cấp vốn và mua lại tài sản. (Bảng 1)
 
Bảng 1: Số liệu DICJ hỗ trợ tài chính cho các TCTD hợp tác giai đoạn 1992 - 2022
Đơn vị tính: Tỉ Yên
Nguồn: Báo cáo thường niên DICJ 2021 - 2022
 
DICJ thực hiện các khoản hỗ trợ tài chính bao gồm: (1) Hỗ trợ tiền cho các tổ chức tài chính tiếp nhận; (2) Hỗ trợ tiền cho các tổ chức tài chính bị đổ vỡ để đảm bảo tính công bằng giữa các chủ nợ của các tổ chức tài chính bị đổ vỡ này. Đối với việc mua lại tài sản, DICJ thực hiện mua lại tài sản bao gồm việc mua tài sản từ các tổ chức tài chính tiếp nhận trong quá trình mua lại phù hợp với quy định của Luật BHTG.
 
Tại Nhật Bản, để tạo thuận lợi cho người gửi tiền và duy trì các chức năng tài chính, thì phương pháp hỗ trợ tài chính - theo đó việc kinh doanh của một tổ chức tài chính bị đổ vỡ được chuyển sang một tổ chức tài chính tiếp nhận và DICJ cung cấp hỗ trợ tài chính cho tổ chức đó - được hiểu là thanh lí. Những trường hợp đổ vỡ của TCTD hợp tác trong quá khứ đã được xử lí bằng cách sử dụng phương pháp hỗ trợ tài chính. Nhìn chung, quá trình xử lí thực hiện càng lâu thì càng có nhiều tổn thất do các tài sản kinh doanh được chuyển giao cho các tổ chức tài chính tiếp nhận cuối cùng bị suy giảm trong thời gian xử lí, thời gian xử lí đó càng kéo dài thì giá trị tài sản càng bị giảm đi.
 
1.2. Kinh nghiệm của Fogacoop
 
Fogacoop là một tổ chức tài chính thuộc Bộ Tài chính do Chính phủ Colombia thành lập vào năm 1998. Fogacoop thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình dưới sự giám sát và quản lí của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng Colombia.
 
Fogacoop đã tham gia xử lí các loại hình TCTD hợp tác khác nhau từ việc hỗ trợ tài chính đến chi trả BHTG. Các hình thức hỗ trợ tài chính mà Fogacoop thực hiện là mua lại khoản vay, cho vay trực tiếp và cấp vốn. Điển hình trường hợp hỗ trợ tài chính đối với Coopetrol.
 
Coopetrol là một trong 10 tổ chức hợp tác lớn nhất là thành viên của Fogacoop. Giá trị BHTG tại Coopetrol chiếm 5,9% tổng giá trị của Quỹ BHTG do Fogacoop quản lí. Fogacoop đã phát hiện Coopetrol có khó khăn trong việc gia tăng khoản vay, yếu kém trong quản lí rủi ro tín dụng, đồng thời các hoạt động kinh doanh cốt lõi của Coopetrol có vấn đề và tỉ trọng nợ xấu gia tăng. Do đó, Ủy ban liên cơ quan (bao gồm Fogacoop và đại diện của Cơ quan giám sát) đã quyết định tiến hành hoạt động kiểm toán đối với tổ chức này và đã phát hiện ra nhiều sai phạm.
 
Để lựa chọn biện pháp xử lí, Fogacoop tiến hành phân tích tình hình hoạt động của tổ chức hợp tác và đánh giá khả năng phục hồi, từ đó tư vấn Cơ quan giám sát nên sử dụng biện pháp tiếp nhận, phục hồi hoạt động bình thường hay thanh lí tài sản. 
 
Đối với trường hợp của Coopetrol, nếu thực hiện thanh lí sẽ xuất hiện những rủi ro như tài sản sẽ mất đi giá trị (bao gồm giá trị danh mục đầu tư) và những ảnh hưởng tiêu cực đến phần vốn góp sẽ gây mất niềm tin cho thành viên của tổ chức hợp tác, người gửi tiền, từ đó lây lan ra cộng đồng người gửi tiền trong tổ chức hợp tác. Do đó, Cơ quan giám sát đã quyết định thực hiện kế hoạch phục hồi Coopetrol. Theo kế hoạch phục hồi, Fogacoop cung cấp số tiền hỗ trợ tài chính lên đến 20.000 triệu COP (khoảng 7 triệu USD) để đáp ứng nhu cầu thanh khoản (số tiền không vượt quá số tiền BHTG). Đồng thời, kế hoạch phục hồi đòi hỏi một chuỗi các hoạt động liên quan đến quản trị điều hành (như chính sách quản trị, tái cơ cấu tổ chức, chính sách nhân sự, tập trung vào quản lí thương mại, tái cấu trúc chi phí và nguồn tài chính, quản lí danh mục đầu tư và quản lí nợ, cải tiến công nghệ) cùng với những thay đổi trong quy trình quản lí rủi ro, đặc biệt là rủi ro hoạt động và tín dụng.
 
Kế hoạch hỗ trợ tài chính trị giá 20.000 triệu COP đã được thông qua vào tháng 5/2015 được các thành viên và người gửi tiền đón nhận tích cực. Niềm tin và sự bình tĩnh của người gửi tiền được phục hồi. Đến tháng 7/2015, Coopetrol được dỡ bỏ các biện pháp phòng ngừa và được phép hoạt động bình thường. Đến năm 2016, kế hoạch phục hồi đạt được kết quả tích cực, Coopetrol hoạt động có lợi nhuận và đến nay, Fogacoop đã thu hồi được số tiền hỗ trợ tài chính.
 
1.3. Kinh nghiệm của BFG
 
BFG được thành lập năm 1994, hoạt động trên cơ sở pháp lí là Luật Quỹ BHTG Ba Lan. Các tổ chức tham gia BHTG của BFG bao gồm 29 ngân hàng thương mại, 563 TCTD hợp tác (bao gồm 538 ngân hàng hợp tác xã và 25 hiệp hội tín dụng và tiết kiệm).
 
Bên cạnh chức năng BHTG, BFG tham gia vào quá trình xử lí tổ chức tham gia BHTG thông qua các hoạt động như hỗ trợ tài chính có hoàn trả, mua nợ của các TCTD hợp tác, hỗ trợ cho các tổ chức tiếp quản TCTD hợp tác, tiếp quản một số quyền tài sản hoặc các khoản nợ được lựa chọn của TCTD hợp tác.
 
Đối với việc hỗ trợ tài chính cho các TCTD hợp tác có nguy cơ mất khả năng thanh toán, BFG thực hiện hỗ trợ tài chính dưới hình thức cung cấp khoản vay, bảo lãnh và bảo đảm cho TCTD hợp tác được Cơ quan giám sát tài chính Ba Lan đánh giá tích cực việc thực hiện chương trình phục hồi của hiệp hội đó. Điều kiện để các TCTD hợp tác được nhận hỗ trợ tài chính cụ thể như sau: (i) Ban Điều hành BFG công nhận kết quả kiểm toán báo cáo tài chính của TCTD hợp tác; (ii) Tổ chức mua lại hoặc tiếp nhận TCTD hợp tác đưa ra quan điểm tích cực về chương trình phục hồi của tổ chức; (iii) TCTD hợp tác chứng minh được rằng số tiền được đề nghị hỗ trợ tài chính không vượt quá tổng số tiền được bảo hiểm trong tài khoản tiền gửi của hiệp hội tín dụng; (iv) Mục đích của việc sử dụng khoản hỗ trợ tài chính nhằm bù đắp tổn thất; (v) Trong trường hợp hỗ trợ tài chính có hoàn trả, cần đảm bảo hoàn trả toàn bộ số tiền hỗ trợ kèm theo lãi suất của khoản hỗ trợ đó.
 
Đối với các tổ chức tiếp quản TCTD hợp tác, tiếp quản một số quyền tài sản hoặc các khoản nợ được lựa chọn của TCTD hợp tác, BFG thực hiện hỗ trợ tài chính cho các tổ chức này thông qua các hình thức như: Mua cổ phần của ngân hàng tiếp nhận, cho vay hoặc bảo lãnh, cấp bảo lãnh để bù đắp toàn bộ hoặc một phần khoản lỗ phát sinh từ các rủi ro liên quan đến việc sở hữu hoặc mua lại tài sản hoặc quyền với tài sản, cấp khoản trợ cấp. Các điều kiện để được nhận hỗ trợ tài chính tương tự trường hợp hỗ trợ tài chính đối với các TCTD hợp tác có nguy cơ mất khả năng thanh toán.
 
Trong giai đoạn 2014 - 2019, BFG đã thực hiện hỗ trợ tài chính cho 11 tổ chức với tổng số tiền là 681,5 triệu PLN (tương đương hơn 4.000 tỉ VND).
 
Qua tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế, có thể rút ra một số bài học có thể áp dụng vào Việt Nam như sau:
 
Một là, hỗ trợ tài chính của tổ chức BHTG cần được coi là một công cụ quan trọng trong xử lí các TCTD yếu kém, đi đôi với phát huy vai trò của tổ chức BHTG trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần tích cực vào đảm bảo mạng lưới an toàn tài chính quốc gia. Từ đó, Nhà nước tạo môi trường pháp lí thuận lợi và hỗ trợ tích cực cho tổ chức BHTG.
 
Hai là, đối tượng nhận hỗ trợ tài chính được mở rộng từ TCTD hợp tác yếu kém, có nguy cơ đổ vỡ đến các TCTD hỗ trợ cho TCTD hợp tác yếu kém; tổ chức nhận chuyển giao; ngân hàng bắc cầu.
 
Ba là, các hình thức hỗ trợ tài chính được sử dụng linh hoạt gồm cho vay trực tiếp, đầu tư trái phiếu, góp vốn, mua lại nợ, gửi tiền; tiếp quản một số quyền tài sản hoặc các khoản nợ được lựa chọn và các hình thức khác.
 
Bốn là, về mức hỗ trợ tài chính, thực hiện theo nguyên tắc chi phí tối thiểu đảm bảo rằng chi phí mà Quỹ BHTG sử dụng cho một sự kiện xử lí không cao hơn chi phí mà Quỹ BHTG chi trả cho người gửi tiền được bảo hiểm của tổ chức được xử lí đó, trừ đi các khoản thu hồi tiềm năng. Ngoài ra, cần thiết đặt ra một giới hạn để quỹ BHTG không giảm xuống dưới một mức nhất định, ví dụ 50% tỉ lệ quỹ mục tiêu. Về vấn đề này, IADI cũng khuyến nghị việc dùng quỹ BHTG cho quá trình xử lí chỉ được giới hạn ở mức không vượt quá số tiền mà tổ chức BHTG lẽ ra phải dùng để chi trả trừ đi phần giá trị tài sản được thu hồi trong trường hợp áp dụng phương án thanh lí thay vì xử lí ngân hàng². Các biện pháp bảo vệ này sẽ giúp đảm bảo quỹ BHTG không bị sử dụng quá mức, dẫn đến có thể làm xói mòn niềm tin của người gửi tiền đối với hệ thống BHTG. Ngoài ra, việc sử dụng quỹ BHTG trong xử lí chỉ được thực hiện nếu khung pháp lí điều chỉnh BHTG cho phép.
 
2. Thực trạng hoạt động hỗ trợ tài chính QTDND được kiểm soát đặc biệt tại Việt Nam
 
Trước khi có Luật BHTG năm 2012, theo quy định tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về BHTG và Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) có thể hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia BHTG dưới hình thức cho vay, bảo lãnh, mua lại nợ và các hình thức khác phù hợp với quy định pháp luật. Tính đến năm 2013, BHTGVN đã cho vay hỗ trợ đối với 05 QTDND với tổng số tiền trên 6,9 tỉ đồng. Số tiền giải ngân tuy không nhiều nhưng đã kịp thời giúp các QTDND đảm bảo khả năng thanh toán, ổn định hoạt động, giữ được lòng tin của người gửi tiền, tránh được nguy cơ đổ vỡ không đáng có, ổn định an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.
 
Luật BHTG năm 2012 có hiệu lực từ ngày 01/01/2013 không quy định về nghiệp vụ hỗ trợ tài chính của BHTGVN, nên kể từ khi Luật BHTG năm 2012 có hiệu lực thi hành, BHTGVN không được thực hiện nghiệp vụ hỗ trợ tài chính.
 
Theo quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các TCTD năm 2017, BHTGVN được trao thêm chức năng, nhiệm vụ mới khi tham gia vào quá trình cơ cấu lại TCTD như cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt; mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ; tham gia đánh giá tính khả thi của phương án phục hồi, sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp QTDND, tổ chức tài chính vi mô, công ty tài chính; tham gia xây dựng phương án phá sản TCTD được kiểm soát đặc biệt... Đồng thời, BHTGVN luôn có đủ năng lực để bố trí nguồn vốn cho hỗ trợ tài chính. Tuy nhiên, đến nay, BHTGVN chưa thực hiện hỗ trợ tài chính đối với QTDND được kiểm soát đặc biệt. Một số nguyên nhân, khó khăn, vướng mắc chủ yếu có thể kể đến như sau: 
 
Thứ nhất, về cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt. Đối với trường hợp cho vay theo thỏa thuận: Theo quy định, khi BHTGVN cho các TCTD được kiểm soát đặc biệt vay vốn thì các TCTD được kiểm soát đặc biệt phải có tài sản thế chấp, nên việc cho vay đối với các đơn vị này là khó xảy ra vì hầu hết các TCTD được kiểm soát đặc biệt gặp khó khăn về tài chính, lỗ lũy kế kéo dài, không còn tài sản. Đối với việc cho vay theo quyết định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), cho vay theo phương án phục hồi đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt: Thời gian qua chưa có trường hợp QTDND yếu kém có quyết định của NHNN giao cho BHTGVN cho vay đặc biệt; đồng thời, chưa có phương án phục hồi do các QTDND đang đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt lập ra được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.   
 
Thứ hai, về việc mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ QTDND được kiểm soát đặc biệt. Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD năm 2017, việc mua trái phiếu dài hạn với mục đích là hỗ trợ tài chính, nhưng theo Thông tư số 20/2020/TT-BTC ngày 01/4/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 312/2016/TT-BTC ngày 24/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chế độ tài chính đối với BHTGVN lại quy định việc mua trái phiếu dài hạn là một khoản đầu tư, hạch toán khoản lãi từ việc mua trái phiếu dài hạn giống như việc mua trái phiếu Chính phủ mà BHTGVN vẫn đang thực hiện.
 
Thứ ba, cơ chế xử lí rủi ro cho hỗ trợ tài chính đã có nhưng thủ tục xử lí rủi ro còn gặp rất nhiều khó khăn. Thông tư số 312/2016/TT-BTC quy định việc sử dụng vốn của BHTGVN phải đảm bảo an toàn vốn trong khi khả năng thu hồi vốn khi hỗ trợ tài chính cho các QTDND yếu kém là rất thấp. 
 
Thứ tư, khả năng tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ tài chính của các tổ chức tham gia BHTG chưa đáp ứng được yêu cầu, phương án phục hồi chưa đầy đủ và khả thi...
 
3. Giải pháp triển khai hoạt động hỗ trợ tài chính đối với QTDND được kiểm soát đặc biệt
 
Từ kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới và vấn đề đặt ra trong thực tiễn ở Việt Nam thời gian qua, cần nghiên cứu áp dụng một số giải pháp nhằm triển khai hoạt động hỗ trợ tài chính đối với QTDND được kiểm soát đặc biệt trong thời gian tới như sau:
 
Thứ nhất, cần phát huy vai trò của BHTGVN trong việc tham gia tái cơ cấu, xử lí QTDND yếu kém. Cần đổi mới quan điểm, thực sự coi hỗ trợ tài chính của BHTG là một công cụ, một giải pháp quan trọng trong quá trình xử lí QTDND yếu kém và tạo ra một hành lang pháp lí ưu tiên phù hợp. Đặc biệt là không hình sự hóa hoạt động hỗ trợ tài chính nếu xảy ra thất thoát vốn khi thực thi nhiệm vụ, miễn trách nhiệm hình sự khi có căn cứ không do yếu tố cá nhân hoặc do rủi ro đạo đức... Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị số 06/CT-TTg ngày 12/3/2019 về tăng cường giải pháp nhằm đảm bảo an toàn hoạt động, củng cố vững chắc hệ thống QTDND, trong đó yêu cầu “Phát huy vai trò Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam, BHTGVN trong việc liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính và xử lí khó khăn của các QTDND…” và “Tăng cường vai trò và giao nhiệm vụ Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam và BHTGVN trong việc phối hợp tham gia, hỗ trợ chức năng kiểm tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các QTDND”. Các đơn vị tham gia hoạt động hỗ trợ tài chính phải nhận thức rõ trách nhiệm, quyền hạn của mình, không né tránh và có sự quyết tâm cao. Các TCTD hợp tác nhận hỗ trợ tài chính phải đảm bảo năng lực tiếp nhận hỗ trợ và hoàn trả số tiền hỗ trợ cho BHTGVN khi đến hạn.
 
Thứ hai, áp dụng linh hoạt các hình thức hỗ trợ tài chính như: (i) Gửi tiền vào TCTD được kiểm soát đặc biệt để hỗ trợ phục hồi hoặc gửi tiền vào TCTD hỗ trợ TCTD được kiểm soát đặc biệt thực hiện phương án phục hồi; (ii) Hỗ trợ tổ chức nhận sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp; hỗ trợ tổ chức nhận chuyển giao bắt buộc bằng việc mua trái phiếu dài hạn; (iii) Hỗ trợ tài chính TCTD tiếp nhận, xử lí; (iv) Đề nghị thành lập ngân hàng bắc cầu; (iv) Cử đại diện tham gia là thành viên Tổ giám sát thanh lí (trong trường hợp BHTGVN cho TCTD vay đặc biệt).
 
Thứ ba, từ đổi mới quan điểm, nhận thức và áp dụng kinh nghiệm quốc tế nêu trên, cần hoàn thiện, tạo ra môi trường pháp lí đồng bộ, thuận lợi cho hoạt động BHTG nói chung và hỗ trợ tài chính nói riêng. Cụ thể, nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số nội dung tại Luật BHTG như: (i) Bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG, tổ chức tham gia BHTG trong việc hỗ trợ tài chính và nhận hỗ trợ tài chính; (ii) Bổ sung một chương quy định về những nội dung liên quan đến hỗ trợ tài chính quy định rõ các nội dung như các trường hợp, mục đích, hình thức và nguồn vốn hỗ trợ tài chính, vấn đề xử lí rủi ro, thu hồi khoản hỗ trợ và trách nhiệm của các cơ quan liên quan. Ngoài ra, cần nghiên cứu sửa đổi đồng bộ, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan như Luật Các TCTD, Luật Hợp tác xã; NHNN, Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn về hoạt động hỗ trợ tài chính của BHTGVN... Trong đó, Bộ Tài chính ban hành Thông tư mới hoặc sửa đổi, bổ sung Thông tư quy định về chế độ tài chính của BHTGVN, trong đó quy định về nguồn tiền để BHTGVN thực hiện hỗ trợ tài chính và xử lí tổn thất; bỏ quy định về đảm bảo an toàn vốn trong hỗ trợ tài chính.
 
Thứ tư, nâng cao năng lực tài chính của BHTGVN nhằm triển khai hoạt động hỗ trợ tài chính thông qua các biện pháp như: (i) Cấp bổ sung vốn điều lệ; (ii) Bổ sung cơ chế linh hoạt hơn để BHTGVN đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi vào các kênh sinh lời cao hơn như trái phiếu doanh nghiệp dài hạn của các TCTD uy tín, quy mô phù hợp với tổng nguồn vốn của BHTGVN; (iii) Quản lí chặt chẽ nguồn thu từ phí BHTG và quản lí chi phí hoạt động tiết kiệm, hiệu quả; (iv) Nghiên cứu áp dụng các biện pháp bảo vệ Quỹ BHTG như quy định chi tiết về nguồn vốn dự phòng, xác định một tỉ lệ giới hạn sử dụng Quỹ BHTG cho hoạt động hỗ trợ tài chính... 
 
Trong thời gian tới, nhu cầu sử dụng nguồn lực của BHTGVN để hỗ trợ tài chính cho việc xử lí các QTDND yếu kém là cấp thiết. Các giải pháp hỗ trợ tài chính của BHTGVN với QTDND yếu kém cần được thực hiện một cách đồng bộ, đảm bảo tính hiệu quả, khả thi. Với sự vào cuộc quyết liệt của các cấp quản lí, của hệ thống BHTGVN và các tổ chức tham gia BHTG, hi vọng rằng hỗ trợ tài chính sẽ được triển khai thành công, góp phần tích cực xử lí, chống đổ vỡ, xây dựng một hệ thống TCTD lành mạnh, ổn định và phát triển bền vững, góp phần giữ ổn định trật tự xã hội trên địa bàn hoạt động của các QTDND.
 
¹ Trong phạm vi bài viết này, QTDND yếu kém được hiểu là QTDND được đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.
² IADI (2014), Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống BHTG hiệu quả, Nguyên tắc 9.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
 
1. IMF (2018). Nguồn vốn xử lí lấy từ đâu khi tổ chức tài chính đổ vỡ?
2. IADI (2014). Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống BHTG hiệu quả.
3. IADI (2018). Các vấn đề xử lí TCTD hợp tác - Tổng quan về các đặc điểm và công cụ xử lí.
4. DICJ (2020). Báo cáo thường niên DICJ năm 2019 - 2020.
5. BFG (2019). Báo cáo thường niên của BFG năm 2019.
6. Luật BHTG năm 2012.
7. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các TCTD năm 2017.
8. TS. Hoàng Việt Trung và ThS. Đoàn Thu Trang (2020). Hỗ trợ tài chính của BHTGVN đối với tổ chức tham gia BHTG.  Bản tin BHTG số 50, Quý IV/2020.

TS. Hoàng Việt Trung; ThS. Phạm Thị Phương Thảo 
Trường Đại học Kinh tế Kĩ thuật Công nghiệp
 

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Các rủi ro trên con đường giảm lạm phát toàn cầu
Các rủi ro trên con đường giảm lạm phát toàn cầu
17/09/2024 10:52 423 lượt xem
Theo báo cáo của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS, 2024), nền kinh tế toàn cầu đã để lại phía sau những hậu quả của các cú sốc về hàng hóa và đại dịch Covid-19; lạm phát toàn cầu tiếp tục giảm, nền kinh tế tránh được nguy cơ suy thoái.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Thái Lan cho thanh toán bán lẻ và một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Thái Lan cho thanh toán bán lẻ và một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
11/09/2024 11:39 850 lượt xem
Thái Lan là một trong những quốc gia Đông Nam Á tiên phong thí điểm CBDC với hàng loạt các dự án được nghiên cứu, triển khai từ năm 2018.
Sự điều chỉnh chính sách ngoại thương của Ấn Độ và gợi mở cho Việt Nam
Sự điều chỉnh chính sách ngoại thương của Ấn Độ và gợi mở cho Việt Nam
05/09/2024 09:00 1.439 lượt xem
Bài viết phân tích, đánh giá sự điều chỉnh chính sách ngoại thương năm 2023 so với giai đoạn 2015 - 2020 của Ấn Độ, để thấy rõ sự thay đổi này không chỉ là một động thái chiến lược nhằm tăng cường vị thế kinh tế quốc tế, mà còn là một minh chứng cho sự thay đổi trong tư duy và định hướng phát triển của quốc gia đang trên đà vươn lên trở thành một cường quốc kinh tế toàn cầu.
Một số mô hình Ngân hàng Phát triển trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam
Một số mô hình Ngân hàng Phát triển trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam
01/09/2024 08:20 1.752 lượt xem
Từ trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai, các NHPT đã tồn tại song song với các ngân hàng khác nhưng ở nhiều hình thức và tên gọi khác nhau. Vào thế kỷ 19, nước Mỹ đã hoàn thành công nghiệp hóa, nước Anh và một số quốc gia Trung Âu đã phát triển nền tảng công nghiệp cơ bản.
Phát triển tài chính toàn diện trong bối cảnh chuyển đổi số: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
Phát triển tài chính toàn diện trong bối cảnh chuyển đổi số: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
12/08/2024 10:09 3.192 lượt xem
Bài viết tập trung tìm hiểu về phát triển tài chính toàn diện trong bối cảnh chuyển đổi số ở một số nước trên thế giới và Việt Nam. Qua đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của hệ thống tài chính Việt Nam.
Tại sao các ngân hàng trung ương mua vàng?
Tại sao các ngân hàng trung ương mua vàng?
08/08/2024 09:34 3.350 lượt xem
Hoạt động mua vàng của các ngân hàng trung ương (NHTW) vào cuối năm 2023 lập kỷ lục cao thứ hai sau năm 2022.
Thanh toán xuyên biên giới đang mở rộng
Thanh toán xuyên biên giới đang mở rộng
07/08/2024 08:52 3.120 lượt xem
Ngày 04/6/2024, BIS công bố báo cáo của Ủy ban Thanh toán và hạ tầng thị trường (CPMI) về kết quả điều tra tình hình hoạt động thanh toán xuyên biên giới. Báo cáo nêu rõ, tháng 10/2020, lãnh đạo các nước G20 đã phê chuẩn kế hoạch chiến lược thúc đẩy thanh toán xuyên biên giới.
Tiền số của Ngân hàng Trung ương với khả năng thúc đẩy tài chính toàn diện và tăng cường hiệu quả chính sách tiền tệ
Tiền số của Ngân hàng Trung ương với khả năng thúc đẩy tài chính toàn diện và tăng cường hiệu quả chính sách tiền tệ
27/07/2024 08:04 5.924 lượt xem
Tiền kĩ thuật số của ngân hàng trung ương (CBDC) có khả năng thúc đẩy tài chính toàn diện tại nước ta do có thể mang lại cho những người dân và doanh nghiệp hiện chưa có tài khoản ngân hàng, chưa có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng...
Hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam: Thực trạng và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
Hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam: Thực trạng và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
08/07/2024 08:22 6.082 lượt xem
Bài viết tập trung nghiên cứu, làm rõ thực trạng của hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, trình bày những khó khăn và đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam trong thời gian tới.
Kinh nghiệm một số quốc gia về cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống
Kinh nghiệm một số quốc gia về cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống
03/07/2024 09:19 4.568 lượt xem
Mục tiêu của bài viết nhằm xem xét cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống thông qua những quy định hiện hành tại một số quốc gia; qua đó, đưa ra các hàm ý đối với Việt Nam.
Thực trạng phát triển sản phẩm và dịch vụ tài chính số tại các quốc gia châu Á
Thực trạng phát triển sản phẩm và dịch vụ tài chính số tại các quốc gia châu Á
19/06/2024 09:20 5.125 lượt xem
Dựa trên dữ liệu được thu thập từ các báo cáo về tài chính toàn diện của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nghiên cứu tập trung đánh giá thực trạng tiếp cận các dịch vụ tài chính số tại 19 quốc gia châu Á từ phía chủ thể cung cấp và chủ thể tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ tài chính.
Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư tiền mã hóa của thế hệ Gen Z trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư tiền mã hóa của thế hệ Gen Z trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
06/06/2024 07:25 5.963 lượt xem
Trong kỉ nguyên của công nghệ số, sự xuất hiện của một hình thức tiền tệ số hay tiền mã hóa là hoàn toàn cần thiết để đáp ứng sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ (Milutinovic, 2018). Tiền mã hóa sử dụng công nghệ mã hóa và chuỗi khối (Blockchain) để bảo đảm tính an toàn và bảo mật cho các giao dịch tài chính.
Các yếu tố mang lại thành công của một số ngân hàng phát triển nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam
Các yếu tố mang lại thành công của một số ngân hàng phát triển nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam
24/05/2024 23:29 6.522 lượt xem
Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW), Ngân hàng Phát triển Trung Quốc (CDB) và Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB) là những định chế tài chính phát triển lớn, thành công trên thế giới...
Quốc tế hóa Nhân dân tệ và hợp tác tiền tệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN
Quốc tế hóa Nhân dân tệ và hợp tác tiền tệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN
20/05/2024 08:11 6.824 lượt xem
Đi đôi với phát triển kinh tế, Trung Quốc dần hình thành và triển khai chiến lược bài bản xây dựng và củng cố sức mạnh tài chính - tiền tệ với trọng tâm là phát triển CNY trở thành đồng tiền quốc tế...
Quản lí tiền mã hóa ở một số quốc gia - Kinh nghiệm và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam
Quản lí tiền mã hóa ở một số quốc gia - Kinh nghiệm và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam
16/05/2024 08:03 11.512 lượt xem
Trong kỉ nguyên của nền công nghiệp 4.0, tiền mã hóa là một ứng dụng tiêu biểu của công nghệ số Blockchain. Các loại tiền mã hóa xuất hiện là tất yếu trong quá trình phát triển của các hình thái tiền tệ, đem đến sự phát triển vượt bậc về thương mại điện tử và mở ra cho thị trường tài chính một trang mới.
Giá vàngXem chi tiết

Giá vàng - Xem theo ngày

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

80.000

82.000

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

80.000

82.000

Vàng SJC 5c

80.000

82.020

Vàng nhẫn 9999

77.900

79.200

Vàng nữ trang 9999

77.800

78.800


Ngoại tệXem chi tiết
Tỷ giá - Xem theo ngày 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,360 24,730 26,526 27,982 31,456 32,795 168.91 178.78
BIDV 24,400 24,740 26,774 27,992 31,880 32,828 170.69 178.32
VietinBank 24,373 24,713 26,765 27,965 31,875 32,885 170.38 178.13
Agribank 24,370 24,720 26,681 27,903 31,654 32,768 169.50 178.08
Eximbank 24,340 24,820 26,731 27,759 31,732 32,897 171.16 177.77
ACB 24,360 24,720 26,754 27,687 31,846 32,825 170.62 177.46
Sacombank 24,710 25,050 27,321 28,074 32,561 33,263 169.55 175.56
Techcombank 24,678 25,069 26,942 28,299 32,019 33,351 164.87 177.39
LPBank 24,490 25,250 26,981 28,628 32,421 33,426 167.40 179.30
DongA Bank 24,740 25,050 27,120 27,950 32,280 33,250 166.80 174.30
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,50
2,70
3,50
3,70
4,40
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,80
2,90
3,20
4,20
4,30
4,90
5,00
Techcombank
0,05
-
-
-
3,10
3,10
3,30
4,40
4,40
4,80
4,80
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
2,20
2,20
2,50
3,50
3,50
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,60
3,60
3,60
4,90
4,90
5,30
5,20
Agribank
0,20
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
Eximbank
0,10
0,50
0,50
0,50
3,10
3,30
3,40
4,70
4,30
5,00
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?