Khủng hoảng ngân hàng tại Mỹ: Nguyên nhân và tác động
20/09/2023 17.349 lượt xem
Căng thẳng ngân hàng tại Mỹ bắt đầu xảy ra vào tháng 3/2023, khi Ngân hàng Silicon Valley (SVB) sụp đổ, sau đó lan truyền sang một số ngân hàng khác, làm dấy lên lo ngại về tính ổn định trong khu vực tài chính. Do đó, việc nghiên cứu các yếu tố dẫn đến khủng hoảng ngân hàng, biện pháp xử lí của cơ quan quản lí, tác động của nó cũng như bài học kinh nghiệm rút ra là hết sức cần thiết.

Các yếu tố dẫn đến khủng hoảng ngân hàng

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự sụp đổ của SVB là do cách thức lựa chọn phương thức quản lí rủi ro, sai lầm trong cơ cấu quản lí và giám sát ngân hàng, các động thái chính sách của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed). Một yếu tố quan trọng dẫn đến hoạt động liều lĩnh tại các ngân hàng và khủng hoảng ngân hàng gần đây bắt nguồn từ các quyết định của Fed về việc duy trì lãi suất gần bằng “0” trong thời gian dài từ năm 2009 đến năm 2022, áp dụng mức dự trữ bắt buộc gần bằng “0” đối với các ngân hàng sau đại dịch Covid-19 và tạm hoãn tăng lãi suất chính sách trong năm 2021, cho dù áp lực lạm phát có dấu hiệu leo thang. Quyết định của Fed trong năm 2021 cũng chệch hướng khỏi quy định của Quy luật Taylor, vốn được áp dụng từ năm 1995.

 

Trong môi trường lãi suất thấp, SVB đã sử dụng lượng tiền gửi tăng cao nhanh chóng (chủ yếu của các quỹ đầu tư mạo hiểm) để đầu tư vào chứng khoán dài hạn với hi vọng sẽ thu lợi nhuận cao. Năm 2021, với trên 95% tổng tiền gửi tại SVB là tiền gửi không kì hạn và 90% tiền gửi vượt giới hạn bảo hiểm 250.000 USD theo quy định của Công ty Bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC). Vào thời điểm cuối năm 2022, có tới 96% trong số 173 tỉ USD tiền gửi là tiền gửi không bảo đảm, cũng do vượt ngưỡng 250.000 USD theo quy định của FDIC. Khi lãi suất tăng cao và khách hàng rút tiền gửi ồ ạt khỏi SVB để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn bên ngoài ngân hàng này, SVB không thể đáp ứng kịp nhu cầu và phải bán tháo chứng khoán với mức thua lỗ rất lớn (do giá trị của những chứng khoán này bị sụt giảm mạnh trong bối cảnh lãi suất tăng cao). Dẫn đến tình trạng mất niềm tin của người gửi tiền, làm trầm trọng thêm làn sóng rút tiền khỏi ngân hàng này.

Tại SVB, chênh lệch kì hạn mở rộng do nó hình thành theo thời gian cùng với xu hướng gia tăng bảng cân đối kế toán. Với tổng tài sản khoảng 209 tỉ USD vào cuối năm 2022, SVB là ngân hàng lớn thứ 16 tại Mỹ, chiếm trên 0,9% tổng tài sản của khu vực ngân hàng, cung cấp trên 50% vốn đầu tư mạo hiểm tại Mỹ và các sản phẩm dịch vụ cho hàng loạt start-ups công nghệ và y tế. Trong ba năm qua, bảng cân đối tài chính của SVB tăng gấp ba lần, cao hơn nhiều so với mức tăng trung bình 39% của hệ thống ngân hàng Mỹ. Cũng trong thời gian này, SVB tiếp nhận lượng tiền gửi khổng lồ từ những start-ups này, chủ yếu dưới dạng tiền gửi không kì hạn. SVB cũng xây dựng danh mục đầu tư gián tiếp rất lớn với trái phiếu kho bạc kì hạn dài và chứng khoán cầm cố (120 tỉ USD), với mức thua lỗ trên sổ sách vào khoảng 17 tỉ USD (14,8%) và có thể được hấp thụ hoàn toàn bằng nguồn vốn của ngân hàng này. Sau tháng 12/2022, những khoản đầu tư này không được bảo lãnh trước rủi ro do lãi suất tiếp tục tăng cao.

Làn sóng rút tiền gửi ồ ạt của các nhà đầu tư tập trung đã kích hoạt sự sụp đổ của SVB, gây áp lực lên thanh khoản của ngân hàng này: Động thái bán 21 tỉ USD trái phiếu dự kiến gây tổn thất 1,8 tỉ USD. Để tự tái cấp vốn, SVB đã cố gắng bổ sung 2,25 tỉ USD vốn trực tiếp vào bảng cân đối tài chính, nhưng nỗ lực này thất bại, nguyên nhân có thể là do các nhân viên quản lí chủ chốt của SVB đã bán cổ phiếu từ hai tuần lễ trước đó. Ngày 10/3/2023, căng thẳng tài chính mới tại SVB đã dẫn đến làn sóng rút tiền trực tuyến khỏi ngân hàng này, một sự kiện được cho là kết hợp với những yếu kém trong việc phân bổ nguồn vốn. Một vài doanh nghiệp không kịp phân tán rủi ro thông qua gửi tiền ở nhiều ngân hàng khác nhau, trong đó một số doanh nghiệp gửi toàn bộ tiền dư thừa vào SVB. Hôm đó, SVB mất 25% tiền gửi (42 tỉ USD). Cuối cùng, cơ quản quản lí Mỹ quyết định thu hồi giấy phép và đóng cửa SVB.

Dư luận cho rằng, các cơ quan quản lí Mỹ có vẻ ưu tiên “chữa cháy hơn phòng cháy”. Sau đó, một ngân hàng lớn khác đổ vỡ, Ngân hàng Signature (Signature Bank - SB). Đây là ngân hàng lớn thứ ba (với tổng tài sản 110 tỉ USD) phải đóng cửa trong lịch sử nước Mỹ, và sự cố diễn ra chỉ sau hai ngày SVB bị phá sản. Khi đó, Fed, Bộ Tài chính và FDIC mới bắt đầu có động thái ngăn ngừa rủi ro lan truyền và duy trì ổn định tài chính. Cụ thể là, Bộ Tài chính Mỹ quyết định bảo lãnh toàn bộ tiền gửi của khách hàng tại hai ngân hàng này. Ngoài ra, Fed đã triển khai Chương trình Tài trợ ngân hàng có kì hạn (BTFP) để các ngân hàng có thể tiếp cận thanh khoản mà không phải bán rẻ chứng khoán. Với động thái can thiệp kịp thời này, các nhà tạo lập chính sách tại Mỹ khẳng định hệ thống ngân hàng Mỹ vẫn an toàn.

Bên cạnh các yếu tố chủ quan, quản lí rủi ro “nghèo nàn” của SVB cũng bắt nguồn từ những thiếu sót trong cơ chế quản lí. SVB là ngân hàng thương mại đa quốc gia do nhà nước quản lí và chịu sự giám sát trực tiếp của Fed. Tuy nhiên, ngân hàng này cũng nằm dưới sự giám sát của bang California, phân công lao động giữa hai cơ quan này được cho là chưa tối ưu. Thí dụ, SVB đã nâng sự lệ thuộc về nguồn vốn vay từ ngân hàng cho vay mua nhà liên bang (FHLB) tại San Francisco (từ 0 USD vào cuối năm 2021 lên 15 tỉ USD vào cuối năm 2022) mà không thông báo. Nghiệp vụ này được cho là cho vay cuối cùng lần hai (vô tình, hệ thống FHLB đã bán 88,7 tỉ USD tài sản nợ ngắn hạn để tăng vốn dự phòng).

Về bản chất, SVB là hình ảnh thu nhỏ về cách thức quản lí rủi ro sai lầm - tiếp nhận tiền gửi được đánh giá là rất hỗn độn từ start-ups (những start-ups này tạm gửi nguồn quỹ đầu tư mạo hiểm), sau đó sử dụng cổ phiếu của bên liên quan trong start-ups đó để vay thế chấp và đầu tư quá mức vào chứng khoán cầm cố dài hạn vào thời điểm đường cong lợi suất đảo chiều mạnh, chèn ép tỉ suất lợi nhuận ròng. Các đợt tăng lãi suất cấp tập của các NHTW để chống lạm phát đã gây tổn thương bảng cân đối tài chính (dẫn đến các khoản lỗ trên dự tính vượt quá cơ sở vốn của ngân hàng), nó cũng gây khó khăn kinh tế cho người gửi tiền tại các start-ups, vốn được cho là đã rút tiền từ lâu, trước khi nguồn tiền gửi tại SVB giảm. 

Sau sự cố này, các nhà tạo lập chính sách và thị trường đã xác định nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng. Cụ thể là, đổ vỡ SVB bắt nguồn từ bốn yếu tố cơ bản: (i) Lãi suất chính sách tăng nhanh, gây tác động đảo ngược đến thu nhập của SVB và bảng cân đối kế toán; (ii) Sai lầm của SVB trong việc quản lí sai lệch kì hạn; (iii) Sai lầm của các cơ quan quản lí và giám sát trong việc phát hiện và xử lí các vấn đề xảy ra; (iv) Sai lầm bắt nguồn từ việc sửa đổi Đạo luật Dodd-Frank vào năm 2018, bắt buộc các ngân hàng trung bình phải đáp ứng yêu cầu khắt khe hơn, vốn trước đó chỉ áp dụng đối với những ngân hàng lớn. Ngoài ra phải kể đến một yếu tố nữa và cũng phổ biến tại các ngân hàng thời kì hậu đại dịch Covid-19, đó là đa phần nhân viên quản lí rủi ro đều làm việc trực tuyến từ nhà, có thể ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả công việc.

Sau khủng hoảng SVB, nhiều người gửi tiền bắt đầu chuyển tiền gửi không bảo đảm từ các ngân hàng nhỏ và vừa tại Mỹ sang các ngân hàng lớn. Trong số này có First Republic Bank (FRB) - ngân hàng thương mại có trụ sở tại California - chuyên cung cấp dịch vụ cho các cá nhân có nhiều tài sản ròng. Đến cuối tháng 3/2023, người gửi tiền rút khoảng 105 tỉ USD khỏi FRB, gần bằng 50% tổng tài sản 213 tỉ USD của ngân hàng này. Lượng tiền gửi không bảo đảm chiếm khoảng 68% tỉ USD tiền gửi tại ngân hàng này, thấp hơn tỉ lệ 90% tại SVB. Giữa tháng 3/2023, Standard & Poor’s đã hạ mức tín nhiệm của FRB, dẫn đến việc thành lập nghiệp đoàn tạm thời của 11 ngân hàng lớn (bao gồm JPMorgan Chase và Bank of America) để cứu vớt ngân hàng này. Nghiệp đoàn đã nâng vốn của FRB với 30 tỉ USD tiền gửi, nhưng không chặn được đà sụt giảm giá cổ phiếu của FRB. Bản thân FRB cũng không thể tận dụng được BTFP, do gần 60% chứng khoán đầu tư của ngân hàng này là trái phiếu đô thị nên không thể đạt tiêu chuẩn thế chấp theo quy định. Cũng như SVB, ngày 28/4/2023, FRB bắt đầu bán tài sản dài hạn để cắt lỗ nhằm tăng cổ phần. Cũng trong ngày 28/4/2023, khi FDIC thông báo tiếp quản FRB, giá cổ phiếu giao dịch của FRB giảm tới 43%. Sau vài giờ giao dịch, giá cổ phiếu tiếp tục giảm sâu, FDIC đã tiếp cận một số ngân hàng khác nhau và tiến hành đấu giá FRB sau hai ngày chuẩn bị. Ngày 01/5/2023, FDIC đã tiếp quản FRB. Cùng ngày, Ngân hàng JPMorgan Chase đã thắng thầu và chi trả 10,6 tỉ USD để mua lại phần lớn tài sản của FRB.

FRB và SVB có nhiều đặc điểm giống nhau: (i) Cả hai ngân hàng có lượng tiền gửi không đảm bảo rất cao và người gửi tiền có thể rút tiền thông qua nghiệp vụ ngân hàng điện tử sau một thông báo ngắn gọn; (ii) Cả hai ngân hàng đều nắm giữ phần lớn tài sản dưới dạng trái phiếu dài hạn, nên rất dễ vấp phải rủi ro kì hạn nhưng cả hai ngân hàng đều không trích lập quỹ dự phòng rủi ro; (iii) Hai ngân hàng có nhóm khách hàng đặc biệt (tư bản mạo hiểm tại SVB và cá nhân có nhiều tài sản ròng tại FRB); (iv) Cả hai ngân hàng đối mặt với tình trạng giá cổ phiếu sụp đổ trước khi FDIC can thiệp.

Với tổng tài sản 212 tỉ USD, FRB là ngân hàng lớn thứ hai bị phá sản kể từ sự sụp đổ của ngân hàng Washington Mutual năm 2008, là ngân hàng hàng đầu thứ ba sụp đổ trong năm 2023, sau SVB và Signature Bank. Cả ba ngân hàng này đối mặt với tổn thất hạch toán theo giá thị trường về trái phiếu kho bạc và rủi ro cơ cấu về cơ sở tiền gửi. Mặc dù đa phần các chuyên gia kinh tế đều cho rằng, sự sụp đổ của ba ngân hàng này sẽ không ảnh hưởng đến khu vực tài chính, vốn được cho là vẫn bền vững sau các giải pháp củng cố hệ thống ngân hàng sau khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2007 - 2009, nhưng niềm tin của người dân đối với các ngân hàng nhỏ và vừa trong nước đã bị xói mòn và nguy cơ rút tiền gửi ồ ạt vẫn đe dọa khu vực ngân hàng.

Bên ngoài nước Mỹ, sau khi SVB phá sản, Credit Suisse (CS) - một trong số ngân hàng có tên tuổi tại Thụy Sỹ, đã bị bán cho UBS (ngân hàng lớn nhất Thụy Sỹ) nhằm tránh phá sản. Cuối năm 2022, tài sản của CS lên tới 1,5 nghìn tỉ USD với trên 50.000 nhân viên làm việc tại 150 chi nhánh tại 50 nước trên thế giới. Không như SVB và FRB, nguyên nhân đổ vỡ CS bắt nguồn từ những yếu tố hoàn toàn khác. CS từng dính nhiều bê bối và sai lầm về quản lí, dẫn đến những thua lỗ trầm trọng trước khi bán cho UBS. Năm 2020, giám đốc điều hành CS phải từ chức sau vụ bê bối gián điệp; năm 2021, CS tổn thất 1 tỉ USD do Quỹ đầu cơ Archegos sụp đổ. Năm 2022, Chủ tịch Ủy ban điều hành CS từ chức, đến cuối mùa hè, có tin đồn là ngân hàng này sắp vỡ nợ, dẫn đến làn sóng rút tiền ồ ạt với 119 tỉ USD trong quý IV/2022. Đầu năm 2023, CS lên kế hoạch vay vốn để hỗ trợ thanh khoản và củng cố niềm tin của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi ngân hàng hỗ trợ chủ chốt - Ngân hàng Quốc gia Ả rập không thể bơm vốn cho vay, cơ quan quản lí quốc gia cho phép UBS tiếp quản CS mà không cần cổ đông thông qua.

Sau khi SVB sụp đổ, Fed đã tiến hành rà soát tổng thể và chỉ ra bốn hạn chế cơ bản: Một là, sai lầm của lãnh đạo SVB và cách thức quản lí rủi ro; Hai là, cơ quan giám sát của Fed không đánh giá đầy đủ mức độ nghiêm trọng về quản trị SVB, thanh khoản và quản lí rủi ro lãi suất; Ba là, khi xác định mức độ tổn thương, cơ quan giám sát của Fed không tiến hành các biện pháp đủ mạnh để cải thiện tình hình tại SVB; Bốn là, trong vài năm vừa qua, Fed đã thay đổi chính sách quản lí và giám sát nhằm đối phó với sự kết hợp giữa những thay đổi pháp lí bên ngoài và các lựa chọn chính sách nội bộ.

Báo cáo không đầy đủ của Fed là yếu tố chủ chốt gây ra sự đổ vỡ SVB và các ngân hàng địa phương sau đó, nhất là quyết định của Fed duy trì lãi suất gần bằng “0” trong thời gian dài từ năm 2009 đến năm 2022 và lặp lại chu kì tăng lãi suất cấp tập trong 12 tháng bắt đầu từ tháng 3/2022 với 9 đợt tăng lãi suất, đưa mặt bằng lãi suất chính sách từ 0-0,25% lên 4,75-5,0%. Gần đây nhất, ngày 26/7/2023, Fed tiếp tục tăng lãi suất thêm 0,25% lên 5,25% - 5,5% - mức cao nhất trong 16 năm qua.  

Việc duy trì mặt bằng lãi suất thấp trong thời gian dài và các giải pháp nới lỏng định lượng đã tạo ra kì vọng là lãi suất sẽ được duy trì ở mức thấp, gây ra hai tác động cơ bản đến nền kinh tế Mỹ. Thứ nhất, trong môi trường lãi suất thấp, tiền gửi không kì hạn tăng mạnh, nhưng các ngân hàng lại sử dụng để mua chứng khoán dài hạn với lợi suất cao nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Thứ hai, với mặt bằng lãi suất thấp trong thời gian dài, các ngân hàng và thị trường tin rằng, lãi suất tăng nhanh trong năm qua chỉ mang tính tạm thời, như trong giai đoạn 2016 - 2019. Trong khi đó, tiến bộ công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng đã góp phần rút ngắn thời gian rút tiền gửi, nghĩa là làn sóng rút tiền ồ ạt sẽ diễn ra nhanh hơn so với trong thập kỉ trước. 

Tác động của khủng hoảng ngân hàng tại Mỹ

Ngay sau khi SVB sụp đổ, các ngân hàng tại Mỹ bắt đầu thắt chặt tín dụng. Kế hoạch xử lí SVB đã gây tốn kém cho một số ngân hàng khác tại Mỹ, những ngân hàng này sẽ thanh toán hóa đơn để lấp lỗ hổng tiền gửi (mặc dù chi phí FDIC cao hơn); hoảng loạn tâm lí cũng gây ra một tác động gián tiếp khác trong khu vực ngân hàng, khi Fed có vẻ sẽ sẵn sàng ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ ngân hàng. Trong ngắn hạn, điều kiện tài chính trong nền kinh tế Mỹ và một số nước khác sẽ tiếp tục căng thẳng, khi các ngân hàng thắt chặt tiêu chuẩn cho vay và thận trọng trong việc duy trì vị thế thanh khoản, dẫn đến hệ quả tăng trưởng tín dụng thấp đi.

Một số chuyên gia cho rằng, Fed đang đối mặt với tình thế khó khăn giữa hai mục tiêu cốt lõi là ổn định tài chính và ổn định giá cả. Áp lực giá cả vẫn tăng cao, lạm phát lõi vẫn chưa quay đầu giảm. Mặt khác, lợi suất trái phiếu thấp và động thái hỗ trợ thanh khoản từ Fed (thông qua chương trình hỗ trợ có thời hạn cho các ngân hàng và công cụ mua lại hiện nay) có thể nới lỏng điều kiện tài chính. Điều kiện tài chính nới lỏng sẽ gây khó khăn cho Fed trong việc kéo giảm lạm phát, có thể khiến giá cả chao đảo mạnh hơn và kì vọng lạm phát tăng cao. 

Trong chừng mực nào đó, khủng hoảng năng lượng và lạm phát có thể dẫn đến khủng hoảng tín dụng do các động thái thắt chặt tiền tệ đột ngột có thể tạo ra tình trạng phân bổ sai các nguồn vốn trên thị trường và gia tăng áp lực lên các ngân hàng, tăng thêm sai lệch kì hạn giữa tài sản có và tài sản nợ. Sự kiện SVB được nhìn nhận là chỉ báo sớm về xu hướng gia tăng cọ xát trong hệ thống tài chính. Trong trường hợp của Mỹ, biện pháp bảo vệ người gửi tiền đã củng cố niềm tin nhưng cũng dẫn đến những căng thẳng tài khóa tiềm tàng, nếu nhiều ngân hàng đối mặt với thách thức của thị trường về các khoản lỗ trên giấy bắt nguồn từ việc nắm giữ thu nhập cố định. Tuy nhiên, lo ngại về CS (một trong số đại lí sơ cấp của Fed) cho thấy, nguy cơ lan truyền rủi ro vẫn hiện hữu, thị trường vẫn căng thẳng cho đến khi có thông báo ngân hàng này sẽ được vay tới 50 tỉ CHF từ Ngân hàng Quốc gia Thụy Sỹ để đáp ứng nhu cầu cho vay và đảm bảo thanh khoản ngắn hạn. Áp lực lên CS tăng cao trong một thời gian, khi giá cổ phiếu của ngân hàng này giảm tới 80% so với đầu năm và tiếp tục giảm sâu. Vì thế, đổ vỡ CS có thể gây tác động lan truyền rất lớn.

Nỗ lực của các cơ quan quản lí Mỹ đã ngăn chặn được nguy cơ lan truyền rủi ro sang phần còn lại trên thế giới, trong bối cảnh các ngân hàng đã bền vững hơn sau khủng hoảng tài chính toàn cầu và những cú sốc gần đây, nhất là đại dịch Covid-19 và xung đột quân sự Nga - Ukraine.

Tại châu Âu, năng lực của các ngân hàng đã cải thiện đáng kể trong thập kỉ qua, nhờ đó đã giảm thiểu tác động lan truyền từ SVB. Nợ xấu giảm từ tỉ lệ trên 7% dư nợ cho vay xuống dưới 3%, trong khi tỉ trọng vốn cổ phần cấp 1 (CET1) tăng trên 2% (và đang tiến sát mức vốn của các ngân hàng ngang hàng tại Mỹ). Thanh khoản cũng cải thiện, với tỉ trọng thanh khoản an toàn (LCR) tăng từ 125% vào năm 2015 lên 150% vào năm 2022, vượt xa tỉ trọng bắt buộc tối thiểu 100%. Tuy nhiên, các ngân hàng chủ chốt tại Mỹ vẫn có tỉ lệ sinh lời trung bình cao hơn, với tỉ lệ lãi trên cổ phần (ROE) cao hơn 3%, hệ số giá (giá trị sổ sách P/B) cũng cao hơn. Khi mở rộng điều tra sang các ngân hàng nhỏ hơn, các ngân hàng châu Âu nhìn chung đều mạnh hơn. 

Về cơ bản, các ngân hàng châu Âu đã rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng nợ quốc gia. Tuy nhiên, một số nước vẫn dễ bị tổn thương do các ngân hàng đang nắm giữ quá nhiều chứng khoán nợ trong nước trong khi các ngân hàng cần tài sản dễ chuyển đổi. Rủi ro này có thể trở thành hiện thực theo hai hướng: Khi khó khăn chuyển từ khu vực ngân hàng sang chi phí tài khóa và khi giá cả các khoản nợ quốc gia cản trở các ngân hàng trong việc nắm giữ nợ công trên bảng cân đối tài chính. Đây là vấn đề rất rõ ràng, khi việc nắm giữ nợ công được ghi chép theo giá thị trường. Mối liên hệ ngân hàng - quốc gia đặt ra những rủi ro trầm trọng đối với ổn định tài chính và mới chỉ được xử lí phần nào trong những năm gần đây.    

Tại khu vực đồng Euro (Eurozone), khung khổ giám sát và xử lí ngân hàng đã cải thiện đáng kể. Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và khủng hoảng nợ quốc gia sau đó tại châu Âu đã nhấn mạnh sự cần thiết của Liên minh Ngân hàng (BU), với sự áp dụng thống nhất các quy định về ngân hàng nhằm ổn định tài chính và tăng cường tính bền vững ngân hàng.  

Hoạt động của BU dựa trên hai trụ cột: Cơ chế Giám sát duy nhất (SSM - Single Supervisory Mechanism) và Cơ chế giải quyết độc lập (Single Resolution. Mechanism - SRM). Thành viên của SSM bao gồm Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và các cơ quan giám sát quốc gia, về bản chất là hệ thống giám sát ngân hàng thống nhất tại châu Âu với mục tiêu là đảm bảo an toàn và bền vững hệ thống ngân hàng EU, tăng cường liên kết và ổn định tài chính. SRM bao gồm Ủy ban Xử lí độc lập (SRB), cơ quan xử lí trung tâm tại BU và các cơ quan xử lí quốc gia. Nhiệm vụ của SRM là xúc tiến ổn định tài chính, cung cấp các công cụ xử lí những ngân hàng yếu kém một cách trật tự (không gây tác động đáng kể đến tình hình kinh tế và nền tài chính công) và bảo vệ người nộp thuế liên quan đến sự tham gia của các nước EU vào việc cứu vớt ngân hàng khi có sự cố xảy ra. Tuy nhiên, trụ cột thứ ba của BU là Kế hoạch Bảo hiểm tiền gửi (EDIS), có thể sẽ đưa ra mức độ bảo hiểm tiền gửi đồng đều hơn so với các sơ đồ bảo lãnh tiền gửi quốc gia hiện nay, nhưng kế hoạch này chưa hoàn tất.

Quỹ xử lí độc lập (SRF) là cơ chế đầu tiên và cao nhất về “dập lửa” - nó trực thuộc SRM và là nguồn quỹ khẩn cấp, được sử dụng sau khi khai thác hết những lựa chọn khác. Thông qua SRF, ngành tài chính sẽ tự bảo đảm được ổn định hệ thống tài chính, không cần đến nguồn tiền nộp thuế của người dân. Hằng năm, các ngân hàng có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ này theo quy định pháp lí; năm 2022, SRF có 66 tỉ EUR. Đến cuối năm 2023, SRF cần đạt tối thiểu 1% lượng tiền gửi tại các ngân hàng thuộc BU.

Cải cách Cơ chế Ổn định châu Âu (ESM) đã tạo ra công cụ ngăn ngừa chung của BU, có tác dụng hỗ trợ “dập lửa” để quản lí ngân hàng yếu. Cơ chế hoạt động là, trong trường hợp SRF cạn kiệt nguồn vốn, ESM có thể cho SRF vay để xử lí sự cố ngân hàng. ESM là nguồn lực cuối cùng và sẽ cung cấp dòng tín dụng quay vòng, với mức vốn an toàn được ấn định khoảng 68 tỉ EUR. Công cụ ngăn ngừa và SRF sẽ giúp châu Âu xử lí khó khăn trong lĩnh vực ngân hàng, kể cả tình huống xảy ra khủng hoảng hệ thống trầm trọng.

Tác động đối với Việt Nam

Về cơ bản, khủng hoảng ngân hàng tại Mỹ hầu như không gây tác động lan truyền đến những khu vực khác trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Thứ nhất, các ngân hàng thương mại Việt Nam nắm giữ ít trái phiếu chính phủ hơn nhiều so với các ngân hàng Mỹ với kì hạn 3 - 5 năm, trong khi trái phiếu chính phủ Mỹ có kì hạn tới 30 năm. Vì thế, mức độ rủi ro rất thấp; Thứ hai, Việt Nam đã nhanh chóng vượt qua đại dịch Covid-19 và GDP vẫn tăng khá cao, nên, về cơ bản, hoạt động của các doanh nghiệp và ngân hàng vẫn ổn định; Thứ ba, lạm phát tại Việt Nam không cao như tại nhiều nước khác trên thế giới, nên từ đầu năm đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã tiến hành 04 đợt điều chỉnh giảm lãi suất chính sách với mức giảm 0,5 - 2%/năm. Trên thực tế, NHNN vẫn còn dư địa để giảm lãi suất nhiều hơn. Vì thế, ngay cả trong trường hợp nắm giữ nhiều trái phiếu chính phủ, các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ chỉ chịu thiệt hại ở mức thấp.

Trong giai đoạn 2010 - 2015, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua nhiều khó khăn, buộc NHNN thắt chặt các quy định về hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nhờ đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã ổn định và bền vững hơn nhiều so với trước đây. Hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã áp dụng Basel II với nhiều công cụ, giải pháp để đảm bảo an toàn hệ thống. Thậm chí, một số ngân hàng đã tuân thủ các quy định Basel III. Hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động với chuẩn mực cao hơn chính là nền tảng quan trọng để củng cố niềm tin thị trường, góp phần thúc đẩy sự phát triển và an toàn hệ thống ngân hàng.

Đáng chú ý là, NHNN luôn chủ động và sẵn sàng can thiệp để ổn định thị trường, phản ứng nhanh, hiệu quả khi một tổ chức tín dụng (TCTD) nào đó có dấu hiệu nghi ngờ. Năm 2022, SCB bộc lộ khó khăn, nhưng không gây đổ vỡ lan truyền, một phần nhờ phản ứng linh hoạt và kịp thời của Chính phủ và NHNN, một phần nhờ niềm tin thị trường đã được củng cố trong một thời gian khá dài.

Một số bài học kinh nghiệm  

Mặc dù khủng hoảng ngân hàng tại Mỹ không lan truyền sang Việt Nam, nhưng NHNN và các cơ quan quản lí liên quan vẫn cần chủ động để phòng tránh rủi ro, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD. Một số bài học kinh nghiệm chủ yếu rút ra qua sự đổ vỡ ngân hàng của Mỹ là:

Một là, các chính sách của Chính phủ và bộ, ngành ban hành phải hướng đến việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Coi đây là mục tiêu và nền tảng giúp nền kinh tế tăng trưởng bền vững. Kiểm soát lạm phát ở mức hợp lí, mặt bằng lãi suất, tỉ giá phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các biện pháp kích thích phục hồi kinh tế.

Hai là, luôn tăng cường các cơ chế quản lí, giám sát hoạt động ngân hàng cũng như theo dõi và đánh giá sát tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Rà soát lại các yếu tố đảm bảo an toàn theo các tiêu chuẩn Basel để sửa đổi, bổ sung những chỉ tiêu còn thiếu hoặc chưa phù hợp, kiểm soát chặt chẽ việc tuân thủ các quy định thận trọng trong hoạt động ngân hàng.

Ba là, tăng cường công tác truyền thông kịp thời về các giải pháp “giải cứu” cũng như cam kết của Chính phủ và NHNN về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền khi có ngân hàng bị sự cố, để trấn an dư luận, ngăn chặn việc rút tiền hàng loạt. Đồng thời, phải xây dựng cơ chế xử lí ngân hàng đổ vỡ để tránh làn sóng rút tiền hàng loạt.

Bốn là, giám sát tác động của tiến bộ công nghệ đến hoạt động ngân hàng, nhất là dịch vụ ngân hàng trực tuyến, làm cơ sở để đưa ra biện pháp quản lí phù hợp, góp phần ổn định hệ thống ngân hàng. Về phía các TCTD, cần tiếp tục nâng cao năng lực về vốn và các biện pháp đảm bảo an toàn, hướng tới các chuẩn mực Basel mới...

Năm là, tăng cường hơn nữa vai trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (có thể trao thêm các công cụ giám sát, kiểm tra) để tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có thể can thiệp sớm hơn.

Việc nghiên cứu kinh nghiệm trên thế giới bao gồm cả những thành công và thất bại về vấn đề đảm bảo an toàn ngân hàng là hết sức cần thiết và hữu ích cho Việt Nam trong quá trình hội nhập tài chính, tiền tệ quốc tế.

Nguồn tham khảo:

1. Allianz Research: US bank failures - What’s next?
2. Policy Center for the New South: Khủng hoảng ngân hàng và chính sách tiền tệ của Mỹ.

 

Vũ Xuân Thanh (NHNN) 

 

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam: Thực trạng và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
Hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam: Thực trạng và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
08/07/2024 1.295 lượt xem
Bài viết tập trung nghiên cứu, làm rõ thực trạng của hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, trình bày những khó khăn và đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam trong thời gian tới.
Kinh nghiệm một số quốc gia về cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống
Kinh nghiệm một số quốc gia về cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống
03/07/2024 1.831 lượt xem
Mục tiêu của bài viết nhằm xem xét cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống thông qua những quy định hiện hành tại một số quốc gia; qua đó, đưa ra các hàm ý đối với Việt Nam.
Thực trạng phát triển sản phẩm và dịch vụ tài chính số tại các quốc gia châu Á
Thực trạng phát triển sản phẩm và dịch vụ tài chính số tại các quốc gia châu Á
19/06/2024 2.459 lượt xem
Dựa trên dữ liệu được thu thập từ các báo cáo về tài chính toàn diện của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nghiên cứu tập trung đánh giá thực trạng tiếp cận các dịch vụ tài chính số tại 19 quốc gia châu Á từ phía chủ thể cung cấp và chủ thể tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ tài chính.
Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư tiền mã hóa của thế hệ Gen Z trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư tiền mã hóa của thế hệ Gen Z trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
06/06/2024 3.318 lượt xem
Trong kỉ nguyên của công nghệ số, sự xuất hiện của một hình thức tiền tệ số hay tiền mã hóa là hoàn toàn cần thiết để đáp ứng sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ (Milutinovic, 2018). Tiền mã hóa sử dụng công nghệ mã hóa và chuỗi khối (Blockchain) để bảo đảm tính an toàn và bảo mật cho các giao dịch tài chính.
Các yếu tố mang lại thành công của một số ngân hàng phát triển nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam
Các yếu tố mang lại thành công của một số ngân hàng phát triển nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam
24/05/2024 4.188 lượt xem
Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW), Ngân hàng Phát triển Trung Quốc (CDB) và Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB) là những định chế tài chính phát triển lớn, thành công trên thế giới...
Quốc tế hóa Nhân dân tệ và hợp tác tiền tệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN
Quốc tế hóa Nhân dân tệ và hợp tác tiền tệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN
20/05/2024 4.289 lượt xem
Đi đôi với phát triển kinh tế, Trung Quốc dần hình thành và triển khai chiến lược bài bản xây dựng và củng cố sức mạnh tài chính - tiền tệ với trọng tâm là phát triển CNY trở thành đồng tiền quốc tế...
Quản lí tiền mã hóa ở một số quốc gia - Kinh nghiệm và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam
Quản lí tiền mã hóa ở một số quốc gia - Kinh nghiệm và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam
16/05/2024 5.860 lượt xem
Trong kỉ nguyên của nền công nghiệp 4.0, tiền mã hóa là một ứng dụng tiêu biểu của công nghệ số Blockchain. Các loại tiền mã hóa xuất hiện là tất yếu trong quá trình phát triển của các hình thái tiền tệ, đem đến sự phát triển vượt bậc về thương mại điện tử và mở ra cho thị trường tài chính một trang mới.
Tác động của thực thi ESG đến hệ thống ngân hàng: Góc nhìn từ Việt Nam và tham chiếu thế giới
Tác động của thực thi ESG đến hệ thống ngân hàng: Góc nhìn từ Việt Nam và tham chiếu thế giới
08/05/2024 4.929 lượt xem
Trong những năm qua, đại dịch Covid-19 đã gây rất nhiều khó khăn, tổn thất về người, kinh tế cho các doanh nghiệp nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Tuy nhiên, thống kê cho thấy, doanh nghiệp nào theo đuổi chiến lược phát triển bền vững, công bố các chỉ tiêu ESG (Enviromental - môi trường, Social - xã hội, Governance - quản trị) trong nhiều năm qua luôn thu hút được sự đồng hành của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
16/04/2024 5.719 lượt xem
Chính sách tín dụng nông thôn (tín dụng nông thôn) ở Brazil là các chương trình cho vay nhằm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, năng suất và đầu tư; nâng cao thu nhập của các trang trại và doanh nghiệp; nâng cao mức sống của người dân nông thôn.
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
04/04/2024 7.398 lượt xem
Bài viết phân tích, đánh giá một số kinh nghiệm quốc tế về cơ cấu thu NSNN bền vững thông qua bốn loại thuế, gồm: Thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT, thuế TTĐB. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị để hoàn thiện cơ cấu thu NSNN bền vững, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam.
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
21/03/2024 9.039 lượt xem
Hệ thống hưu trí là một bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội với hai hệ thống hưu trí bắt buộc và hệ thống hưu trí tự nguyện. Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp ở các nước trên thế giới rất quan trọng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
19/03/2024 27.711 lượt xem
Năm 2023, kinh tế thế giới phục hồi yếu và không đồng đều giữa các nền kinh tế chủ chốt. Hoạt động sản xuất, từ sản lượng công nghiệp đến hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế đều giảm.
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
07/03/2024 10.149 lượt xem
Những thay đổi về nhân khẩu học toàn cầu, đặc biệt là xu hướng già hóa dân số đang đặt ra những thách thức và rủi ro lớn cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
03/03/2024 14.751 lượt xem
Sau gần hai năm thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và đưa lạm phát của nền kinh tế Hoa Kỳ về gần lạm phát mục tiêu là 2%, trong năm 2024, dự kiến Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ có những thay đổi lớn trong điều hành chính sách tiền tệ.
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
15/02/2024 10.279 lượt xem
Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng trong việc tăng cường và bảo vệ giá trị của tổ chức thông qua chức năng cung cấp sự đảm bảo, tư vấn khách quan, chuyên sâu và theo định hướng rủi ro.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

Vàng SJC 5c

77.500

79.520

Vàng nhẫn 9999

75.600

77.000

Vàng nữ trang 9999

75.500

76.600


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,127 25,477 26,885 28,360 31,917 33,274 156.80 165.96
BIDV 25,157 25,477 27,090 28,390 32,186 33,429 157.71 166.56
VietinBank 25,157 25,477 27,180 28,380 32,396 33,406 158.36 166.11
Agribank 25,160 25,477 27,065 28,310 32,089 33,255 157.73 165.80
Eximbank 25,130 25,476 27,140 27,981 32,273 33,175 158.91 163.85
ACB 25,140 25,477 27,136 28,068 32,329 33,306 158.59 164.86
Sacombank 25,190 25,477 27,338 28,340 32,507 33,217 159.66 164.69
Techcombank 25,132 25,477 27,000 28,353 31,994 33,324 155.51 167.92
LPBank 24,937 25,477 26,998 28,670 32,415 33,421 157.95 169.10
DongA Bank 25,180 25,477 27,140 28,010 32,200 33,300 156.60 164.60
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,30
3,60
4,30
4,40
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,60
2,60
2,90
3,80
3,80
4,50
4,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
2,00
2,00
2,30
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
2,90
3,10
3,20
4,00
4,00
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?