Giao dịch bảo đảm bằng quyền tài sản theo Bộ luật dân sự 2015

Nghiên cứu - Trao đổi
Ngày nay, các tài sản vô hình (quyền tài sản) có xu hướng chiếm một tỷ trọng ngày càng quan trọng trong tổng tài sản của một doanh nghiệp. Việc sử dụng tài sản vô hình để bảo đảm nghĩa vụ có rất nhiề...
aa

Ngày nay, các tài sản vô hình (quyền tài sản) có xu hướng chiếm một tỷ trọng ngày càng quan trọng trong tổng tài sản của một doanh nghiệp. Việc sử dụng tài sản vô hình để bảo đảm nghĩa vụ có rất nhiều ưu điểm so với tài sản hữu hình bởi vì giúp tránh được nguy cơ tài sản bị mất, bị phá hủy hay giảm giá trị.

Hơn nữa, tài sản vô hình có thể được lưu trữ và chuyển giao bằng các phương tiện điện tử mà không chịu hạn chế về mặt kích thước hay không cần phải chuyển giao về mặt vật chất. Chỉ bằng một cái nhấn chuột máy tính, tài sản vô hình có thể vượt qua biên giới một nước. Chính vì thế, đây là một loại tài sản khá lý tưởng để bảo đảm khoản vay[1]. Tuy vậy, ở Việt Nam, việc cho vay theo tài sản vô hình chưa thực sự phổ biến. Ngoài tâm lý “chuộng” tài sản hữu hình quy định pháp luật hiện hành vừa thiếu vừa ít tính khả thi đang là rào cản lớn cho việc xác lập và xử lý các giao dịch bảo đảm bằng tài sản vô hình.

1. Khái niệm quyền tài sản và giao dịch bảo đảm với quyền tài sản

Khác với pháp luật của nhiều nước, tài sản vô hình ở Việt Nam được pháp luật ghi nhận thông qua khái niệm “quyền tài sản”. Quyền tài sản là một loại tài sản đã được quy định trong các bộ luật dân sự của Việt Nam [2].

Khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) quy định: “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Như vậy, quyền tài sản là một trong bốn loại tài sản theo bộ luật này.

Quyền tài sản là một loại tài sản khá đặc biệt. Điều 115 của BLDS định nghĩa: “quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Như vậy, quyền tài sản được hiểu là các (i) quyền, (ii) trị giá được bằng tiền. Nếu một quyền không thể trị giá được thành tiền thì không thể được coi là quyền tài sản. Danh sách các quyền tài sản nêu tại điều luật này là một danh sách mở. Xét ở khía cạnh tích cực thì nó không hạn chế các quyền có thể được xem là quyền tài sản với điều kiện chúng thỏa mãn hai tiêu chí nêu trên. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải lúc nào cũng dễ dàng xác định được một quyền nhất định có được xem là quyền tài sản hay không nhất là trong bối cảnh ranh giới giữa các quyền đối với tài sản và các quyền được xem là tài sản khá mong manh và chưa thực rõ ràng trong pháp luật thực định. Về mặt này, đáng tiếc là phần quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong BLDS không nêu rõ các loại quyền tài sản có thể được sử dụng làm tài sản bảo đảm. Điều này đang gây không ít khó khăn cho các bên khi xác lập các giao dịch bảo đảm trong thực tế.

Trên phương diện phân loại tài sản, nếu áp dụng định nghĩa động sản quy định tại khoản 2 Điều 107 của BLDS, một quyền tài sản sẽ mặc nhiên được coi là động sản trừ khi có một văn bản pháp luật quy định quyền tài sản này là bất động sản[3].

Dưới góc độ học thuật, cách sử dụng thuật ngữ “quyền tài sản” của BLDS chưa thực sự phù hợp và dễ gây nhầm lẫn. Thực vậy, trong pháp luật về sở hữu trí tuệ, thuật ngữ “quyền tài sản” mang một ý nghĩa hoàn toàn khác là một trong hai yếu tố cấu thành quyền tác giả4. Hơn nữa, BLDS cũng có một khái niệm tương tự là “quyền đối với tài sản” (Điều 158 và các điều tiếp theo) với một nội hàm hoàn toàn khác so với nội hàm là tài sản vô hình. Về bản chất của các quyền tài sản theo BLDS chính là các tài sản vô hình. Điều đáng tiếc là nhà lập pháp chưa công nhận khái niệm “tài sản vô hình” trong BLDS.

Bên cạnh quyền sử dụng đất, các quyền tài sản phổ biến được sử dụng để bảo đảm các khoản tín dụng trong thực tế hiện nay bao gồm quyền đòi nợ, một số quyền khác phát sinh từ hợp đồng, số dư tài khoản ngân hàng (tài khoản tiền gửi tiết kiệm của cá nhân, tài khoản tiền gửi của tổ chức và tài khoản thanh toán), phần vốn góp, cổ phần, chứng khoán và quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên. Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ hầu như vắng bóng trong danh mục tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.

Ngoài quy định tại Điều 115 BLDS còn dành Điều 450 để đề cập về việc mua bán quyền tài sản, trong đó có quy định (i) quyền đòi nợ là một loại quyền tài sản và (ii) “thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với quyền tài sản là thời điểm bên mua nhận được giấy tờ về quyền sở hữu đối với quyền tài sản đó hoặc từ thời điểm đăng ký việc chuyển quyền sở hữu, nếu pháp luật có quy định”. Cần hiểu “giấy tờ về quyền sở hữu” theo nghĩa rộng, bao gồm mọi giấy tờ, chứng từ liên quan đến quyền tài sản.

Khoản 7 Điều 6 của Thông tư số 08/2018/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 20 tháng 6 năm 2018 hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện pháp bảo đảm tại các trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp (Thông tư 08) quy định: “các quyền tài sản theo quy định tại Điều 115 BLDS, trừ quyền sử dụng đất, gồm:

a) Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng; quyền đòi nợ; quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên; quyền được bồi thường thiệt hại phát sinh từ hợp đồng;

b) Quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng thuê đóng tàu biển; quyền bồi thường thiệt hại phát sinh từ hợp đồng mua bán tàu bay, tàu biển; quyền thụ hưởng bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm đối với tàu bay, tàu biển;

c) Các quyền tài sản là quyền đòi nợ, quyền yêu cầu thanh toán, quyền được bồi thường thiệt hại, quyền thụ hưởng bảo hiểm phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng góp vốn xây dựng nhà ở, hợp đồng hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh nhà ở, hợp đồng cho thuê, hợp đồng cho thuê mua nhà ở (bao gồm cả nhà ở xã hội) giữa tổ chức với cá nhân hoặc giữa tổ chức, cá nhân với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong dự án xây dựng nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở; các quyền tài sản là quyền đòi nợ, quyền yêu cầu thanh toán, quyền được bồi thường thiệt hại, quyền thụ hưởng bảo hiểm phát sinh từ hợp đồng mua bán, hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh, hợp đồng cho thuê, hợp đồng cho thuê mua công trình xây dựng giữa tổ chức với cá nhân hoặc giữa tổ chức, cá nhân với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong dự án xây dựng công trình theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản;

d) Quyền tài sản khác theo quy định của pháp luật”.

Các quyền tài sản trên đây là các quyền tài sản có thể được theo yêu cầu đăng ký tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp. Tuy danh sách các quyền tài sản này chi tiết hơn danh sách nêu tại Điều 115 của BLDS, song cũng vẫn là một danh sách mở. Có thể thấy, ngoài quyền sử dụng đất, các quyền tài sản được ghi nhận rõ ràng trong danh sách này vẫn chỉ là quyền đòi nợ và quyền phát sinh từ hợp đồng.

Liên quan đến biện pháp bảo đảm bằng quyền tài sản, điều dễ nhận thấy là do quyền tài sản không thể chuyển giao về mặt vật chất (do không thể chiếm hữu được chúng) nên không thể trở thành đối tượng của cầm cố mà chỉ có thể được thế chấp5. Cầm cố đặt ra yêu cầu giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố (Điều 309 BLDS) trong khi đó, bên thế chấp không giao tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp (khoản 1 Điều 317 BLDS).

Khoản 2 Điều 319 BLDS 2015 quy định: “thế chấp tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”. Thời điểm đăng ký sẽ là cơ sở để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm bằng quyền tài sản (Điều 308 BLDS). Như nêu ở trên, việc thế chấp quyền tài sản ngoài quyền sử dụng đất sẽ được đăng ký tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp.

2. Đặc điểm pháp lý của các quyền tài sản là đối tượng của biện pháp thế chấp

Có thể rút các đặc điểm pháp lý cơ bản của quyền tài sản là đối tượng của hợp đồng thế chấp như sau:

Thứ nhất, quyền tài sản thế chấp phải thuộc sở hữu của bên thế chấp. Để sử dụng quyền tài sản làm tài sản thế chấp, bên thế chấp phải là chủ sở hữu của quyền tài sản đó, bởi chỉ có chủ sở hữu mới có quyền dùng tài sản của mình thế chấp (khoản 1 Điều 295 và khoản 1 Điều 317 BLDS) để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc của người khác.

Thứ hai, quyền tài sản thế chấp luôn tồn tại dưới dạng vô hình. Khác với tài sản tồn tại dưới dạng vật chất hữu hình mà con người có thể nhận biết được qua các giác quan, các quyền tài sản luôn tồn tại dưới dạng vô hình, con người không thể nhận biết được thông qua các giác quan mà chỉ biết đến sự tồn tại của chúng thông qua các thông tin liên quan đến tài sản (các thông tin này có thể được đăng ký hoặc không đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền).

Thứ ba, quyền tài sản là đối tượng của biện pháp thế chấp phải có thể chuyển giao được cho chủ thể khác. Xuất phát từ bản chất của biện pháp thế chấp nhằm đảm bảo thực hiện cho nghĩa vụ của bên thế chấp hoặc của một bên thứ ba đối với bên nhận thế chấp; khi có căn cứ xử lý thế chấp, BLDS cho phép bên nhận thế chấp được xử lý tài sản thế chấp thông qua hai phương thức chính là bán tài sản thế chấp để thanh toán cho nghĩa vụ được bảo đảm hoặc nhận chính tài sản thế chấp để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm (Điều 303 BLDS). Để có thể áp dụng các phương thức xử lý này thì quyền tài sản là đối tượng của hợp đồng thế chấp phải có hai đặc trưng sau:

Một là, quyền tài sản được thế chấp không phải là quyền tài sản mà luật cấm hoặc hạn chế chuyển dịch quyền sở hữu, ví dụ: hạn chế chuyển nhượng cổ phần nêu trong Luật doanh nghiệp.

Hai là, quyền tài sản thế chấp không phải là những quyền tài sản có gắn với yếu tố nhân thân. Các quyền tài sản gắn với yếu tố nhân thân như: quyền yêu cầu cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm… không thể chuyển giao thông qua các giao dịch dân sự, do đó không thể được sử dụng làm tài sản thế chấp.

Thứ tư, quyền tài sản là đối tượng của hợp đồng thế chấp cần được xác định cụ thể trong hợp đồng thế chấp. Theo quy định tại khoản 2 Điều 295 của BLDS, “tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được”. Việc xác định chính xác tài sản thế chấp có vai trò rất quan trọng trong quá trình thế chấp nói chung, đặc biệt là khi xử lý tài sản thế chấp. Trong những hợp đồng thế chấp có đối tượng là tài sản hữu hình, tính xác định được của tài sản thế chấp thể hiện ở chỗ các bên có thể mô tả chính xác trong hợp đồng tài sản thế chấp là động sản hay bất động sản, người đang thực tế chiếm hữu, quản lý tài sản, xác định giá trị của tài sản đó tại thời điểm xác lập hợp đồng hoặc phương thức xác định giá của tài sản khi cần xử lý tài sản thế chấp… Còn trong những hợp đồng thế chấp quyền tài sản, các bên phải xác định chính xác chủ thể quyền tài sản là ai, chủ thể có nghĩa vụ đối với quyền tài sản đó hay không (nếu đó là quyền yêu cầu trả thanh toán) để đảm bảo tính toàn vẹn của tài sản; những giấy tờ, văn bằng bảo hộ đã được đăng ký (nếu đó là quyền sở hữu trí tuệ); giấy chứng nhận quyền sử dụng hợp pháp (nếu đối tượng hợp đồng là quyền sử dụng đất); các giấy tờ pháp lý hợp pháp liên quan đến tài sản (trường hợp thế chấp phần vốn góp).

Thứ năm, quyền của bên nhận thế chấp xác lập trên quyền tài sản thế chấp không bị chấm dứt hoặc vô hiệu bởi các giao dịch được thiết lập sau đó liên quan đến quyền tài sản được thế chấp. Pháp luật phải ghi nhận một cách rõ ràng quyền của bên nhận thế chấp đối với tài sản thế chấp kể từ khi giao dịch bảo đảm được xác lập hợp pháp. Các quyền này đối kháng lại tất cả các quyền của các chủ thể khác xác lập lên tài sản bảo đảm sau đó. Việc thừa nhận nguyên tắc này sẽ làm cơ sở để xây dựng các quy định của pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản nói chung hay thế chấp quyền tài sản nói riêng. Bởi vì trong thời hạn thế chấp, xuất phát từ yếu tố chủ quan (người thế chấp cố tình tẩu tán tài sản khi không có khả năng thanh toán nghĩa vụ đến hạn) hoặc khách quan (tài sản bảo đảm phải được xử lý để thanh toán các khoản nợ đến hạn khi doanh nghiệp là bên thế chấp phá sản…) mà có nhiều giao dịch dân sự được xác lập trên tài sản thế chấp, dẫn đến việc xung đột lợi ích giữa các chủ thể là điều không thể tránh khỏi. Pháp luật với vai trò là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội phải có cơ chế rõ ràng bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể, đặc biệt là của bên thế chấp.

Từ các phân tích ở trên có thể thấy, quyền tài sản là một loại tài sản khá đặc thù và việc sử dụng loại tài sản này làm tài sản bảo đảm không phải lúc nào cũng dễ dàng. Chỉ có điều hiện các quy định của BLDS về thế chấp tài sản dường như chỉ hướng đến các tài sản hữu hình mà chưa thực sự phù hợp với các quyền tài sản. Cần xây dựng một hệ thống các quy định riêng cho chế định pháp lý này để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác lập, quản lý và xử lý thế chấp loại tài sản đặc biệt này.

[1] Louise Gullifer (ed), “Goode on Legal Problems of Credit and Security”, Sweet & Maxwell, 5th edn, 2013, para.3-01.

[2] Quyền tài sản đã được ghi nhận trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự 2005.

[3] Về điểm này và rộng hơn về các biện pháp bảo đảm bằng động sản, xem thêm Bùi Đức Giang, “Pháp luật về bảo đảm khoản vay bằng động sản”, Tạp chí Ngân hàng, số 22, tháng 11/2018, trang 27-31.

4 Điều 18 của Luật sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 được bổ sung, sửa đổi năm 2009 (Luật sở hữu trí tuệ): “quyền tác giả đối với tác phẩm quy định tại Luật này bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản”.

5 Về biện pháp thế chấp tài sản, xem thêm Bùi Đức Giang, “Xác lập hợp đồng thế chấp tài sản theo Bộ luật dân sự”, Tạp chí Ngân hàng, số 4, tháng 2/2019, trang 13 - 15.

TS. Bùi Đức Giang
ThS. Nguyễn Hoàng Long


Nguồn: TCNH số 11/2019

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Một số vấn đề pháp lý về công bố thông tin của ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Một số vấn đề pháp lý về công bố thông tin của ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Trong các cổ phiếu niêm yết, cổ phiếu của các ngân hàng niêm yết thuộc nhóm cổ phiếu khá đặc biệt xuất phát từ đặc thù kinh doanh và tính chất nhạy cảm của ngành Ngân hàng...
Nhân tố ảnh hưởng đến ý định áp dụng tài chính xanh tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến ý định áp dụng tài chính xanh tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Tài chính xanh là công cụ giúp các quốc gia không chỉ đạt được mục tiêu kinh tế mà còn bảo vệ môi trường, thực hiện trách nhiệm xã hội hướng đến phát triển bền vững.
Bảo đảm an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng - Thách thức và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Bảo đảm an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng - Thách thức và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Bảo đảm an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng là yêu cầu cần thiết để bảo vệ tài sản, duy trì lòng tin của khách hàng cũng như thúc đẩy sự phát triển bền vững trong môi trường kinh doanh đầy thách thức hiện nay.
Kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025

Kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025

Năm 2024 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025. Mặc dù bối cảnh quốc tế và trong nước vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức: Lạm phát tăng cao, xung đột địa chính trị kéo dài, sự tăng trưởng chậm lại của các nền kinh tế lớn, nhưng kinh tế Việt Nam đã vượt qua khó khăn để đạt được những thành tựu nổi bật.
Thực trạng và đề xuất phát triển thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam

Thực trạng và đề xuất phát triển thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam

Thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể trong những năm gần đây, tuy nhiên vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức.
Xếp hạng tín dụng khách hàng cá nhân với khai phá dữ liệu, thuật  toán C4.5

Xếp hạng tín dụng khách hàng cá nhân với khai phá dữ liệu, thuật toán C4.5

Khai phá dữ liệu (Data Mining - DM) là khái niệm rộng và có thể gây khó khăn cho các nhà nghiên cứu không chuyên sâu về công nghệ thông tin. Điều quan trọng là phải nắm được nguyên lý, khái niệm liên quan đến DM, từ đó, định hướng mục tiêu và ứng dụng DM trong từng lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Thực trạng công bố thông tin môi trường, xã hội và quản trị của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Thực trạng công bố thông tin môi trường, xã hội và quản trị của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Phát triển bền vững được xem là một trong những vấn đề cấp bách nhất của thời đại. Hiện nay, ngày càng nhiều tổ chức tài chính áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường, xã hội, quản trị (ESG) vào hoạt động thực tiễn của mình để hướng tới thông điệp chung tay vì sự phát triển bền vững.
Mối quan hệ giữa mức độ thực hiện quy định thanh khoản ngân hàng theo Basel III với một số giải pháp và khuyến nghị

Mối quan hệ giữa mức độ thực hiện quy định thanh khoản ngân hàng theo Basel III với một số giải pháp và khuyến nghị

Quy định thanh khoản Basel III được Ủy ban Basel Giám sát ngân hàng (BCBS) đưa ra sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 nhằm giám sát, quản lý rủi ro thanh khoản hợp lý; thúc đẩy khả năng phục hồi để ngân hàng tồn tại trong tình huống căng thẳng cấp tính kéo dài một tháng và tình huống phục hồi kéo dài hơn một năm.
Xem thêm
Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Tín dụng xanh là một công cụ tài chính được thiết kế để hỗ trợ các dự án và hoạt động có lợi cho môi trường. Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp là quá trình mà các công ty áp dụng những phương pháp và chiến lược bền vững nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

Những tháng cuối năm, doanh nghiệp tập trung tăng cường sản xuất, kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng nên nhu cầu tín dụng cũng sẽ tăng theo.
Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Trong những tháng đầu năm 2024, dù kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều biến động khó lường như xung đột địa chính trị kéo dài, lạm phát duy trì ở mức cao, cùng những thách thức nội tại của nền kinh tế trong nước và ảnh hưởng nặng nề của thiên tai...
Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tầm quan trọng của hệ thống tiền gửi tại Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua sự an toàn và ổn định; từ đó, mang lại niềm tin đối với người gửi tiền.
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Để góp phần ổn định hệ thống tài chính, ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội đất nước, trong bài viết này, tác giả làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và định hướng sửa đổi, bổ sung Luật BHTG.
Tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đến môi trường kinh doanh, cạnh tranh giữa các quốc gia và một số khuyến nghị

Tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đến môi trường kinh doanh, cạnh tranh giữa các quốc gia và một số khuyến nghị

Các quốc gia cần phải xem xét lại cách tiếp cận của mình đối với chính sách thuế để bảo đảm rằng sự phát triển kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho những tập đoàn lớn mà còn cho toàn xã hội. Một trong những giải pháp khả thi là áp dụng mức thuế tối thiểu toàn cầu nhằm hạn chế “cuộc đua xuống đáy” và tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng hơn.
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Lạm phát gia tăng toàn cầu sau đại dịch Covid-19, vốn đã ảnh hưởng đến cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, nhưng dường như đã “bỏ qua” châu Á. Một trong những lý do chính là sự phục hồi chậm của các nền kinh tế châu Á do các đợt “đóng cửa”, “phong tỏa”, “cách ly”, “giãn cách” kéo dài và lặp đi lặp lại.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).

Thông tư sô 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Thông tư số 54/2024/TT-NHNN ngày 17/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 26/2021/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn giao dịch ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối

Thông tư số 53/2024/TT-NHNN ngày 04/12/2024 Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3

Thông tư số 52/2024/TT-NHNN ngày 29/11/2024 Quy định việc ngân hàng thương mại có cổ đông, cổ đồng và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ quy định tại Điều 55 của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 17/2017/QH14 xây dựng và thực hiện lộ trình để bảo đảm tuân thủ các quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15

Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 06/11/2024 Về tăng cường quản lý rủi ro rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng giai đoạn 2024 - 2028

Thông tư số 50/2024/TT-NHNN ngày 31/10/2024 Quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 49/2024/TT-NHNN ngày 25/10/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 46/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 48/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đông Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài