Công nghệ số và mô hình hoạt động của các ngân hàng trong tương lai

Công nghệ & ngân hàng số
Mô hình hoạt động là mô tả trừu tượng về cách một tổ chức hoạt động theo các quy trình, tổ chức và các miền công nghệ để hoàn thành chức năng của mình (De Vries và cộng sự, 2011). Đối với ngân hàng, khác với mô hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông thường, mô hình kinh doanh của ngân hàng mô tả cách ngân hàng đó tạo ra, cung cấp, mang đến giá trị cho khách hàng và duy trì điều đó trong cả một quá trình (Osterwalder và Pigneur, 2011).
aa

Mô hình hoạt động là mô tả trừu tượng về cách một tổ chức hoạt động theo các quy trình, tổ chức và các miền công nghệ để hoàn thành chức năng của mình (De Vries và cộng sự, 2011).

Đối với ngân hàng, khác với mô hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông thường, mô hình kinh doanh của ngân hàng mô tả cách ngân hàng đó tạo ra, cung cấp, mang đến giá trị cho khách hàng và duy trì điều đó trong cả một quá trình (Osterwalder và Pigneur, 2011). Trong khi các mô hình kinh doanh coi doanh thu, chi phí và kết quả là khả năng sinh lời, thì các mô hình hoạt động tập trung vào chi phí như một mục tiêu chính để chú trọng tính hiệu quả, đây được coi là một trong hai ưu tiên hàng đầu của các ngân hàng (Crosby và cộng sự, 2013). Sự suy giảm lợi nhuận biên hiện nay đang thách thức nhiều ngân hàng phải xem lại mô hình hoạt động do giảm doanh thu biên trong khi chi phí biên lại không giảm. Ví dụ, chi phí biên của các ngân hàng tư nhân châu Á ở cùng mức như các thị trường Tây Âu phát triển (khoảng 60 bp1). Ngược lại, ngân hàng ở khu vực Mỹ Latinh và Trung Đông hoạt động với chi phí biên thấp hơn (khoảng 40bp) do chi phí nhân viên hỗ trợ, công nghệ thông tin (CNTT) và văn phòng thấp hơn hai khu vực trên (Vandenberghe et al., 2014). Trong danh mục chi phí, chi phí nhân sự đại diện cho tỷ trọng chủ yếu và phản ánh các tình huống khác nhau liên quan đến tỷ lệ chi phí/thu nhập với khoảng 80% ở Thụy Sĩ, 70% ở Đức, 60% ở Mỹ, 50% ở Thụy Điển và Luxemburg, 40% ở Singapore và Hồng Kông, còn Trung Quốc là 30% (Hintermann và cộng sự, 2014).


Sự phát triển đối với các mô hình hoạt động mới cho các ngân hàng có thể dẫn đến việc tổ chức lại toàn bộ hệ thống ngân hàng các quốc gia và toàn cầu

Bên cạnh chi phí nhân sự chiếm gần 60% tổng chi phí của các ngân hàng, chi phí CNTT chiếm tỷ trọng lớn thứ hai với khoảng 20% (Gopalan và cộng sự, 2012). Nhìn chung, các ngân hàng có chi phí CNTT cao nhất trong tất cả các ngành liên quan đến doanh thu. So với các ngành khác mà chi phí CNTT được dự đoán sẽ giảm (ô tô giảm 1%, ngành hóa chất giảm 3%), chi phí CNTT trong các ngân hàng được dự báo sẽ tăng với mức tăng hằng năm là 3% (BCG, 2013). Điều này được cho là do một số lượng lớn các hệ thống CNTT không đồng nhất với tuổi thọ tổng thể có thể lên đến hơn 40 năm.

Tác động đột phá ngày càng tăng của CNTT đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính, mang lại những hệ quả như phi trung gian hóa, giảm thu nhập và tổ chức lại chuỗi giá trị với các tác nhân mới. Các công ty khởi nghiệp công nghệ tài chính (Fintech) và các tổ chức phi ngân hàng khác đang phát triển các sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới cho tất cả các lĩnh vực hoạt động của ngành Ngân hàng với việc thiết lập hệ sinh thái mới với các tổ chức phi ngân hàng khác và các định chế khác trong ngành dịch vụ tài chính. Điều đó đang đặt ra những câu hỏi và thách thức đối với mô hình hoạt động của các ngân hàng.

Mô hình hoạt động của các ngân hàng cho đến nay vẫn chủ yếu dựa trên sự tích hợp mạnh mẽ theo chiều dọc của các quy trình quản lý, ngân hàng lõi và hoạt động hỗ trợ. Một sự phát triển gần đây được gọi là “siêu chuyên môn hóa” đã xuất hiện các dịch vụ cung ứng có xu hướng chi tiết hơn trong tương lai cũng như các mô hình cung ứng mới, như nguồn cung ứng cộng đồng. Do sự phát triển của CNTT (như công nghệ chuỗi khối (Blockchain)) và tiêu chuẩn hóa (như giao diện lập trình ứng dụng (API) mở), các ngân hàng hiện có thể thuê ngoài các dịch vụ ở cấp độ các nhiệm vụ đơn lẻ (ví dụ: DNA App Store). Việc nguyên tử hóa chuỗi giá trị này có thể dẫn đến các cấu trúc tổ chức phi tập trung hơn thứ chúng ta biết ngày nay.

Tổng hợp lại, ba xu hướng sau đây đặc trưng cho sự phát triển đối với các mô hình hoạt động mới cho các ngân hàng:

(1) Tăng cường quy định pháp lý: Quy định pháp lý đề cập đến tất cả các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng và thể hiện sự hội tụ giữa thị trường trong nước và nước ngoài (do các quy định trong nước và xuyên biên giới chặt chẽ hơn, chẳng hạn như FATCA hoặc Basel III). Ví dụ, theo một cuộc khảo sát đối với Liên minh châu Âu, ước tính chi phí liên quan đến các quy định là 8,6 tỷ EUR từ năm 2010 đến năm 2015 (Pukropski và cộng sự, 2013). Các danh mục dự án của nhiều ngân hàng chiếm hơn 50% chi phí liên quan các quy định. Các lĩnh vực đóng góp nhiều tác động pháp lý nhất là kiểm soát/quản lý rủi ro (56%), tuân thủ (54%), tài chính doanh nghiệp (52%), sửa đổi nội bộ (32%) và CNTT/tổ chức (27%). Mặc dù CNTT/tổ chức chỉ bị ảnh hưởng 27%, nhưng số tiền đầu tư tuyệt đối là cao nhất trong tất cả các lĩnh vực nói trên vì quy trình và CNTT là thành phần của tất cả các lĩnh vực khác. Việc đáp ứng của hệ thống với các yêu cầu của quy định mới được coi là ưu tiên hàng đầu của các ngân hàng (Crosby et al., 2013).

(2) Tăng cường phân cấp: Nhiều ngân hàng vẫn chưa chuyển đổi mô hình hoạt động của mình từ chuỗi giá trị tích hợp theo chiều dọc sang các mô hình phân rã, linh hoạt hơn như hiện nay, chẳng hạn như trong ngành ô tô. Một thước đo chính để đánh giá mức độ chuyên môn hóa là mức độ sản xuất nội bộ liên quan đến việc tạo ra giá trị tổng thể. Mặc dù không nhìn thấy năng lực cốt lõi trong các quy trình hỗ trợ và giao dịch, các ngân hàng vẫn thể hiện mức độ sản xuất nội bộ cao trong các lĩnh vực này. Ví dụ, các ngân hàng trực tiếp có mức sản xuất nội bộ trung bình là 50%, các ngân hàng nhỏ là 80% và các ngân hàng lớn là 70%. Một xu hướng chính là các dịch vụ không chỉ bắt nguồn từ các mối quan hệ cung ứng song phương, mà có xu hướng trở nên nhỏ hơn về độ chi tiết của chúng (Malone và cộng sự, 2011). Xu hướng “siêu chuyên môn hóa” này dẫn đến các mô hình tìm nguồn cung ứng hoàn toàn mới, chẳng hạn như nguồn cung ứng cộng đồng được kích hoạt thông qua các thị trường dịch vụ điện tử. Công ty Local Motors, Hoa Kỳ, một nhà cung cấp cho BMW, chỉ sử dụng 100 công nhân, trong khi có 40.000 nhà phát triển khác được sử dụng cung cấp cho các nhiệm vụ khác nhau.

(3) Tăng cường công nghiệp hóa: Thuật ngữ công nghiệp hóa bắt nguồn từ việc chuyển đổi xã hội từ nông nghiệp sang công nghiệp và tiếp tục phát triển với chủ nghĩa Taylor2. Nguyên tắc cơ bản là có thể đạt được hiệu quả cao thông qua việc xác định các hoạt động nhỏ, được tiến hành tương tự như những hoạt động mà Henry Ford (người sáng lập Công ty Ford Motor) đã giới thiệu với cách tiếp cận sản xuất hàng loạt đối với dây chuyền lắp ráp ô tô. Theo thời gian, công nghiệp hóa được bổ sung với các nguyên tắc khác, chẳng hạn như tiêu chuẩn hóa, tự động hóa và định hướng chất lượng. Việc áp dụng các nguyên tắc đó vào các ngành dịch vụ đang ngày càng phát triển, vì việc tiêu chuẩn hóa các dịch vụ, chẳng hạn như các sản phẩm ngân hàng, vẫn chưa chín muồi như những chiếc đinh vít được sử dụng trong xe hơi. Tuy nhiên, ngành công nghiệp phần mềm trong những năm gần đây đã có những bước phát triển vượt bậc trong việc áp dụng các cơ chế công nghiệp hóa vào ngành Ngân hàng. Ví dụ, một cuộc khảo sát đã xác định được 700 quy trình đầu cuối (end - to - end) trong các ngân hàng, trong đó khoảng một nửa có thể được tự động hóa hoàn toàn (Hirt và Willmott, 2014). Các dịch vụ như vậy đã được cung cấp thông qua các cửa hàng ứng dụng doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B) như DNA App Store hoặc Yodlee ở Hoa Kỳ. Các công ty này cung cấp thị trường dịch vụ điện tử cho các ngân hàng và là nhà cung cấp nơi các ngân hàng có thể tùy chỉnh dịch vụ của họ.

Hiệu quả hoạt động sẽ trở thành nguồn lợi thế cạnh tranh quan trọng của các ngân hàng trong tương lai. Điều này cuối cùng sẽ dẫn đến kết quả cao trong hoạt động và chứng minh sự bền vững của các mô hình kinh doanh hoàn toàn mới lấy khách hàng làm trung tâm. Điều này đang đặt ra những câu hỏi cho các nhà quản lý và điều hành về mô hình hoạt động của ngân hàng trong thời gian tới: (i) Mức độ ứng dụng tối đa các thông lệ tốt nhất trong công nghiệp hóa tại các ngành sản xuất hàng hóa vật chất vào trong lĩnh vực ngân hàng là bao nhiêu để áp dụng vào việc xây dựng các mô hình hoạt động của ngân hàng trong tương lai dựa trên các quy trình và dịch vụ được công nghiệp hóa? (ii) Làm thế nào để các dịch vụ có thể được chia thành nhiều phần chi tiết hơn và những mô hình tìm nguồn cung ứng mới nào có thể được áp dụng để các dịch vụ được tạo nguồn ở cấp độ của các nhiệm vụ đơn lẻ (siêu chuyên môn hóa) cho phép các mô hình tìm nguồn cung ứng sáng tạo?

(iii) Làm thế nào các quy trình ngân hàng và cấu ​​trúc ứng dụng (ngân hàng lõi) của nhiều nhà cung cấp có thể được chuẩn hóa để đáp ứng các yêu cầu công nghiệp hóa và cho phép các mô hình tìm nguồn cung ứng linh hoạt?

Sự phát triển đó có thể dẫn đến việc tổ chức lại toàn bộ hệ thống ngân hàng các quốc gia và toàn cầu hiện có. Các hệ quả đối với ngành Ngân hàng có thể được cấu trúc theo cấp độ đổi mới (gia tăng so với đột phá) và các quy trình ngân hàng lõi (hỗ trợ so với kinh doanh trực tiếp) và có khả năng dẫn đến những mô hình mới cho các ngân hàng.

Mặc dù sự chuyển đổi trong ngành Ngân hàng đặt ra những thách thức lớn đối với hiện trạng, nhưng nó chứa đựng nhiều cơ hội cho những tổ chức phải đối mặt với sự chuyển đổi này. Đến nay, vẫn có nhiều người xem Fintech chỉ như là “hệ thống chuyển động” mới, tương tự như sự thay đổi từ video ghi âm sang video youtube. Nhưng như lịch sử đã chỉ ra, việc chuyển đổi sang cơ sở hạ tầng mới thường hay dẫn đến việc cơ cấu lại cơ bản hiện trạng. Không phụ thuộc vào bất kỳ thành công hay thất bại nào của các ngân hàng đơn lẻ, sự chuyển đổi của Ngành đang dẫn đến thay đổi về chất như một phần cốt lõi của nền kinh tế toàn cầu ngày nay. Do đó, việc đầu tư nhiều hơn nữa vào việc nghiên cứu về hệ thống tài chính phát triển trong tương lai là rất cần thiết.

1 Điểm cơ bản = 1/100 của 1%.
2 Taylorism: Quản lý theo khoa học là lý thuyết quản lý dựa trên quá trình phân tích, tổng hợp các quy trình công việc nhằm nâng cao năng suất lao động.


Dương Quốc Anh
Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Nhân tố quyết định chấp nhận liên tục ví điện tử ở Việt Nam

Nhân tố quyết định chấp nhận liên tục ví điện tử ở Việt Nam

Ví điện tử là một xu hướng công nghệ mới đang ngày càng phổ biến, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và các doanh nghiệp. Trong thị trường ngày càng cạnh tranh, việc xây dựng sự hài lòng khách hàng rất quan trọng để tạo và duy trì lợi thế cạnh tranh.
Công nghệ tự động hóa quy trình bằng robot trong lĩnh vực ngân hàng

Công nghệ tự động hóa quy trình bằng robot trong lĩnh vực ngân hàng

RPA có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một trong những định nghĩa phổ biến nhất về RPA là phần mềm mô phỏng hành động của con người trên máy tính để thực hiện các tác vụ có tính chất lặp đi, lặp lại dựa trên các quy tắc cụ thể (Abildtrup, 2024).
Gian lận kỹ thuật số trong lĩnh vực ngân hàng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam

Gian lận kỹ thuật số trong lĩnh vực ngân hàng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam

Quá trình số hóa nhanh chóng của lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam bên cạnh việc mang lại những lợi ích to lớn như tính phổ cập, tiện lợi thì cũng song hành những rủi ro, thách thức lớn, trong đó có gian lận kỹ thuật số.
Tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng: Tuân thủ các quy định về an toàn thông tin, bảo vệ dữ liệu

Tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng: Tuân thủ các quy định về an toàn thông tin, bảo vệ dữ liệu

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước công dân (CCCD) là nguồn tài nguyên mới và là nền tảng thực hiện chuyển đổi số hiệu quả đối với mỗi quốc gia.
ESG và lòng trung thành của khách hàng: Trường hợp nghiên cứu với dịch vụ ngân hàng số tại Việt Nam

ESG và lòng trung thành của khách hàng: Trường hợp nghiên cứu với dịch vụ ngân hàng số tại Việt Nam

ESG là cụm từ xuất hiện phía sau của khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) (Eliwa và cộng sự, 2021; Henisz và McGlinch, 2019). ESG đề cập đến trách nhiệm đầu tư bền vững, tức là phải quan tâm sâu sắc tới vấn đề thực thi ESG trong hoạt động đầu tư.
Đánh giá năng lực số của thanh thiếu niên Việt Nam

Đánh giá năng lực số của thanh thiếu niên Việt Nam

Nhóm nghiên cứu lập ra các câu hỏi đánh giá năng lực số cho thanh thiếu niên Việt Nam; một công cụ đánh giá với công cụ website digicom14.com để thanh thiếu niên biết mình ở đâu trong đại dương số này...
Cập nhật thông tin giấy tờ tùy thân và dữ liệu sinh trắc học: Bảo mật tài khoản và an toàn giao dịch trực tuyến

Cập nhật thông tin giấy tờ tùy thân và dữ liệu sinh trắc học: Bảo mật tài khoản và an toàn giao dịch trực tuyến

Ngày 28/6/2024, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 18/2024/TT-NHNN quy định về hoạt động thẻ ngân hàng (Thông tư 18), trong đó quy định về phát hành thẻ bằng phương tiện điện tử.
Trí tuệ nhân tạo tạo sinh: Triển vọng cho ngành Ngân hàng

Trí tuệ nhân tạo tạo sinh: Triển vọng cho ngành Ngân hàng

Ngành Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đang trải qua sự chuyển mình đáng kể nhờ sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI), đặc biệt là trí tuệ nhân tạo tạo sinh (Generative AI - GenAI).
Xem thêm
Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Tín dụng xanh là một công cụ tài chính được thiết kế để hỗ trợ các dự án và hoạt động có lợi cho môi trường. Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp là quá trình mà các công ty áp dụng những phương pháp và chiến lược bền vững nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

Những tháng cuối năm, doanh nghiệp tập trung tăng cường sản xuất, kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng nên nhu cầu tín dụng cũng sẽ tăng theo.
Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Trong những tháng đầu năm 2024, dù kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều biến động khó lường như xung đột địa chính trị kéo dài, lạm phát duy trì ở mức cao, cùng những thách thức nội tại của nền kinh tế trong nước và ảnh hưởng nặng nề của thiên tai...
Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tầm quan trọng của hệ thống tiền gửi tại Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua sự an toàn và ổn định; từ đó, mang lại niềm tin đối với người gửi tiền.
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Để góp phần ổn định hệ thống tài chính, ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội đất nước, trong bài viết này, tác giả làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và định hướng sửa đổi, bổ sung Luật BHTG.
Tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đến môi trường kinh doanh, cạnh tranh giữa các quốc gia và một số khuyến nghị

Tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đến môi trường kinh doanh, cạnh tranh giữa các quốc gia và một số khuyến nghị

Các quốc gia cần phải xem xét lại cách tiếp cận của mình đối với chính sách thuế để bảo đảm rằng sự phát triển kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho những tập đoàn lớn mà còn cho toàn xã hội. Một trong những giải pháp khả thi là áp dụng mức thuế tối thiểu toàn cầu nhằm hạn chế “cuộc đua xuống đáy” và tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng hơn.
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Lạm phát gia tăng toàn cầu sau đại dịch Covid-19, vốn đã ảnh hưởng đến cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, nhưng dường như đã “bỏ qua” châu Á. Một trong những lý do chính là sự phục hồi chậm của các nền kinh tế châu Á do các đợt “đóng cửa”, “phong tỏa”, “cách ly”, “giãn cách” kéo dài và lặp đi lặp lại.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).

Thông tư sô 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Thông tư số 54/2024/TT-NHNN ngày 17/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 26/2021/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn giao dịch ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối

Thông tư số 53/2024/TT-NHNN ngày 04/12/2024 Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3

Thông tư số 52/2024/TT-NHNN ngày 29/11/2024 Quy định việc ngân hàng thương mại có cổ đông, cổ đồng và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ quy định tại Điều 55 của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 17/2017/QH14 xây dựng và thực hiện lộ trình để bảo đảm tuân thủ các quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15

Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 06/11/2024 Về tăng cường quản lý rủi ro rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng giai đoạn 2024 - 2028

Thông tư số 50/2024/TT-NHNN ngày 31/10/2024 Quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 49/2024/TT-NHNN ngày 25/10/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 46/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 48/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đông Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài