Kinh tế tỉnh An Giang phát triển chủ yếu dựa vào động lực chính là công nghiệp, thương mại, dịch vụ và du lịch trên nền tảng phát huy tốt thế mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp. Bài viết tập trung phân tích vai trò vốn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chi nhánh tỉnh An Giang (Agribank An Giang) đầu tư tạo động lực phát triển kinh tế nông nghiệp trên địa bàn. Qua đó, đề ra một số giải pháp phát huy thế mạnh để thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn trong thời gian tới, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ XI (nhiệm kỳ 2020 - 2025).
Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở An Giang
Hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững
Là một tỉnh được thiên nhiên ưu đãi, An Giang có lợi thế về nông nghiệp rất lớn. Thực tế cho thấy, An Giang đã hai lần tạo “đột phá” về nông nghiệp, nông thôn. Ở lần đột phá về đất đai giai đoạn sau đổi mới (năm 1986), An Giang từ tỉnh thiếu lương thực đã trở thành tỉnh sản xuất lương thực đứng nhất, nhì cả nước. Lần đột phá thứ 2 là về sản xuất cá tra (từ năm 1990), đưa An Giang trở thành địa phương có sản lượng cá tra hàng đầu vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cá tra nuôi ở An Giang xuất khẩu tới hơn 100 nước trên thế giới. Hoạt động sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu ngành, song lại giữ vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế bền vững của tỉnh An Giang. Nhìn từ thực tế, vấn đề sản xuất “thuận thiên” hướng đến nền nông nghiệp hiện đại, bền vững đã và đang được tỉnh An Giang thực hiện rất thành công. Đây được xem là điều kiện cần để nông nghiệp của An Giang ngày thêm phát triển. Định hướng phát triển nông nghiệp của tỉnh phù hợp với việc chuyển đổi theo Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu khi ưu tiên cá tra, rau màu, cây ăn trái và cuối cùng mới đến lúa gạo.
Tốc độ tăng trưởng 5,69% của ngành Nông nghiệp tỉnh An Giang trong 6 tháng đầu năm 2021 là nỗ lực rất lớn, khi nhiều mặt hàng nông sản vẫn còn gặp khó khăn trong tiêu thụ, lưu thông do tác động nặng nề của đại dịch Covid-19. Đây là cơ sở quan trọng để ngành Nông nghiệp hoàn thành mục tiêu năm 2021, tạo động lực phục hồi kinh tế của tỉnh.
An Giang đã đề ra nhiều giải pháp tháo gỡ các “điểm nghẽn” trong mời gọi đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là về thủ tục hành chính, khuyến khích tập trung đất đai sản xuất quy mô lớn. Qua đó, đã mời gọi được nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, bước đầu hình thành các vùng chuyên canh gắn với nhà đầu tư lớn, từng bước giải quyết bài toán giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Ba năm qua, An Giang đã thu hút 60 dự án đầu tư vào nông nghiệp trên tổng số 231 dự án đã đăng ký, tổng vốn đăng ký 22.860 tỷ đồng. So tổng số dự án của tỉnh trên các lĩnh vực, dự án nông nghiệp chiếm trên 26%, trong khi tổng số vốn đăng ký vào nông nghiệp chiếm gần 44% tổng vốn đăng ký đầu tư. Trong đó, một số tập đoàn lớn đã đầu tư vào An Giang, như lĩnh vực chăn nuôi (Tập đoàn THACO, Tập đoàn TH); thủy sản (Công ty cổ phần Nam Việt, Tập đoàn Việt Úc…); trồng trọt (Tập đoàn Tân Long, Tập đoàn Lộc Trời…).
Thời điểm 6 tháng đầu năm 2020, trước tác động của đại dịch Covid-19, trong khi nhiều lĩnh vực tăng trưởng âm thì ngành Nông nghiệp An Giang vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 2,66%. Kinh nghiệm từ ảnh hưởng khó khăn của dịch bệnh giúp An Giang điều hành sản xuất linh hoạt hơn.
Bước sang năm 2021, dù dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp, một số mặt hàng trái cây, cá tra tiêu thụ vẫn gặp khó nhưng tỉnh An Giang kịp thời tháo gỡ, xúc tiến thị trường, liên kết tiêu thụ. Trong khi đó, đàn chăn nuôi có dấu hiệu hồi phục nhờ kiểm soát tốt dịch bệnh, công tác phòng cháy, chữa cháy và bảo vệ rừng được quan tâm đúng mức. Cùng với mặt hàng lúa gạo vừa “trúng mùa”, vừa “được giá”, những nỗ lực, cố gắng đã giúp khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2021 có mức tăng 5,69% so cùng kỳ năm 2020.
Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn trong thời gian tới, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ XI (nhiệm kỳ 2020 - 2025), tỉnh An Giang đã đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm cho ngành Nông nghiệp. Trong đó, tiếp tục thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và xây dựng nông thôn mới, nhằm tạo đột phá trong phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững, nâng cao giá trị gia tăng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh, thích ứng với biến đổi khí hậu. Tỉnh An Giang điều hành sản xuất nông nghiệp theo hướng linh hoạt, phù hợp với diễn biến của đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
An Giang tiếp tục thực hiện chuyển đổi mạnh mẽ từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang kinh tế nông nghiệp hiện đại, chú trọng vai trò dự báo và nhu cầu thị trường đầu ra cho sản phẩm. Tỉnh tăng cường ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thông minh từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào quản lý kinh tế nông nghiệp; tạo điều kiện phát triển dịch vụ logistics, đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chủ lực nhằm nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững, nâng cao thu nhập, đời sống của dân cư nông thôn, bảo vệ môi trường trong bối cảnh và kịch bản từ tình hình đại dịch Covid-19 cũng như điều kiện biến đổi khí hậu, hội nhập quốc tế.
Trong nỗ lực chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, An Giang chú trọng phát triển các ngành hàng sản phẩm nông nghiệp chủ lực, sản phẩm có lợi thế theo chuỗi giá trị gắn với phát triển kinh tế hợp tác. Tiếp tục hình thành các vùng sản xuất chuyên canh hàng hóa lớn và quan tâm đầu tư hạ tầng giao thông, thủy lợi phục vụ nhu cầu sản xuất. Bên cạnh đó, An Giang tiếp tục thực hiện tốt chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Qua đó, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, xem doanh nghiệp là động lực quan trọng để có nền sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, liên kết sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nông sản. Ngoài ra, tiếp tục quan tâm công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao và nhu cầu của doanh nghiệp.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, An Giang đẩy mạnh ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nhằm gia tăng chất lượng, giá trị sản phẩm, gia tăng hàm lượng chế biến sản phẩm nông sản, sản phẩm chủ lực để từng bước tạo ra giá trị gia tăng cao. Sản xuất sản phẩm nông nghiệp theo hướng an toàn, sạch, hữu cơ kết hợp xây dựng thương hiệu sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa và phục vụ xuất khẩu. Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới gắn với đô thị hóa, xây dựng nông thôn văn minh, hiện đại. Thực tế cho thấy, vốn ngân hàng đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đầu tư và an sinh xã hội tại An Giang.
An Giang là địa phương có sản lượng cá tra đứng đầu vùng đồng bằng sông Cửu Long
Vai trò tín dụng của Agribank An Giang đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn
Với vai trò là “huyết mạch” của nền kinh tế, ngành Ngân hàng đã có những cơ chế, chính sách cùng lãi suất hợp lý, tạo điều kiện cho người dân khu vực nông nghiệp, nông thôn trong tiếp cận vốn tín dụng. Bên cạnh hoạt động của hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh, Agribank An Giang đã quan tâm và có nhiều chính sách để hỗ trợ phát triển lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Nhờ triển khai đồng bộ các giải pháp, chính sách nêu trên, tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn trong những năm vừa qua đã đạt kết quả đáng khích lệ.
Là ngân hàng hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh An Giang, để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong việc cung cấp nguồn vốn phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn, Agribank An Giang đã xây dựng được một mạng lưới hoạt động mạnh mẽ gồm: 01 trụ sở chi nhánh; 14 chi nhánh loại II; 10 phòng giao dịch trải dài khắp huyện, thị, thành phố trong tỉnh và một điểm giao dịch lưu động bằng ôtô chuyên dùng thuộc chi nhánh huyện Châu Phú, với tổng số gần 400 cán bộ, công nhân viên; đồng thời, bám sát các định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Ðảng, Chính phủ, chấp hành nghiêm túc các cơ chế chính sách, chỉ đạo điều hành của Ngân hàng Nhà nước, của Agribank Việt Nam trong hoạt động ngân hàng, đẩy mạnh công tác huy động vốn trong dân cư, xây dựng và giao chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh cụ thể đến từng chi nhánh trực thuộc, đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn của các thành phần kinh tế, góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả phát triển sản xuất kinh doanh của địa phương.
Về quy mô hoạt động, Agribank An Giang có tổng tài sản đến cuối Quý I/2021 là 14.261.276 triệu đồng, tăng nhẹ so với cuối năm 2020 với mức tăng 1,8% và so với cùng kỳ năm 2020 tăng 10%, nguyên nhân tăng chủ yếu là do tăng trưởng dư nợ cho vay.
Xác định công tác huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, ngay từ đầu năm 2021, Agribank An Giang đã tập trung triển khai tốt công tác huy động vốn tại địa phương, phát hành huy động tiết kiệm dự thưởng để tăng lợi thế cạnh tranh và thu hút khách hàng gửi tiền tại ngân hàng, như: Tổ chức phân công cán bộ chuyên trách thực hiện công tác huy động vốn tại cơ sở; thường xuyên theo dõi nắm bắt tình hình thị trường, khách hàng để khai thác nguồn vốn nhàn rỗi từ các thành phần kinh tế và dân cư. Chỉ tiêu tổng nguồn vốn huy động đến cuối Quý I/2021 đạt 10.569 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước, tăng 6,6%, chủ yếu là do tăng huy động vốn từ khách hàng cá nhân và tổ chức kinh tế, chiếm tỷ trọng 74% tổng tài sản.
Tổng dư nợ cho vay đến cuối Quý I/2021 là 13.637.870 triệu đồng, tăng nhẹ so với cuối năm 2020 (tăng 1,9%) và so với cùng kỳ năm 2020 tăng tương đối lớn, với mức tăng 10,3% và chiếm tỷ trọng 95,6% tổng tài sản. Về cơ cấu dư nợ, cho vay ngắn hạn chiếm tỷ lệ cao (chiếm 61,7%/tổng dư nợ), dư nợ cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ lệ 38,3%/tổng dư nợ và chiếm tỷ trọng 36,6% tổng tài sản.
Về cơ cấu dư nợ tập trung cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, tăng trưởng nguồn vốn đảm bảo nhu cầu tăng trưởng tín dụng trên cơ sở “tăng trưởng nguồn vốn mới được tăng dư nợ”. Cùng với việc đẩy mạnh công tác huy động vốn, ngân hàng thường xuyên chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, xử lý thu hồi nợ quá hạn, nợ xấu, thực hiện phân loại, lựa chọn khách hàng, dự án có hiệu quả để đầu tư, ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các đơn vị thu mua lương thực và nông sản xuất khẩu, chuyển đổi cơ cấu đầu tư hợp lý, phục vụ tốt mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương. Đến cuối tháng 5/2021, dư nợ cho vay nuôi trồng và chế biến thủy sản là 1.915 tỷ đồng, dư nợ cho vay thu mua lúa gạo xuất khẩu và tiêu dùng trong nước là 1.365 tỷ đồng và dư nợ cho vay nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch là 81 tỷ đồng. (Hình 1)
Tích cực phối hợp với địa phương thực hiện tốt công tác cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn theo chính sách tín dụng, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp theo Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp, Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 7/9/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 9/6/2015 của Chính phủ với quy định nâng mức cho vay tối đa không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình lên đến 200 triệu đồng góp phần đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của người dân (nhất là vùng sâu, vùng xa). Tạo điều kiện cho các hộ gia đình, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được tiếp cận nguồn vốn tín dụng của Nhà nước để phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, Agribank An Giang thường xuyên duy trì các chương trình: Cho vay hỗ trợ lãi suất chiếm tỷ trọng 0,21%/tổng dư nợ; cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ trọng 11,47%/tổng dư nợ; cho vay phục vụ đời sống chiếm tỷ trọng 17,44%/tổng dư nợ.
Công tác triển khai sản phẩm, dịch vụ ngân hàng luôn được tăng cường phát triển, nhất là dịch vụ ATM. Kích thích phát triển các dịch vụ hỗ trợ kèm theo như nghiệp vụ thấu chi, dịch vụ Mobile Banking, giải ngân qua tài khoản ATM, góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, khơi tăng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và thương hiệu Agribank trên địa bàn.
Agribank An Giang đẩy mạnh mở rộng tín dụng đầu tư trên địa bàn nhưng cũng quan tâm chú ý đến chất lượng tín dụng, đến cuối Quý I/2021 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu 0,43%.
Cùng với các nguồn vốn khác, vốn tín dụng ngân hàng trong những năm qua đang trở thành nguồn vốn quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh An Giang, góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất nông nghiệp trên địa bàn phát triển theo hướng chất lượng và bền vững.
Thứ nhất, thúc đẩy nông nghiệp tăng trưởng và phát triển cả về quy mô, chất lượng, hiệu quả và bền vững. Đặc biệt, trong giai đoạn khó khăn của nền kinh tế, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn vẫn tăng trưởng đều. Trong quá trình này, nguồn vốn tín dụng lãi suất thấp có vai trò quan trọng. Hiện nay, lãi suất cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn là 6%/năm (nằm trong 5 nhóm lĩnh vực ngành kinh tế ưu tiên lãi suất thấp theo Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước). Đây là yếu tố quan trọng trong điều kiện nền kinh tế gặp khó khăn, nhất là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Tín dụng lãi suất thấp không chỉ tạo điều kiện hỗ trợ, duy trì và phục hồi sản xuất, kinh doanh cho doanh nghiệp, cho người nông dân mà còn thúc đẩy mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh ở khu vực này trong những năm qua.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh An Giang đã hình thành nên các vùng sản xuất, chăn nuôi, chế biến giá trị cao và chất lượng mang tính chuyên canh và chủ lực, như: Vùng nuôi bò thịt và bò sữa; phát triển vùng cây ăn trái, cây kiểng; vùng nuôi cá tra, tôm càng xanh; vùng rau sạch và các vùng nuôi trồng thủy sản, làm muối… kết hợp phát triển du lịch sinh thái.
Thứ hai, vốn tín dụng ngân hàng trên địa bàn tỉnh An Giang góp phần phục vụ tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, nâng cao giá trị, tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và thủy sản của tỉnh hoạt động ngày càng hiệu quả, chất lượng hơn theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Trong đó, vốn tín dụng phục vụ sản xuất nông nghiệp đạt trên 45.700 tỷ đồng.
Thứ ba, thực hiện hiệu quả chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh An Giang. Theo đó, dư nợ tín dụng cho vay nuôi trồng, chế biến thủy sản đạt 8.176 tỷ đồng; dư nợ tín dụng cho vay thu mua lúa gạo là 6.538 tỷ đồng; dư nợ tín dụng cho vay xây dựng nông thôn mới là 16.704 tỷ đồng tiếp tục phản ánh hiệu quả và tạo hiệu ứng rất lớn đối với các trang trại sản xuất, hộ gia đình và nông dân. Thông qua việc hỗ trợ lãi suất cho vay, tạo điều kiện cho khách hàng vay vốn, người nông dân tiếp cận vốn giá rẻ để phát triển sản xuất, kinh doanh. Ý nghĩa thực tiễn mang lại là rất lớn, chương trình không chỉ duy trì, phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh, mở rộng kinh tế trang trại, kinh tế hộ mà còn mang lại thu nhập cho người dân, ổn định cuộc sống, góp phần đảm bảo an sinh xã hội tại các vùng nông nghiệp, nông thôn còn nhiều khó khăn, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị, với tốc độ tăng trưởng rất nhanh của khu vực nội đô. Sự linh hoạt và khả năng thích ứng nhanh của các doanh nghiệp và của khu vực nội đô luôn tạo ra những khoảng cách lớn giữa hai khu vực, qua đó góp phần thúc đẩy kinh tế của tỉnh tăng trưởng bền vững.
Để đồng vốn đơm hoa kết trái trên cánh đồng nông nghiệp
Để đầu tư tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn thực sự hiệu quả, cùng với các chính sách và giải pháp của ngành Ngân hàng, rất cần sự vào cuộc của các bộ, ngành, chính quyền địa phương và bản thân các cá nhân, tổ chức sản xuất nông nghiệp trong triển khai đồng bộ các giải pháp.
Thứ nhất, khẩn trương triển khai đồng bộ các chính sách đã được Chính phủ ban hành nhằm khuyến khích đầu tư, sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn như Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 của Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn thay thế Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 của Chính phủ; Nghị định số 58/2018/NĐ-CP ngày 18/4/2018 của Chính phủ về bảo hiểm nông nghiệp; Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; Nghị định số 109/2018/NĐ-CP ngày 29/8/2018 của Chính phủ về nông nghiệp hữu cơ; Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Thứ hai, đối với một số bộ, ngành liên quan cần: (i) Đánh giá, dự báo và cảnh báo về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm nông nghiệp, nhất là sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao làm cơ sở định hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao; (ii) Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra của sản phẩm nông nghiệp.
Thứ ba, nghiên cứu, triển khai các giải pháp thu hút nguồn vốn ưu đãi, hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, đồng thời có giải pháp đẩy nhanh tiến độ giải ngân và tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.
Thứ tư, địa phương cần quan tâm chất lượng công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch trong sản xuất nông nghiệp; chủ động triển khai, hướng dẫn thủ tục cấp giấy chứng nhận tài sản hình thành trên đất nông nghiệp để người dân có thể làm thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm, thế chấp vay vốn để tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp có tài sản bảo đảm thế chấp vay vốn ngân hàng.
Thứ năm, các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu tư sản xuất nông nghiệp cần chủ động tiếp cận đánh giá nhu cầu thị trường, nâng cao trình độ quản lý, năng lực sản xuất, lành mạnh hóa tình hình tài chính và xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, hiệu quả để tăng khả năng tiếp cận vốn vay tại các tổ chức tín dụng.
Thứ sáu, Agribank An Giang tiếp tục xác định nông nghiệp, nông thôn là một trong các lĩnh vực ưu tiên, theo đó tiếp tục mở rộng tín dụng và ưu tiên tập trung vốn cho vay đối với lĩnh vực này; tạo điều kiện thuận lợi cơ chế chính sách tín dụng liên quan đến sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng tại các khu vực nông nghiệp, nông thôn nhằm đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu vay vốn chính đáng của người dân.
Bên cạnh đó, tăng cường phối hợp với chính quyền địa phương tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình tín dụng đặc thù trong lĩnh vực nông nghiệp; đặc biệt là đẩy mạnh triển khai các giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị, mô hình liên kết, giúp tăng giá trị gia tăng trong sản xuất, góp phần thực hiện thành công Đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Tiếp tục xây dựng và triển khai các sản phẩm tín dụng phù hợp với người nông dân và đặc thù của sản xuất nông nghiệp; kịp thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo quy định tại Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, Nghị định số 116/2018/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước nhằm giúp người dân, doanh nghiệp ổn định và khôi phục sản xuất.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động tín dụng, ngân hàng, cải tiến quy trình, thủ tục, rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay; khuyến khích phát triển mô hình ngân hàng lưu động ở những vùng khó khăn, vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện cho người dân thuận tiện hơn trong việc tiếp cận vốn và các dịch vụ ngân hàng khác.
Ngoài ra, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ 4.0, cung ứng các sản phẩm tiện ích ứng dụng công nghệ mới phù hợp với nhu cầu của người dân, doanh nghiệp tại khu vực nông thôn; tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn doanh nghiệp, người dân, nhất là người dân ở khu vực nông thôn hiểu và sử dụng các sản phẩm có ứng dụng công nghệ 4.0.
Tiếp tục phối hợp với chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội như Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ tăng cường tuyên truyền, phổ biến các chính sách về tín dụng nông nghiệp, nông thôn và chuyển tải vốn đến người nông dân một cách hiệu quả nhất.
ThS. Trần Trọng Triết
NHNN Chi nhánh tỉnh An Giang