Triển vọng thu hút FDI sau chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden
14/09/2023 4.670 lượt xem
1. Thực trạng thu hút FDI của Việt Nam

Theo Tổng cục Thống kê, tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đăng kí vào Việt Nam tính đến ngày 20/8/2023 bao gồm: Vốn đăng kí cấp mới, vốn đăng kí điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 18,15 tỉ USD, tăng 8,2% so với cùng kì năm trước. FDI thực hiện tại Việt Nam 8 tháng đầu năm 2023 đạt khoảng 13,1 tỉ USD, tăng 1,3% so với cùng kì năm trước. Nếu tính riêng 6 tháng đầu năm 2023, tổng vốn đăng kí cấp mới, điều chỉnh và góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt hơn 13,4 tỉ USD (bằng 95,7% so với cùng kì năm trước). Vốn thực hiện của dự án đạt khoảng 10 tỉ USD (tăng 0,5%).

Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu về số dự án mới (chiếm 29,3%) và điều chỉnh vốn (chiếm 54,6%). Bán buôn, bán lẻ dẫn đầu về số giao dịch góp vốn, mua cổ phần (chiếm 42,8%).  

Trong số 90 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, so với cùng kì năm 2022, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư hơn 3 tỉ USD, chiếm hơn 22,3% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, giảm 27,5%; Nhật Bản đứng thứ 2, với gần 2,21 tỉ USD, chiếm 16,4% tổng vốn đầu tư, gấp gần 2,1 lần; Trung Quốc đứng thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng kí hơn 1,95 tỉ USD, chiếm 14,5% tổng vốn đầu tư, tăng 53,5%; tiếp theo danh sách là Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan...  Xét về số dự án, Trung Quốc dẫn đầu cả về số dự án mới (chiếm 18%). Hàn Quốc dẫn đầu về số lượt điều chỉnh vốn (chiếm 26,4%) và góp vốn, mua cổ phần (chiếm 28,9%).

Trong số 52 tỉnh, thành phố trên cả nước có FDI mới, Hà Nội dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng kí gần 2,27 tỉ USD, chiếm gần 16,7% tổng vốn đầu tư đăng kí và tăng gấp hơn 3 lần so với cùng kì năm 2022. Thành phố Hồ Chí Minh xếp thứ 2 với tổng vốn đầu tư đăng kí hơn 1,39 tỉ USD, chiếm gần 10,4% tổng vốn đầu tư cả nước, giảm 37,1% so với cùng kì năm 2022; tiếp theo lần lượt là các địa phương: Bắc Giang, Bình Dương, Hải Phòng… Nếu xét về số dự án, thành phố Hồ Chí Minh là địa bàn dẫn đầu cả nước cả về số dự án mới (38,9%), số lượt dự án điều chỉnh (24,9%) và góp vốn, mua cổ phần (65,4%).

Như vậy, Việt Nam hiện có 37.541 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng kí là 449,5 tỉ USD. Vốn thực hiện lũy kế là hơn 284 tỉ USD, bằng 63,2% tổng vốn FDI đăng kí còn hiệu lực.

Tính đến nay, Việt Nam đã thu hút FDI từ 142 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, chủ yếu đến từ khu vực Đông Á, cụ thể: Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore; dòng vốn FDI đến từ châu Âu và Bắc Mỹ vẫn còn rất khiêm tốn. FDI đã phát huy tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Các doanh nghiệp FDI đóng góp khoảng 7,5 - 8,5% tổng số thu ngân sách nội địa từ nguồn thuế thu nhập doanh nghiệp và chiếm khoảng 39 - 41% tổng số thu thuế thu nhập doanh nghiệp cả nước trong 3 năm từ 2020 - 2022; luôn chiếm tới trên 70% tổng giá trị xuất khẩu và khoảng 50% sản lượng công nghiệp hàng năm; thúc đẩy môi trường kinh tế năng động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và một số ngành công nghiệp khác, giúp đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao năng lực sản xuất các sản phẩm chứa hàm lượng chất xám cao, cũng như giá trị hàng nông sản xuất khẩu.

Tính tới ngày 20/6/2023, xuất khẩu (kể cả dầu thô) của khu vực FDI đạt khoảng 120,44 tỉ USD, giảm 12,7% so với cùng kì năm 2022, chiếm 73,6% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu (không kể dầu thô) đạt gần 119,51 tỉ USD, giảm 12,7%, chiếm 73% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Nhập khẩu của khu vực FDI đạt gần 99,53 tỉ USD, giảm 17,3% so cùng kì năm 2022 và chiếm 65% kim ngạch nhập khẩu cả nước. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu giảm trong 6 tháng đầu năm 2023, khu vực đầu tư nước ngoài vẫn xuất siêu hơn 20,9 tỉ USD kể cả dầu thô và xuất siêu gần 20 tỉ USD không kể dầu thô. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp trong nước nhập siêu gần 10,3 tỉ USD.

FDI tiếp tục góp phần quan trọng đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất mới và trung tâm sản xuất công nghệ của thế giới. Trong giai đoạn 2016 - 2020, FDI nhóm hàng điện tử, máy tính và linh kiện của Việt Nam tăng trưởng bình quân khoảng 23,8%, đưa Việt Nam từ vị trí 47 năm 2001 lên vị trí 12 thế giới và thứ 3 khu vực ASEAN về xuất khẩu điện tử. Nhiều tập đoàn đa quốc gia đã dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu từ một số nước sang Việt Nam và đầu tư nhiều dự án quy mô lớn, công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, thành lập hàng chục trung tâm nghiên cứu và phát triển (Research and Development - R&D), trung tâm đổi mới sáng tạo, vườn ươm công nghệ, liên kết thành công với doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa... Điển hình là các khoản đầu tư quy mô lớn của Samsung, Pegatron, Foxconn, Luxshare, Goertek, Google, LG, Quanta Computer (Đài Loan - Trung Quốc), Lego (Đan Mạch), Intel và một số nhà đầu tư nước ngoài khác, trong đó, Apple bắt đầu sản xuất iPad, Macbook; LG thông báo đầu tư thêm 04 tỉ USD để sản xuất camera cho điện thoại di động… Đây cũng là cơ sở để Việt Nam trong thời gian tới có thêm nhiều cơ hội phát triển doanh nghiệp, đất nước, nâng cao hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo từ những nền tảng hiện có về giáo dục, khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng công nghệ, công nghiệp chế biến, chế tạo...

Tuy nhiên, tác động của FDI trong việc cải tiến khoa học - công nghệ vẫn tồn tại một số hạn chế. Tuổi đời của công nghệ được sử dụng chủ yếu là công nghệ ra đời từ năm 2000 đến năm 2005 và phần lớn những công nghệ này là công nghệ trung bình hoặc trung bình tiên tiến của khu vực; các doanh nghiệp FDI chưa tập trung nhiều nguồn lực cho các hoạt động R&D. Đặc biệt, hiện tượng chuyển giá, trốn thuế và nhiều sự cố môi trường xảy ra do hoạt động xả thải của các doanh nghiệp FDI trong những năm qua là những bằng chứng cho thấy tác động mặt trái, tiêu cực của việc thu hút FDI ở Việt Nam.
 
FDI được kì vọng là kênh quan trọng để Việt Nam nhanh chóng tiếp thu công nghệ tiên tiến trên thế giới
(Nguồn ảnh: Internet) 

2. Triển vọng thu hút FDI vào Việt Nam và một số giải pháp

Việt Nam là nước có nhiều triển vọng và lợi thế trong cạnh tranh thu hút FDI với những yếu tố nền tảng như: Sự ổn định chính trị, vị trí địa lí và cơ sở hạ tầng, chính sách ưu đãi hấp dẫn và có mức tăng trưởng cao; có quy mô dân số tăng nhanh và đội ngũ nhân lực đang được cải thiện về chất lượng. Ngành sản xuất ở Việt Nam tiếp tục được mở rộng, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao. Ngoài ra, môi trường kinh tế đối ngoại của Việt Nam ngày càng được cải thiện với hơn 17 Hiệp định Thương mại tự do quốc tế đã được kí kết, bao gồm cả với Liên minh châu Âu (EU) và Vương quốc Anh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế số của Việt Nam đang bùng nổ, đứng đầu khu vực Đông Nam Á với 1.400 doanh nghiệp công nghệ số có doanh thu từ nước ngoài.

Theo “Báo cáo đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm 2022” do Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE) công bố tháng 02/2023, có tới 68,5% doanh nghiệp FDI cho rằng, Việt Nam có những yếu tố thuận lợi hơn so với các quốc gia khác để đưa ra quyết định đầu tư. Tuy nhiên, những thủ tục hành chính, chất lượng kết cấu hạ tầng, dịch vụ công vẫn là những vấn đề còn tồn tại, cần được khắc phục để Việt Nam thực sự hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài hơn nữa.

Ngày 12/01/2023, Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) công bố Chỉ số Môi trường kinh doanh (BCI). Theo đó, khoảng 35% trong số 1.300 thành viên của EuroCham được hỏi cho rằng, Việt Nam thuộc top 5 điểm đến đầu tư toàn cầu hàng đầu; 12% cho rằng, Việt Nam là điểm đầu tư quốc tế hàng đầu của công ty họ. Dù vậy, vẫn còn một số rào cản để doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam, trong đó, ba rào cản về pháp lí lớn nhất đối với các công ty nước ngoài hoạt động tại Việt Nam được xác định là: Thiếu rõ ràng về các quy tắc và quy định (51%), khó khăn hành chính (41%), khó khăn về thị thực và giấy phép lao động (30%).

Theo kết quả khảo sát mới nhất năm 2023 của Phòng Công nghiệp và Thương mại Đức tại Việt Nam (AHK Việt Nam), 88% số người tham gia khảo sát tự tin với tình hình kinh doanh của họ tại Việt Nam; 91% các nhà đầu tư của Đức mong muốn tiếp tục đầu tư hoặc mở rộng hoạt động kinh doanh tại Việt Nam và khoảng 40% trong số này có kế hoạch bổ sung lực lượng lao động trong 12 tháng tới. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, các doanh nghiệp vẫn còn quan ngại về chính sách phát triển kinh tế, thiếu hụt lao động có tay nghề và nguy cơ gián đoạn chuỗi cung ứng, lạm phát, xu hướng tách rời sự phụ thuộc của các nền kinh tế lớn và sự ảnh hưởng chính trị ngày càng gia tăng đối với chuỗi cung ứng, nhu cầu toàn cầu thấp.

Bên cạnh đó, sự cạnh tranh thu hút FDI ngày càng gay gắt trong khu vực đang làm xuất hiện xu hướng dịch chuyển một phần nào đó dòng chảy FDI (trước hết là trong lĩnh vực dệt may và da giầy) từ Việt Nam sang các nước khác, vì nhiều lí do, trong đó có tình trạng giảm sức cạnh tranh do lương công nhân và sự thua kém về đáp ứng yêu cầu xuất xanh và phát thải ròng carbon bằng “0” trong chuỗi cung ứng.

 Hơn nữa, viễn cảnh FDI toàn cầu ngày càng “phân mảnh” sâu sắc theo các khối liên minh. Nói cách khác, dấu ấn địa lí của FDI tỉ lệ thuận với xu hướng liên kết địa chính trị hiện nay, thể hiện qua tỉ trọng FDI giữa các nền kinh tế có liên kết địa chính trị đã không ngừng tăng lên, vượt trội so với tỉ trọng FDI giữa các nước gần gũi thuần túy về mặt địa lí.

Theo tinh thần Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 và Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài mà Chính phủ đã ban hành, giai đoạn 2021 - 2030, Việt Nam sẽ coi trọng thu hút các dự án công nghệ cao, quản trị hiện đại, giá trị gia tăng cao và có tác động lan tỏa tích cực, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, trực tiếp hỗ trợ quá trình thực hiện chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam. Việt Nam cũng đặt mục tiêu đến năm 2025 duy trì xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc 03 nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030 duy trì xếp hạng về chỉ số GII thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu thế giới; tầm nhìn đến năm 2045, trở thành một trong những trung tâm sản xuất và dịch vụ thông minh, trung tâm đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp thuộc nhóm dẫn đầu khu vực châu Á… Định hướng này sẽ chi phối chính sách tác động đến dòng FDI tương lai vào Việt Nam.

Đặc biệt, sau chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden từ ngày 10 - 11/9/2023, triển vọng thu hút FDI vào Việt Nam nhận được nhiều xung lực mới mạnh mẽ, tích cực.

Năm 1994, khi Mỹ chính thức gỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam, trong suốt 30 năm qua, mối quan hệ hợp tác Việt Nam - Mỹ phát triển sâu rộng, hiệu quả và thực chất trên cả ba bình diện: Song phương, khu vực và quốc tế, với những lĩnh vực hợp tác chủ chốt bao gồm chính trị - ngoại giao, kinh tế - thương mại, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, môi trường - y tế tới giải quyết hậu quả chiến tranh, quốc phòng - an ninh, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người và văn hóa - du lịch - thể thao; trong đó, quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại - đầu tư là điểm sáng nổi bật, thành công nhất, trở thành trọng tâm, nền tảng vật chất, động lực phát triển mạnh mẽ cho quan hệ chung giữa hai nước. Năm 2022, Mỹ trở thành đối tác thương mại lớn thứ 2 và là thị trường xuất khẩu lớn nhất (chiếm tỉ trọng 20% trong tổng trị giá xuất khẩu của cả nước) và cũng là thị trường xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam vượt mốc 100 tỉ USD. Giai đoạn 2020 - 2022, Mỹ vẫn duy trì vị thế là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, trong khi Việt Nam tiếp tục vươn lên, trở thành đối tác thương mại lớn thứ 7 của Mỹ. Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam - Mỹ năm 2022 là 123 tỉ USD, tăng gấp 4 lần so với năm 2013 và tăng tới 273 lần so với 450 triệu USD vào năm 1994. Việt Nam liên tục duy trì được thặng dư thương mại 2 con số với Mỹ trong nhiều năm qua.

Mỹ luôn là một trong những đối tác có đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, hiện đang xếp thứ 11/142 quốc gia, vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam với 1.223 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng kí hơn 11,4 tỉ USD. Nhiều đoàn doanh nghiệp rất lớn của Mỹ đã đến Việt Nam và đưa ra thông điệp đáng tin cậy về xu hướng các doanh nghiệp Mỹ đang hoạt động và sẽ tiếp tục mở rộng đầu tư tại Việt Nam như: Tập đoàn General Electric (GE), hãng Intel, Nike Exxon Mobile, Amazon, Cocacola, Google, Facebook, Paypal, Visa... Đến nay, đã xuất hiện xu hướng rõ nét việc các Tập đoàn lớn của Mỹ như Intel, Apple, Google, Boeing, Walmart… nghiên cứu, đầu tư mở rộng chuỗi cung ứng tại Việt Nam nhằm đảm bảo tính ổn định trong dài hạn của toàn chuỗi. Nhiều công ty của Mỹ đang hợp tác, hỗ trợ Việt Nam để đạt được mục tiêu xóa bỏ “dấu chân carbon”, góp phần cung cấp cho Việt Nam nguồn nhân lực có kĩ thuật cao và xây dựng các khu công nghiệp carbon thấp. Nhiều doanh nghiệp mới của Mỹ cũng rất quan tâm và mong muốn đầu tư vào Việt Nam. Thời gian tới, AmCham sẽ hỗ trợ Việt Nam thực hiện các cam kết về biến đổi khí hậu đưa ra tại Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26).

Mối quan hệ đầu tư Việt Nam - Mỹ đang có thêm động lực bổ sung tích cực từ các sự kiện kinh tế đối ngoại mới của Việt Nam như: Ngày 27/5/2023, các Bộ trưởng thương mại của Việt Nam, Mỹ và 12 đối tác khác trong khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vì Thịnh vượng (IPEF) đã công bố kết thúc đàm phán về Thỏa thuận chuỗi cung ứng IPEF quốc tế đầu tiên. Thỏa thuận được đề xuất nhằm mục đích tăng cường khả năng phục hồi, hiệu quả, năng suất, tính bền vững, minh bạch, đa dạng hóa, an ninh, công bằng và tính toàn diện của chuỗi cung ứng thông qua cả các hoạt động hợp tác và hành động riêng lẻ được thực hiện bởi từng đối tác IPEF...

Thực tế cho thấy, quan hệ Việt Nam - Mỹ nói chung và kinh tế - thương mại - đầu tư giữa hai nước nói riêng ngày càng phát triển nhờ sự chia sẻ những lợi ích ngày càng rộng lớn; với tinh thần “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai” và thái độ đối thoại chân thành, thẳng thắn, xây dựng từ cả hai phía, dựa trên những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc; đồng thời, được đặt trong tổng thể chính sách đối ngoại của Việt Nam là rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, hội nhập sâu rộng với thế giới, coi trọng quan hệ với các nước lớn, các đối tác quan trọng, cũng như của nhiều tổ chức, diễn đàn hợp tác khác.

Chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden sẽ mở ra cơ hội mới về thu hút FDI vào Việt Nam dựa trên những kết quả đột phá mà hai nước Việt Nam - Mỹ đạt được trong quan hệ song phương được ghi nhận trong Tuyên bố chung của các nhà lãnh đạo hai nước đã đưa ra ngày 11/9/2023, trong đó khẳng định: Mỹ ủng hộ một nước Việt Nam mạnh, độc lập, thịnh vượng và tự cường. Quan hệ Việt Nam - Mỹ được nâng cấp lên “Đối tác chiến lược toàn diện” trên cơ sở các nguyên tắc nền tảng, bao gồm tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Hai bên tiếp tục các quan hệ hợp tác giữa các chính đảng và các cơ quan lập pháp hai nước, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, xây dựng và củng cố lòng tin chính trị; phối hợp và triển khai hiệu quả các chương trình hợp tác mà hai bên đã nhất trí; tạo điều kiện thuận lợi và mở cửa thị trường hơn nữa cho hàng hóa, dịch vụ của mỗi nước, hỗ trợ chính sách thương mại, kinh tế và các biện pháp theo quy định để đạt được mục tiêu trên; cùng nhau giải quyết các vấn đề như rào cản tiếp cận thị trường thông qua Hiệp định Khung về thương mại và đầu tư; tiếp tục củng cố hệ thống thương mại đa phương không phân biệt đối xử, công bằng, bình đẳng, minh bạch, dựa trên luật lệ quốc tế, trong đó Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đóng vai trò nòng cốt.

Mỹ hoan nghênh, ủng hộ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và tiến tới công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam. Mỹ cam kết tăng cường hỗ trợ Việt Nam về sản xuất, phát triển hạ tầng vật chất và hạ tầng số chất lượng cao, chuyển đổi năng lượng công bằng, nông nghiệp bền vững và thông minh, cũng như hỗ trợ Việt Nam tham gia sâu rộng, bền vững vào các chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, trong đó có việc chú trọng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam; đẩy mạnh hợp tác về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực số, coi đây là đột phá mới của quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện. Mỹ cam kết tăng cường hỗ trợ Việt Nam đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và lực lượng lao động công nghệ cao, phát triển nhanh chóng của hệ sinh thái bán dẫn tại Việt Nam và nâng cao vị trí của Việt Nam trong chuỗi cung bán dẫn toàn cầu; thúc đẩy hạ tầng số an toàn và tin cậy. Đồng thời, cam kết hỗ trợ cả về tài chính và công nghệ tiên tiến để giúp Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế về khí hậu, thích ứng liên ngành với biến đổi khí hậu; giảm ô nhiễm và hỗ trợ tự nguyện về kĩ thuật liên quan đến việc hiện đại hóa hạ tầng truyền tải điện, tích hợp năng lượng tái tạo, phát triển thị trường khí hậu, giải pháp lưu trữ năng lượng và cải thiện khuôn khổ pháp lí cho phép chuyển đổi năng lượng kịp thời và công bằng; thúc đẩy nền nông nghiệp phát thải thấp và có sức chống chịu trước biến đổi khí hậu, bảo tồn đa dạng sinh học, giảm ô nhiễm. Hỗ trợ các chương trình ngăn ngừa và kiểm soát dịch bệnh HIV và lao phổi, phát triển ngành dược; thúc đẩy quan hệ giữa các cộng đồng, các ngành, doanh nghiệp, giữa thế hệ trẻ, tổ chức nhân dân hai nước; thúc đẩy hợp tác giữa các cơ quan thực thi pháp luật và tư pháp hình sự, an ninh tình báo; phối hợp, trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả hợp tác hàng hải và công tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, nạn cướp biển, rửa tiền, nạn mua bán người, buôn bán trái phép chất ma túy và tiền chất ma túy, tội phạm mạng và tội phạm công nghệ cao; thiết lập cơ chế Đối thoại An ninh và thực thi pháp luật giữa các cơ quan thực thi pháp luật, an ninh và tình báo có liên quan. Hai nước lên án hành vi khủng bố và bạo lực cực đoan dưới mọi hình thức và mong muốn hợp tác chống khủng bố cũng như hoạt động cung cấp tài chính cho các tổ chức khủng bố, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và các thỏa thuận quốc tế liên quan khác mà hai nước là thành viên; tăng cường hợp tác nhằm thúc đẩy thương mại quốc phòng, công nghiệp quốc phòng; thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, phù hợp với hiến pháp của mỗi nước và các cam kết quốc tế; tăng cường phối hợp trong các vấn đề khu vực và toàn cầu mà hai bên cùng có lợi ích và quan tâm, thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, tôn trọng luật pháp quốc tế, bao gồm Hiến chương Liên hợp quốc và thúc đẩy một cấu trúc khu vực mở, bao trùm với vai trò trung tâm của ASEAN; ủng hộ nhất quán việc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, cũng như tự do hàng hải và hàng không, thương mại hợp pháp không bị cản trở ở Biển Đông, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mỗi quốc gia, phù hợp với luật biển quốc tế được thể hiện trong Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982); thực hiện đầy đủ và hiệu quả toàn bộ Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông năm 2002 và tái khẳng định ủng hộ các nỗ lực của ASEAN nhằm đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông hiệu lực và thực chất, phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS 1982 và không ảnh hưởng tới các quyền của bất cứ quốc gia nào theo luật pháp quốc tế...

Với tinh thần đó, có thể nói, chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden có ý nghĩa rất quan trọng trong việc củng cố hơn nữa mối quan hệ Việt Nam - Mỹ; đồng thời, tạo nền tảng toàn diện và cải thiện môi trường kinh doanh thúc đẩy hợp tác song phương, đặc biệt là đầu tư từ Mỹ và kéo theo làn sóng FDI của doanh nghiệp phương Tây với trình độ khoa học kĩ thuật tiên tiến hàng đầu thế giới đầu tư vào Việt Nam.

Việc nâng tầm quan hệ hai nước lên Đối tác chiến lược toàn diện, cũng như việc Mỹ sẽ tiến tới công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam theo luật của Mỹ là những trụ cột vững chắc mới, củng cố niềm tin của doanh nghiệp với chính phủ, giữa chính phủ với chính phủ và giữa nhân dân hai nước, củng cố cơ sở và động lực, cơ hội mới thúc đẩy hợp tác giữa hai bên, trong đó có hợp tác về kinh tế, thương mại, đầu tư, và giúp nâng cao sức hấp dẫn của Việt Nam so với các quốc gia khác, giúp Việt Nam trở thành một trung tâm thu hút đầu tư hàng đầu ở khu vực và trên thế giới, trong đó có các dòng FDI từ các đối tác hàng đầu nắm giữ công nghệ nguồn, có sức mạnh tài chính và chiến lược đầu tư lâu dài vào Việt Nam.

Để khai thác các cơ hội mới và hiện thực hóa các kì vọng thu hút FDI trong thời gian tới, sau chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden, Việt Nam cần tập trung triển khai đồng bộ một số giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, bên cạnh yêu cầu bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, kinh tế vĩ mô, vị thế và năng lực cạnh tranh môi trường kinh doanh quốc tế, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật, nâng cấp chính sách thu hút và sử dụng FDI,  hiện đại hóa hạ tầng kinh tế - xã hội và đẩy mạnh cải cách hành chính quốc gia, phát triển nguồn nhân lực và hệ sinh thái về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo với cơ chế quản lí linh hoạt; cải thiện môi trường kinh doanh phù hợp với yêu cầu và tạo thuận lợi cho cho các tập đoàn lớn có thể đầu tư lâu dài vào các lĩnh vực ưu tiên, nhằm hướng mạnh FDI vào tăng trưởng xanh, chuyển đổi số và kết nối chuỗi cung ứng của doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp FDI, nhất là các tập đoàn xuyên quốc gia lớn.

Theo đó, cần xác định lại các lợi thế cạnh tranh của nước ta trong giai đoạn mới, không chỉ dựa vào giá nhân công rẻ, nguồn lao động dồi dào, mà còn là các yếu tố mới, như sức hấp dẫn và sự minh bạch của môi trường đầu tư theo hướng đơn giản hóa, số hóa và hợp lí hóa các thủ tục hành chính, mức độ làm quen với các dự án công nghệ và yêu cầu bảo hộ sở hữu trí tuệ, nguồn gốc xuất xứ; phát triển cơ sở hạ tầng; coi trọng yêu cầu bảo vệ và thân thiện với môi trường; nâng cao chất lượng lực lượng lao động lành nghề và năng lực cạnh tranh của các nhà cung cấp địa phương trong chuỗi cung ứng toàn cầu, bao gồm cả về đất đai, nhân lực, hạ tầng, công nghiệp hỗ trợ; xây dựng các quy định, tiêu chuẩn nhằm sàng lọc hiệu quả nhà đầu tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến, thân thiện môi trường và năng lực sản xuất tốt.

Trong bối cảnh thực thi chính sách thuế tối thiểu toàn cầu 15% theo trụ cột 2 của chương trình chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) từ năm 2024, Việt Nam cũng cần sớm nghiên cứu và triển khai các giải pháp hỗ trợ ngoài thuế cho doanh nghiệp FDI; trước hết là ưu đãi hơn về thời hạn visa doanh nghiệp, thủ tục và chi phí tuân thủ về cấp phép đầu tư, đăng kí thành lập doanh nghiệp, kiểm tra, giám sát hải quan, giá thuê đất khu công nghiệp, đào tạo lao động và dứt khoát loại bỏ các chi phí không chính thức.

Thứ hai, Việt Nam cần hình thành hệ sinh thái hỗ trợ thực chất chuỗi các nhà cung ứng nội địa nâng cao năng lực quản trị hiện đại, cải tiến liên tục (Kaizen)  và phát triển ổn định, bền vững, sản xuất sản phẩm đáp ứng được các tiêu chuẩn thế giới (như Mỹ, Anh, châu Âu…); nỗ lực phát triển cộng đồng doanh nghiệp Việt tiến tới cung ứng sản phẩm mang thương hiệu của mình để vừa có lợi nhuận cao, vừa nâng cao tinh thần tự tôn dân tộc, tự hào thương hiệu Việt.

Chính phủ Việt Nam cần chủ động phối hợp với chính phủ Mỹ và các nước khác trong việc sớm gỡ bỏ các rào cản liên quan đến hàng rào kĩ thuật, thủ tục pháp lí cho hoạt động hợp tác kinh tế - thương mại - đầu tư công bằng và mở rộng thị trường cho cả hai bên; tạo điều kiện thuận lợi nhất cho cộng đồng doanh nghiệp các bên kết nối kinh doanh và đầu tư hiệu quả, thành công tại Việt Nam, nhất là trong những lĩnh vực mà các nước chủ đầu tư có thế mạnh và Việt Nam đang mong muốn phát triển như: Công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, mạng viễn thông, bán dẫn, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch và kinh tế xanh, kinh tế số, kết cấu hạ tầng, tài chính - ngân hàng, giáo dục đào tạo, du lịch, nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sáng tạo, ô tô, hàng không…

Thứ ba, các cơ quan chức năng và cộng đồng doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với nhau trong hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng hàng hóa, xây dựng thương hiệu, bảo đảm thông tin truy xuất nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa và phòng, chống các biểu hiện né tránh thuế và gian lận thương mại, cũng như bảo vệ những lợi ích chính đáng của doanh nghiệp trước các vụ điều tra, chống bán phá giá hay gian lận thương mại; xây dựng và tận dụng tốt hệ thống phân phối, triển khai hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại - đầu tư; tăng cường kết nối và phát huy sức mạnh cộng đồng, khát vọng hùng cường của cộng đồng doanh nhân và người Việt trong nước, cũng như đang sinh sống, kinh doanh ở nước ngoài để gắn kết sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu...

Nói chung, kể từ khi bình thường hóa quan hệ và thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện đến nay, Việt Nam - Mỹ đã tạo dựng được mối quan hệ bền vững, năng động và hiệu quả. Việt Nam - Mỹ đã hợp tác chặt chẽ với nhau trên hầu hết các lĩnh vực, hai nước xây dựng mối quan hệ hợp tác mạnh mẽ về đầu tư, thương mại, kinh tế, chống biến đổi khí hậu... Việt Nam - Mỹ là những đối tác thực sự cùng thúc đẩy lợi ích chung giữa hai nước và cùng vì lợi ích của người dân mỗi nước. Với Mỹ, Việt Nam luôn là một trong những mối quan hệ năng động nhất, quan trọng trong nhiều thập kỉ vừa qua và mối quan hệ này sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới. Phát triển quan hệ kinh tế - thương mại - đầu tư Việt Nam - Mỹ nói riêng và thu hút FDI vào Việt Nam nói chung sẽ chuyển sang một trạng thái mới, với quy mô lớn hơn, lợi ích nhiều hơn, chất lượng và hiệu quả cao hơn, tương xứng với sự gia tăng của quan hệ song phương Việt Nam - Mỹ.

Tài liệu tham khảo:
1. https://1thegioi.vn/de-viet-nam-nhap-khau-von-fdi-khong-vi-pham-quy-tac-thue-toi-thieu-toan-cau-201682.html
2.https://soha.vn/viet-nam-o-at-don-dai-bang-fdi-voi-quy-mo-chua-tung-thay-dua-kinh-te-thang-hang-than-toc-vung-ngoi-so-1-dong-nam-a-20230626072730936.htm
3. https://kinhtedothi.vn/thach-thuc-thu-hut-fdi.html
4. https://baodautu.vn/bung-no-dau-tu-nuoc-ngoai-viet-nam-tro-thanh-trung-tam-san-xuat-moi-d189625.html
5.https://www.anninhthudo.vn/41-doanh-nghiep-chau-au-muon-chuyen-hoat-dong-tu-trung-quoc-sang-viet-nam-post528519.antd
6. https://plo.vn/hon-90-nha-dau-tu-duc-muon-tiep-tuc-dau-tu-mo-rong-kinh-doanh-tai-viet-nam-post741153.html
7. https://vietq.vn/viet-nam---dat-lanh-hap-dan-nguon-von-fdi-chat-luong-cao-d207048.html
8. Tổng cục Thống kê (2019), Báo cáo điều tra lao động - việc làm quý I/2019, Hà Nội.
9. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của Tổng cục Thống kê quý IV/2020 và năm 2020, năm 2021, 2022 và 6 tháng năm 2023.

  
ThS. Nguyễn Trần Minh Trí
Viện Kinh tế và Chính trị thế giới Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Thực tiễn báo cáo ESG của hệ thống ngân hàng Việt Nam
Thực tiễn báo cáo ESG của hệ thống ngân hàng Việt Nam
06/05/2024 308 lượt xem
Bài viết này đánh giá thực trạng ngân hàng trong việc thực thi phát triển bền vững và công bố báo cáo ESG (môi trường, xã hội, quản trị), từ đó, đưa ra một số khuyến nghị điều chỉnh để hệ thống ngân hàng Việt Nam thực hiện nhiệm vụ được Chính phủ giao trong hành trình thực hiện cam kết phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 của Việt Nam.
Dự đoán rủi ro tín dụng sử dụng học sâu
Dự đoán rủi ro tín dụng sử dụng học sâu
03/05/2024 397 lượt xem
Việc đánh giá và dự đoán khả năng trả nợ của khách hàng là rất quan trọng để ngân hàng giảm thiểu rủi ro. Vì lí do này, các ngân hàng thường xây dựng hệ thống xử lí yêu cầu cho vay dựa trên tình trạng của khách hàng, chẳng hạn như tình trạng việc làm, lịch sử tín dụng...
Tăng cường thực hiện trách nhiệm xã hội tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tăng cường thực hiện trách nhiệm xã hội tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
01/05/2024 444 lượt xem
Một mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng là tìm kiếm lợi ích cho cổ đông. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, ngân hàng thương mại (NHTM) cũng là một nhân tố hình thành các hoạt động xã hội với những cá nhân và tổ chức liên quan, tạo nên mối liên kết với các chủ thể trong nền kinh tế.
Nâng cao hiệu quả quản lý gian lận số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nâng cao hiệu quả quản lý gian lận số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
24/04/2024 743 lượt xem
Thời gian qua, quá trình số hóa diễn ra liên tục và mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và đã mang lại những lợi ích đáng kể cho sự ổn định của khu vực tài chính nói riêng, sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Nhờ quá trình này mà các tổ chức tài chính có khả năng cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính, ngân hàng với chi phí thấp hơn, giúp nâng cao trải nghiệm và khả năng tiếp cận sản phẩm, dịch vụ của khách hàng, tăng cường minh bạch trong giao dịch tài chính và phản ứng nhanh chóng với các cuộc khủng hoảng.
Chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức, doanh nghiệp - định hướng  phát triển trong thời đại 4.0
Chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức, doanh nghiệp - định hướng phát triển trong thời đại 4.0
23/04/2024 648 lượt xem
Dữ liệu đóng vai trò thiết yếu trong hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp. Việc chia sẻ dữ liệu mở ra những cơ hội mới, tạo thêm nhiều giá trị, đồng thời góp phần bồi đắp kho dữ liệu hiện có, khai phá tiềm năng tối ưu hóa và đổi mới mô hình kinh doanh.
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đám bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đám bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
19/04/2024 0 lượt xem
Do nhu cầu tài chính phục vụ cho quá trình chuyển đổi của các doanh nghiệp ngày càng cao nên thị trường tín dụng liên kết bền vững toàn cầu tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Việt Nam cần nhanh chóng thúc đẩy và mở rộng hoạt động cho vay nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp ở đa dạng ngành, nghề thực hiện chiến lược phát triển bền vững.
Thực hiện tăng trưởng xanh - Tiền đề cho phát triển bền vững của Việt Nam
Thực hiện tăng trưởng xanh - Tiền đề cho phát triển bền vững của Việt Nam
12/04/2024 1.372 lượt xem
Phát triển bền vững đang là mục tiêu quan trọng của Việt Nam trong những năm qua và trong tương lai, theo đó tăng trưởng xanh với sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường chính là tiền đề để thực hiện mục tiêu này.
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
10/04/2024 1.388 lượt xem
Bài viết đề xuất một số khuyến nghị về xây dựng, thực thi chính sách tín dụng liên kết bền vững để góp phần đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và chiến lược phát triển bền vững tại Việt Nam...
Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
05/04/2024 1.579 lượt xem
Nghiên cứu trình bày về tầm quan trọng của ESG (Environmental - môi trường, Social - xã hội, Governance - quản trị) trong quá trình phát triển bền vững của ngân hàng, thực tiễn triển khai các hoạt động về ESG, các kết quả đạt được và thách thức, từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy triển khai ESG trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.
Tác động của minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Tác động của minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
03/04/2024 1.407 lượt xem
Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu tác động của tính minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate social responsibility - CSR) đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng.
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
02/04/2024 1.311 lượt xem
Bài viết dựa trên cơ sở tổng quan về giám sát tài chính, tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới để rút ra một số bài học và khuyến nghị đối với công tác giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước tại Việt Nam hiện nay.
Kinh nghiệm thực thi chính sách tài chính khí hậu trên thế giới và một số khuyến nghị cho Việt Nam
Kinh nghiệm thực thi chính sách tài chính khí hậu trên thế giới và một số khuyến nghị cho Việt Nam
01/04/2024 1.330 lượt xem
Một trong những vấn đề khó khăn nhất hiện nay đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, đó là việc thiếu nguồn lực tài chính để ứng phó với biến đổi khí hậu, hay còn gọi là tài chính khí hậu...
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/03/2024 1.420 lượt xem
Để nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ NHNN phù hợp thông lệ quốc tế và các quy định về kiểm toán nội bộ của Việt Nam, một trong những yêu cầu hiện nay là nghiên cứu, rà soát, ban hành Sổ tay Kiểm toán nội bộ NHNN nhằm tập hợp, hệ thống hóa các quy định chung về kiểm toán nội bộ của NHNN.
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
25/03/2024 1.808 lượt xem
Trong kỉ nguyên số, Chatbot đóng vai trò vô cùng quan trọng và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, trong đó có lĩnh vực ngân hàng.
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
22/03/2024 2.631 lượt xem
Trong thị trường kinh tế, giao dịch phái sinh là một dạng hợp đồng dựa trên giá trị các loại tài sản cơ sở khác nhau như hàng hóa, chỉ số, lãi suất hay cổ phiếu (giấy tờ có giá).
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

83.700

85.900

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

83.700

85.900

Vàng SJC 5c

83.700

85.920

Vàng nhẫn 9999

73.200

75.000

Vàng nữ trang 9999

73.100

74.100


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,127 25,457 26,616 28,075 31,023 32,342 160.12 169.47
BIDV 25,157 25,457 26,757 27,987 31,089 32,385 160.72 169.18
VietinBank 25,173 25,457 26,857 27,946 31,480 32,490 161.8 169.75
Agribank 25,150 25,457 26,797 28,111 31,196 32,369 161.56 169.75
Eximbank 25,110 25,190 26,880 26,961 31,400 31,463 162.35 162.84
ACB 25,130 25,457 26,942 27,645 31,531 32,225 161.93 167.32
Sacombank 25,142 25,457 27,058 27,818 31,602 32,320 163.01 168.04
Techcombank 25,162 25,457 26,704 28,055 31,105 32,428 158.36 170.76
LPBank 24,927 25,457 26,593 28,097 31,455 32,399 160.61 171.84
DongA Bank 25,190 25,457 26,960 27,670 31,420 32,300 160.40 167.70
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,30
3,60
4,30
4,40
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,10
2,10
2,30
3,40
3,45
4,30
4,30
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
2,90
3,10
3,20
4,00
4,00
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?