Tác động truyền thông chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tới người tiêu dùng
27/06/2024 10:26 1.138 lượt xem
Tóm tắt: Bài viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính truyền thống và nghiên cứu định lượng qua việc chạy mô hình hồi quy Logistic nhị phân (Binary Logistic Regression) để đánh giá tác động từ truyền thông chính sách tiền tệ (CSTT) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tới người tiêu dùng. Dữ liệu sử dụng trong bài nghiên cứu được thu thập từ 358 người Việt Nam ngẫu nhiên. Nghiên cứu tiến hành xử lí và tính toán bộ dữ liệu thu thập trên Excel và phần mềm SPSS để thu được kết quả. Kết quả nghiên cứu cho thấy, biến nhận thức tài chính của người tiêu dùng tại Việt Nam tương quan thuận chiều với biến phụ thuộc hành vi tài chính, nghĩa là nhận thức tài chính càng cao thì hành vi tài chính càng cao. Bên cạnh đó, kết quả cũng chỉ ra rằng, các biến như: Thu nhập, chuyên ngành, nội dung truyền thông và kênh truyền thông có tác động đáng kể tới hành vi tài chính. Dựa trên kết quả này, nhóm tác giả đề xuất một số khuyến nghị giúp khắc phục các hạn chế và nâng cao tầm ảnh hưởng của truyền thông CSTT đến người tiêu dùng Việt Nam.
 
Từ khóa: Truyền thông, CSTT, NHNN, ngân hàng trung ương, nhận thức tài chính, hành vi tài chính, người tiêu dùng, mô hình hồi quy Logistic nhị phân.
 
THE IMPACT OF THE STATE BANK OF VIETNAM MONETARY POLICY COMMUNICATION
ON CONSUMERS

 
Abstract: The article employs traditional qualitative research methods and quantitative research through running a Binary Logistic Regression model to assess the impact of the State Bank of Vietnam monetary policy communication on consumers. The data used in the research were collected from 358 randomly selected Vietnamese individuals. The study processed and computed the collected data on Excel software and tested it on SPSS software to obtain results. The findings of the study indicate that financial awareness of consumers in Vietnam has a positive correlation with financial behavior, meaning that higher financial awareness leads to higher financial behavior. Additionally, the results also demonstrate that variables such as income, major, communication information and media channel significantly impact financial behavior. Based on these findings, the article proposes some recommendations to address limitations and enhance the influence of monetary policy communication on Vietnamese consumers.

Keywords: Communication, monetary policy, the State Bank of Vietnam, central bank, financial awareness, financial behavior, consumers, Binary Logistic Regression.
 
1.  Giới thiệu

Trong thời đại công nghệ hiện nay, truyền thông và kĩ thuật đang phát triển một cách nhanh chóng và góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế. Nắm bắt thời cơ này, các ngân hàng trung ương trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng nhận ra rằng truyền thông đóng vai trò quan trọng như một công cụ truyền dẫn CSTT, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Điều này đã thúc đẩy việc ban hành Quyết định số 1016/QĐ-NHNN ngày 23/5/2017 của Thống đốc NHNN, xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Vụ Truyền thông; thực hiện chức năng tham mưu, giúp Thống đốc NHNN quản lí và tổ chức thực hiện hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng liên quan đến chức năng quản lí nhà nước của NHNN.
 
Theo Michael Ehrmann và cộng sự (2022), cách thức truyền thông về CSTT của các ngân hàng trung ương đã phát triển đáng kể trong những năm gần đây. Theo T.T.V.  Linh và cộng sự (2021), hoạt động truyền thông đang ngày càng được NHNN chú trọng hơn. Đồng thời, hoạt động truyền thông của NHNN cũng được phát huy mạnh mẽ và thể hiện tầm quan trọng ở mức cao nhất trong giai đoạn 2020 - 2021, giai đoạn mà cả Việt Nam đang phải đối mặt với đại dịch Covid-19.
 
Từ đó, có thể hiểu rằng, tác động của truyền thông CSTT tới người tiêu dùng là sự thay đổi trong quyết định của người tiêu dùng đối với việc thu nhận và tiêu thụ các sản phẩm hoặc dịch vụ, cũng như ý tưởng dự đoán, kì vọng và nhận thức về thị trường thông qua quá trình tiếp nhận các thông tin, tín hiệu CSTT từ ngân hàng trung ương đến thị trường và công chúng. Bản chất truyền thông chính sách là tác động tới hành vi và nhận thức giúp định hướng thị trường trong ngắn hạn, dài hạn dựa trên kì vọng của người tiêu dùng.
 
2. Tổng quan nghiên cứu

2.1. Tổng quan nghiên cứu về tác động từ truyền thông CSTT của ngân hàng trung ương tới người tiêu dùng
 
Theo Van der Cruijsen và đồng nghiệp (2010), truyền thông về CSTT tác động chủ yếu đến nam giới và những người có địa vị xã hội cao. Ngoài ra, những người có trình độ kinh tế - xã hội cao thường dễ tiếp thu thông tin được truyền thông qua phương tiện truyền thông hơn, do trình độ học vấn cao hơn và có điều kiện tiếp xúc với tin tức tốt hơn (Tichenor và cộng sự, 1970; Gaziano, 1997; Carpini và Keeter, 1996; Hwang và Jeong, 2009). 
 
Tuy nhiên, Kumar và cộng sự (2015) phát hiện rằng, ở New Zealand, các hình thức truyền thông trực tiếp được sử dụng bởi Ngân hàng Dự trữ New Zealand (RBNZ - Reserve Bank of New Zealand) không thể tiếp cận đến với nhiều người tiêu dùng. Thậm chí, họ còn thiếu kiến thức cơ bản về ngân hàng trung ương. Trái lại, Lena Dräger, Michael J. Lamla, Damjan Pfajfar (2016) đã chỉ ra rằng, thông tin từ ngân hàng trung ương cũng như tin tức về CSTT có thể hỗ trợ hiểu biết của người tiêu dùng về các khái niệm kinh tế chính.  
 
Một số ngân hàng trung ương đã thực hiện khảo sát với công chúng để tìm hiểu họ biết gì về ngân hàng trung ương. Ngân hàng Dự trữ Nam Phi đã thực hiện một cuộc khảo sát vào năm 2011, kết quả chỉ ra rằng, có tới 45% người dân Nam Phi không biết đến sự tồn tại của Ngân hàng Trung ương Nam Phi (Marcus, 2014). Trong một cuộc khảo sát khác, Eurobarometer của Ủy ban châu Âu đã khảo sát công dân từ các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu vào năm 2019, có đến tận 13% người dân được khảo sát không biết đến hoặc chưa từng nghe nói đến sự tồn tại của ECB (Ngân hàng Trung ương châu Âu).
 
2.2. Tổng quan nghiên cứu về CSTT và người tiêu dùng
 
Ảnh hưởng của CSTT đến người tiêu dùng được đánh giá trên nhiều khía cạnh khác nhau, điển hình là hành vi tiêu dùng và vay mượn của họ. Bernanke và Gertler (1995), Maria Sandstrom (2018) đã nhận ra rằng, CSTT thắt chặt làm tăng lãi suất, dẫn đến việc người dân giảm vay mượn. Và ngược lại, khi CSTT được nới lỏng, lãi suất giảm khuyến khích người dân vay mượn nhiều hơn. 
 
Theo Amato và cộng sự (2003), khi người tiêu dùng nhận được tín hiệu về sự thay đổi trong CSTT, họ sẽ nảy sinh những kì vọng nhất định tùy theo tình hình kinh tế và chính sách. Nghiên cứu của Di Bartolomeo và Rossi (2007) phát hiện rằng, CSTT trở nên hiệu quả hơn khi mức độ tham gia thị trường tài chính giảm. 
 
Bên cạnh đó, Clarida và cộng sự (1999) đã sử dụng mô hình Keynesian, kết quả nghiên cứu của họ chỉ ra rằng, khi lạm phát tăng cao, CSTT thắt chặt giúp cho Chính phủ giảm giá hàng hóa, từ đó kích thích người dân mua sắm. Dynan (2012) đồng tình về việc CSTT tác động lớn đến tiêu dùng, vay mượn và hành vi gửi tiết kiệm của các hộ gia đình. Lilia Cavallari (2020) bổ sung thêm rằng, CSTT ảnh hưởng đến sự co giãn của giá cả. Độ co giãn ngày càng tăng, chi phí ngày càng cao, mức tiêu dùng sẽ giảm. Các nhận định trên đều được Marco Airaudo (2023) ủng hộ bằng mô hình New Keynesian và chỉ ra thế nào là CSTT tối ưu giúp định hướng hành vi của người tiêu dùng.
 
2.3. Tổng quan nghiên cứu về truyền thông CSTT của ngân hàng trung ương
 
Trong một cuộc khảo sát năm 2016 giữa các thống đốc ngân hàng trung ương, hơn 80% chỉ ra rằng, hoạt động truyền thông trong tổ chức của họ đã tăng cường kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (Blinder và cộng sự, 2017). Theo Michael Ehrmann và cộng sự (2022), cách thức truyền thông về CSTT của các ngân hàng trung ương đã phát triển đáng kể trong những năm gần đây. 
 
Theo Sajjad Zaheer và cộng sự (2019), Ngân hàng Trung ương Pakistan (SBP) đã và đang dần dần cải thiện hoạt động truyền thông của mình để phù hợp với các thông lệ quốc tế, đặc biệt là trong thập kỉ qua. Đầu tiên, SBP tăng cường tập trung vào triển vọng kinh tế, thường xuyên đánh giá điều kiện kinh tế, tổ chức họp báo và phát biểu. Đồng thời, cả khuôn khổ CSTT lẫn việc truyền thông về CSTT của SBP cũng đã có những cải tiến quan trọng theo thời gian.
 
Theo T.T.V. Linh và cộng sự (2021), hoạt động truyền thông đang ngày càng được NHNN chú trọng hơn. Các hình thức truyền thông cũng đang ngày càng được đa dạng hóa. Đồng thời, các thông cáo được NHNN truyền thông cũng chính xác và nhất quán. Hoạt động truyền thông của NHNN được phát huy mạnh mẽ và thể hiện tầm quan trọng ở mức cao nhất trong giai đoạn 2020 - 2021, giai đoạn mà cả nước đang phải đối mặt với đại dịch Covid-19.
 
3. Phương pháp nghiên cứu
 
3.1. Mô hình nghiên cứu

Đối với mô hình lí thuyết, nhóm tác giả lựa chọn mô hình Shannon. Tuy mô hình này khá đơn giản và phổ thông nhưng nó gợi mở nhiều cách thức sáng tạo về khía cạnh của kênh truyền thông CSTT. Một số điểm mạnh của mô hình Shannon so với các mô hình khác như: Toàn diện và ứng dụng rộng rãi, cơ sở toán học mạnh mẽ, đối tượng rõ ràng, khả năng xác định nhiễu và ứng dụng trong truyền thông số, dữ liệu lớn.
 
Đối với mô hình nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng mô hình Binary Logistic Regression nhằm đánh giá tác động từ truyền thông CSTT của NHNN tới người tiêu dùng. Mô hình Binary Logistic Regression được trình bày dưới dạng tổng quát như sau:

Trong đó: 
 
pi là xác suất để một biến cố xảy ra, 1-pi là xác suất để biến cố không xảy ra.
 
Các giá trị β0 β1 β2 ... βn là các hệ số hồi quy.
 
xi là các biến độc lập được đưa vào mô hình đại diện cho các nhân tố được kì vọng ảnh hưởng đến biến cố.  
 
3.2. Dữ liệu nghiên cứu
 
Nghiên cứu định tính đã được tiến hành bằng cách lựa chọn kĩ lưỡng tài liệu và phân tích các mô hình lí thuyết. Phiếu khảo sát chính thức đã được hoàn thành với 5 thang đo, đo lường 62 biến trên thang đánh giá Likert 5 điểm, từ "Hoàn toàn không đồng ý/quan tâm" đến "Hoàn toàn đồng ý/quan tâm". Nghiên cứu định lượng tiến hành thông qua việc gửi phiếu khảo sát trực tuyến đến 438 người tiêu dùng trong khu vực miền Bắc vào tháng 02/2024. Sau quá trình xử lí, tổng cộng 358 phiếu hợp lệ (hơn 80%) đã được chọn để đưa vào vào phân tích. Dữ liệu được xử lí thông qua phân tích Binary Logistic Regression trong SPSS.
 
3.3. Các biến trong mô hình (Sơ đồ 1)
 
Sơ đồ 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất

Nguồn: Nhóm tác giả đề xuất

4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
 
4.1. Thống kê mô tả
 
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 358 người tiêu dùng tại Việt Nam qua khảo sát trực tuyến trên Google Form. Nghiên cứu cho thấy, mẫu đại diện tốt về giới tính với 168 nam và 156 nữ, cùng với 34 cá nhân không xác định giới tính. Phần lớn tham gia nghiên cứu nằm trong độ tuổi từ 20 tuổi đến 40 tuổi (299 người), có thu nhập trung bình (22,1% thu nhập từ 10 triệu đồng đến 15 triệu đồng và 19% thu nhập từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng). Đối với trình độ học vấn, 62,3% có bằng cao đẳng/đại học và 15,6% là thạc sĩ. Đa số (33%) đến từ ngành kinh tế/tài chính, theo sau là công nghệ/điện tử (18,2%) và xã hội/nhân văn (12,3%). 
 
4.2. Kết quả kiểm định mô hình
 
Với mô hình Binary Logistic Regression, để kiểm định độ phù hợp của giả thuyết đối với mô hình, nhóm tác giả sẽ sử dụng kiểm định Chi-square.
 
Bảng 1: Kiểm định Omnibus

Nguồn: Theo tính toán của nhóm tác giả
 
Nhìn vào bảng Omnibus Tests of Model Coefficients để thấy được kết quả kiểm định ý nghĩa thống kê của mô hình.
 
Căn cứ vào kết quả kiểm định, nhận thấy giá trị Sig. kiểm định Chi-square tại hàng Model là 0,000 < 0,05 nên mô hình là phù hợp và có ý nghĩa thống kê. 

Model Summary cho thấy kết quả tóm tắt về sự phù hợp của mô hình hồi quy đề xuất:
 
Bảng 2: Model Summary

Nguồn: Theo tính toán của nhóm tác giả
 
Để kiểm định mức độ dự đoán của mô hình, nhóm tác giả căn cứ vào bảng Classification Table dưới đây:
 
Bảng 3: Mức độ dự báo của mô hình

Nguồn: Theo tính toán của nhóm tác giả
 
Với tổng số 83 cá nhân có hành vi tài chính thấp (lưu ý dữ liệu xem theo cột), mô hình dự đoán đúng được 66 cá nhân và cho ra tỉ lệ đúng là 67,3%; trong khi đó, có 275 người tiêu dùng có hành vi tài chính, mô hình đã dự đoán được 243 người tương đương với 93,5%. Do đó, tỉ lệ dự báo đúng của mô hình là 86,3%.
 
4.3. Kết quả hồi quy

Nhóm tác giả đã chạy 6 mô hình đối với từng hành vi của người tiêu dùng nhằm xác định những yếu tố nào tác động tới hoạt động cụ thể của họ. Đối với hành vi mua bán hàng tiêu dùng, người làm khảo sát bị chi phối bởi trình độ học vấn. Trong khi đó, việc tiết kiệm bị tác động bởi thông tin, kênh truyền thông và độ tin tưởng vào hoạt động của ngân hàng. Tương tự các yếu tố như nhận thức tài chính, kênh truyền thông, nội dung truyền thông có sự tác động tới hành vi mua bán chứng khoán hoặc khởi nghiệp. Cuối cùng, các hành vi như mua/bán ngoại tệ sẽ bị ảnh hưởng bởi tuổi tác, giới tính hay thu nhập của người tiêu dùng. (Bảng 4)
 
Bảng 4: Kết quả hồi quy mô hình với trung bình các biến hành vi tài chính

Nguồn: Theo tính toán của nhóm tác giả

Như vậy, từ kết quả cho thấy biến FA có ảnh hưởng cùng chiều tới hành vi tài chính của người tiêu dùng tại Việt Nam, tức là nhận thức tài chính càng cao thì hành vi tài chính cũng cao. Trên thực tế, người tiêu dùng có nhận thức tài chính cao thường có khả năng nhìn nhận và hiểu rõ hơn về tình hình tài chính cá nhân của mình. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu còn chỉ ra rằng các biến như Income, Major, CI và MC cũng có tác động đáng kể đến hành vi tài chính của người tiêu dùng tại Việt Nam.
 
5. Kết luận và khuyến nghị

Trong bài viết này, nhóm tác giả tập trung vào việc phân tích tác động truyền thông CSTT của NHNN tới hành vi tiêu dùng của người dân. Kết quả cho thấy, truyền thông có tác động tích cực, nâng cao nhận thức tài chính và ảnh hưởng đến các hành vi tiêu dùng như mua/bán hàng hóa, tiết kiệm và đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, nhận thức tài chính của người tiêu dùng ở Việt Nam vẫn còn thấp so với một số quốc gia khác và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác như thu nhập, trình độ giáo dục và mức độ tin cậy vào hệ thống tài chính. Dựa trên những kết quả này, nhóm tác giả đề xuất một số chiến lược nhằm tối ưu hóa hiệu quả của truyền thông CSTT: 
 
Một là, trong thời đại ngày nay, giáo dục về tài chính ngày càng trở nên quan trọng đối với thế hệ trẻ. Các cơ quan giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp kiến thức và kĩ năng tài chính cho học sinh và sinh viên. Cần tăng cường hợp tác giữa NHNN và các trường đại học, cao đẳng để tạo ra môi trường học tập chuyên nghiệp và sáng tạo. Tổ chức các buổi hội thảo và hoạt động giao lưu giữa NHNN và các trường trung học và đại học, cao đẳng giúp mở rộng kiến thức, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của học sinh, sinh viên; đồng thời, thu hút sự chú ý của công chúng về vấn đề tài chính - ngân hàng. 
 
Hai là, người tiêu dùng đóng vai trò là nhân tố quyết định về nhận thức tài chính hay việc tiếp thu những thông tin về CSTT được truyền thông bởi NHNN. Do đó, người tiêu dùng cần nâng cao trình độ học vấn của mình (nếu có điều kiện) để có thể có những quyết định về tài chính sáng suốt hơn. Hơn nữa, những người đã và đang theo học khối ngành khác cũng nên tự trau dồi cho mình khả năng tư duy, hiểu biết tài chính. Đồng thời, người tiêu dùng nên thường xuyên cập nhật tin tức từ những nguồn uy tín, tránh bị tác động tiêu cực bởi những nguồn tin không chính thống.
 
Tài liệu tham khảo:
 
1. Amato, J.D. (2002) ‘Communication and Monetary Policy’, Oxford Review of Economic Policy, 18(4), pages 495-503. Available at: https://doi.org/10.1093/oxrep/18.4.495
2. Morris, S. and Shin, H.S. (2002) ‘Social Value of Public Information’, The American Economic Review, 92(5), pages 1521-1534.
3. Gaziano, C. (1997). ‘Forecast 2000: widening knowledge gaps’. Journal. Mass Commun. 74 (2).
4. Carpini, M.D., Keeter, S. (1996). ‘What Americans know about Politics and Why it Matters’. Yale University Press.
5. Hwang, Y., Jeong, S.-H. (2009). ‘Revisiting the knowledge gap hypothesis: a meta analysis of thirty five years of research’. J&MC Q. 86 (3), pages 513-532.
6. Lena Dräger, Michael J. Lamla và Damjan Pfajfar (2016).   ‘Are survey expectations theory-consistent? The role of central bank communication and news’.
7. Kumar, S., Afrouzi, H., Coibion, O., Gorodnichenko, Y. (2015). ‘Inflation targeting does not anchor inflation expectations: evidence from firms in New Zealand.’ NBER Working Paper (21814)
8. Van der Cruijsen, C., Jansen, D.-J., Haan, J. D. (2010). ‘How much does the public know about the ecb’s monetary policy? evidence from a survey of Dutch households.’ ECB Working Paper 1265.
9. Marcus, G. (2014). ‘Address to the central banks communicators conference’.
10. Sajjad Zaheer, Fatima Khaliq, Waqas Ahmed (2019). ‘Effectiveness of SBP’s Monetary Policy Communication’. SBP Research Bulletin Volume 15, Number 1.
11. Michael Ehrmann, Sarah Holton, Danielle Kedan, Gillian Phelan (2022). ‘Monetary policy communication - past ECB policymakers commend Bank’s progress and call for more’. European Central Bank Esearch bulletin no.93.
12. Morris, S., Shin, H. S. (2002). ‘Social Value of Public Information’. The American Economic Review, 92(5), pages 1521-1534..
13. Amato, J. D. (2002). Communication and Monetary Policy. Oxford Review of Economic Policy, 18(4), pages 495-503. https://doi.org/10.1093/oxrep/18.4.495
14. World Bank (2014). Global financial development report 2014: Financial inclusion. Washington, D.C’.
15. Linh, T. T. V., Thu, L. H., Hưng, N. T. T.,  Nam, N. T.,  và Duẩn, B. V. (2021). ‘Ảnh hưởng của truyền thông ngân hàng trung ương đến hiệu lực điều hành CSTT’. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở năm 2021.
16. Dynan, K. (2012). ‘Is a Household Debt Overhang Holding Back Consumption?’. Brookings Papers on Economic Activity, pages 299-362. [Publisher’s Version].
17. Amato, P. R., & Previti, D. (2003). ‘People’s Reasons for Divorcing: Gender, Social Class, the Life Course, and Adjustment’. Journal of Family Issues, 24, pages 602-626.
18. Di Bartolomeo, G., & Rossi, L. (2007). ‘Heterogeneous Consumers, Demand Regimes, Monetary Policy and Equilibrium Determinacy’. Rivista di Politica Economica, 97(5), pages 111-142.
19. Cavallari, L. (2020). ‘Monetary policy and consumers’ demand’. Economic Modelling, 92(C), pages 23-36.
20. Airaudo, M. (2023). ‘Temptation-Driven Preferences: A Resolution to New Keynesian Anomalies’. Journal of Economic Theory.
21. Blinder, A. S., Ehrmann, M., de Haan, J., & Jansen, D. J. (2017). ‘Necessity as the mother of invention: Monetary policy after the crisis’. Economic Policy, 32(92), pages 707-755.

GVCC., TS. Nguyễn Tường Vân, ThS. Lê Văn Hinh,
Lê Đức Minh, Vũ Thị Thu Thủy, Đỗ Ngọc Anh,
Phạm Thị Hồng Ngọc, Phạm Trung Dũng, Nguyễn Minh Thủy Tiên 
Học viện Ngân hàng
 
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Mối quan hệ giữa mức độ thực hiện quy định thanh khoản ngân hàng theo Basel III với một số giải pháp và khuyến nghị
Mối quan hệ giữa mức độ thực hiện quy định thanh khoản ngân hàng theo Basel III với một số giải pháp và khuyến nghị
04/12/2024 08:38 253 lượt xem
Mục tiêu nghiên cứu trong bài viết này về mối quan hệ giữa mức độ thực hiện quy định thanh khoản ngân hàng theo Basel III với một số giải pháp theo phương pháp tiếp cận định lượng, trên cơ sở kết quả thu được, bài viết đưa ra một số khuyến nghị.
Hạch toán quyền rút vốn đặc biệt: Khuôn khổ, các yếu tố chính và một số biện pháp giải quyết vướng mắc hiện nay
Hạch toán quyền rút vốn đặc biệt: Khuôn khổ, các yếu tố chính và một số biện pháp giải quyết vướng mắc hiện nay
03/12/2024 08:26 190 lượt xem
Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) là tài sản dự trữ quốc tế được Quỹ Tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund - IMF) tạo ra nhằm bổ sung dự trữ chính thức của các quốc gia thành viên...
Tác động của quy mô hoạt động đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tác động của quy mô hoạt động đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam
28/11/2024 08:54 571 lượt xem
Quy mô ngân hàng là một trong những yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện hiệu quả tài chính, đồng thời phản ánh năng lực, sức mạnh và vị thế của ngân hàng trên thị trường.
Hoán đổi nợ xanh: Cầu nối mới cho tài chính khí hậu và phát triển bền vững
Hoán đổi nợ xanh: Cầu nối mới cho tài chính khí hậu và phát triển bền vững
27/11/2024 11:42 474 lượt xem
Bài viết tập trung phân tích cơ chế hoạt động, lợi ích của hoán đổi nợ xanh, những thách thức và giải pháp để triển khai mô hình hoán đổi nợ lấy dự án xanh tại Việt Nam.
Cải thiện tín nhiệm doanh nghiệp nông nghiệp, hợp tác xã, trang trại và hộ nông dân trong thu hút vốn tín dụng chính sách, phát triển sản xuất, kinh doanh
Cải thiện tín nhiệm doanh nghiệp nông nghiệp, hợp tác xã, trang trại và hộ nông dân trong thu hút vốn tín dụng chính sách, phát triển sản xuất, kinh doanh
25/11/2024 09:52 483 lượt xem
Cải thiện tín nhiệm là một giải pháp căn cơ, dài hạn, không chỉ giúp doanh nghiệp nông nghiệp, hợp tác xã (HTX), trang trại và hộ nông dân tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính sách, mà còn nâng cao vị thế, uy tín của các tổ chức này với đối tác kinh doanh và những bên liên quan, góp phần phát triển sản xuất, kinh doanh bền vững.
Sự hài lòng trực tuyến trong ý định tiếp tục sử dụng ngân hàng điện tử tại Việt Nam
Sự hài lòng trực tuyến trong ý định tiếp tục sử dụng ngân hàng điện tử tại Việt Nam
19/11/2024 09:44 734 lượt xem
Sự phát triển nhanh chóng của các hệ thống điện tử và Internet đã tạo nên những thay đổi đáng kể trong việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ nói chung, dịch vụ tài chính, ngân hàng nói riêng...
Đánh giá sức khỏe tài chính các ngân hàng Việt Nam theo phương pháp phân tích cụm
Đánh giá sức khỏe tài chính các ngân hàng Việt Nam theo phương pháp phân tích cụm
18/11/2024 11:30 1.080 lượt xem
Sức khỏe tài chính của các ngân hàng rất quan trọng đối với nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 xảy ra do sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng.
Tăng trưởng tín dụng đối với ngành nông nghiệp và những vấn đề đặt ra
Tăng trưởng tín dụng đối với ngành nông nghiệp và những vấn đề đặt ra
11/11/2024 08:25 945 lượt xem
Thông qua phân tích quy mô và biến động dư nợ tín dụng nông nghiệp giai đoạn 2014 - 2023, bài viết chỉ ra những kết quả tích cực và một số hạn chế trong tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với ngành sản xuất quan trọng này.
Bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực tại ngân hàng thương mại: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
Bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực tại ngân hàng thương mại: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
05/11/2024 08:10 1.127 lượt xem
Hiện nay, công tác bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực được các NHTM chú trọng đầu tư phát triển, tuy nhiên, nguồn nhân lực của nhiều ngân hàng vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu về chất lượng, ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của các ngân hàng.
Đánh giá khả năng huy động tiền gửi từ khách hàng của NHTM Việt Nam bằng mô hình định lượng
Đánh giá khả năng huy động tiền gửi từ khách hàng của NHTM Việt Nam bằng mô hình định lượng
04/11/2024 08:23 1.505 lượt xem
Nghiên cứu này nhằm chỉ ra mức độ tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động tiền gửi từ khách hàng thông qua phương pháp khảo sát và phân tích hồi quy dữ liệu của 37 NHTM Việt Nam.
Thúc đẩy chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn: Rào cản và gợi ý cho Việt Nam
Thúc đẩy chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn: Rào cản và gợi ý cho Việt Nam
31/10/2024 08:07 1.241 lượt xem
Biến đổi khí hậu trở thành rủi ro lớn nhất mà loài người đang phải gánh chịu (WEF, 2024). Trong bối cảnh đó, phát triển bền vững không còn là sự lựa chọn, mà gần như bắt buộc ở hầu hết các quốc gia trên toàn cầu. Để đạt được mục tiêu này, mô hình kinh tế tuần hoàn nổi lên như một công cụ quan trọng.
Việt Nam sau gần 30 năm hội nhập kinh tế quốc tế
Việt Nam sau gần 30 năm hội nhập kinh tế quốc tế
29/10/2024 15:02 6.570 lượt xem
Trong những năm qua, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước. Vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam không ngừng được nâng lên, khẳng định vai trò tích cực và trách nhiệm trong việc duy trì hòa bình, hợp tác phát triển và thúc đẩy tiến bộ toàn cầu.
Kinh tế Việt Nam 9 tháng năm 2024 và một số đề xuất, khuyến nghị
Kinh tế Việt Nam 9 tháng năm 2024 và một số đề xuất, khuyến nghị
22/10/2024 14:35 9.651 lượt xem
Tình hình kinh tế Việt Nam trong tháng 9, quý III và 9 tháng năm 2024 tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước; tính chung 9 tháng năm 2024 đạt nhiều kết quả quan trọng, cao hơn cùng kỳ trên hầu hết các lĩnh vực.
Phát triển thị trường tài chính trong nền kinh tế số tại Việt Nam
Phát triển thị trường tài chính trong nền kinh tế số tại Việt Nam
21/10/2024 08:35 3.251 lượt xem
Kinh tế số là hoạt động kinh tế sử dụng công nghệ số và dữ liệu số làm yếu tố đầu vào chính, sử dụng môi trường số làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin - viễn thông để tăng năng suất lao động, đổi mới mô hình kinh doanh và tối ưu hóa cấu trúc nền kinh tế.
Tác động của tiền gửi đến hiệu quả tài chính các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tác động của tiền gửi đến hiệu quả tài chính các ngân hàng thương mại Việt Nam
18/10/2024 08:05 2.690 lượt xem
Nghiên cứu này xem xét tác động của tiền gửi đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam giai đoạn 2014 - 2023.
Giá vàngXem chi tiết

Giá vàng - Xem theo ngày

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

83,000

85,530

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

83,000

85,530

Vàng SJC 5c

83,000

84,300

Vàng nhẫn 9999

83,000

84,400

Vàng nữ trang 9999

82,900

83,900


Ngoại tệXem chi tiết
Tỷ giá - Xem theo ngày 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,119 25,452 26,024 27,451 31,349 32,682 162.88 172.36
BIDV 25,150 25,452 26,239 27,449 31,768 32,705 163.84 171.75
VietinBank 25,166 25,452 26,259 27,459 31,843 32,853 165.32 173.07
Agribank 25,150 25,452 26,142 27,345 31,522 32,612 164.52 172.50
Eximbank 25,150 25,452 26,214 27,051 31,681 32,649 165.87 171.18
ACB 25,160 25,452 26,305 27,208 31,843 32,804 165.51 172.05
Sacombank 25,190 25,452 26,285 27,260 31,730 32,893 165.84 172.9
Techcombank 25,193 25,452 26,058 27,405 31,410 32,748 162.46 174.94
LPBank 25,140 25,452 26,513 27,411 32,004 32,800 166.72 173.80
DongA Bank 25,220 25,452 26,240 27,040 31,720 32,650 163.40 170.70
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,50
2,70
3,50
3,70
4,40
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,80
2,90
3,20
4,20
4,30
4,90
5,00
Techcombank
0,05
-
-
-
3,10
3,10
3,30
4,40
4,40
4,80
4,80
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,20
4,20
4,20
5,30
5,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,90
3,90
4,10
5,55
5,70
5,80
6,10
Agribank
0,20
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
Eximbank
0,10
0,50
0,50
0,50
3,10
3,30
3,40
4,70
4,30
5,00
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?