Kinh tế Việt Nam 9 tháng năm 2024 và một số đề xuất, khuyến nghị
22/10/2024 14:35 270 lượt xem
Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; đặc biệt là trong bối cảnh diễn biến phức tạp, khó lường của triển vọng kinh tế toàn cầu, các xung đột địa chính trị kéo dài, lạm phát thế giới còn ở mức cao, các ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu…, kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn tích cực ở hầu hết các mặt. Tốc độ tăng trưởng GDP quý III/2024 ước tăng 7,4%, 9 tháng đầu năm ước tăng 6,82% so với cùng kỳ. Xu hướng cải thiện của nền kinh tế diễn ra ở cả phía cung và phía cầu, nhiều cân đối lớn của nền kinh tế tiếp tục được bảo đảm, lạm phát trong tầm kiểm soát.

1. Đánh giá tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam 9 tháng đầu năm 2024

 
Tình hình kinh tế Việt Nam trong tháng 9, quý III và 9 tháng năm 2024 tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước; tính chung 9 tháng năm 2024 đạt nhiều kết quả quan trọng, cao hơn cùng kỳ trên hầu hết các lĩnh vực. Cụ thể:

Tăng trưởng kinh tế: Lũy kế 9 tháng đầu năm 2024, GDP ước tăng 6,82% so với cùng kỳ năm trước, tương đương với mức tăng bình quân của GDP 9 tháng giai đoạn 5 năm trước dịch Covid-19 (2015 - 2019); trong đó, riêng quý III/2024 tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 5,66% của quý I/2024 và 6,93% của quý II/2024. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,20%, đóng góp 5,37% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,19%, đóng góp 46,22%; khu vực dịch vụ tăng 6,95%, đóng góp 48,41%.


Kinh tế Việt Nam 9 tháng đầu năm 2024 có nhiều điểm sáng tích cực bên cạnh những rủi ro và thách thức (Nguồn ảnh: Internet)
 
Năng lực của nền kinh tế được cải thiện tốt hơn. Việt Nam được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) ghi nhận là một trong 8 quốc gia thu nhập trung bình cải thiện thứ hạng nhiều nhất về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu - GII 2024, Việt Nam được xếp hạng 44/133 quốc gia, nền kinh tế, tăng từ vị trí 59 năm 2016 và tăng 2 bậc so với năm 2023). Năm 2024, Việt Nam có 3 chỉ số đứng đầu thế giới là chỉ số về nhập khẩu công nghệ cao, xuất khẩu công nghệ cao và xuất khẩu hàng hóa sáng tạo; có 3 chỉ số thuộc nhóm 10 quốc gia dẫn đầu thế giới là: Tốc độ tăng năng suất lao động (xếp hạng 3); số lượng ứng dụng điện thoại thông minh được tạo ra (xếp hạng 7);  phần chi nghiên cứu và phát triển do doanh nghiệp trang trải/tổng chi nghiên cứu và phát triển (xếp hạng 9).
 
Hình 1. Tốc độ tăng GDP 9 tháng so với cùng kỳ năm trước
các năm 2011 - 2024 (%)

                                                                Nguồn: Tổng cục Thống kê

- Tổng cung: Hoạt động sản xuất phục hồi tích cực ở hầu hết các ngành, lĩnh vực. Riêng ngành nông, lâm, thủy sản tăng trưởng thấp hơn do chịu ảnh hưởng bởi cơn bão số 3; hoạt động của doanh nghiệp còn khó khăn trong tháng 9 nhưng đã cải thiện hơn so với cùng kỳ.

Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản: Giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng năm 2024 tăng 3,2%, chỉ cao hơn tốc độ tăng của cùng kỳ năm 2020 trong giai đoạn 2020 - 20241. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng 2,92% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,25 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 4,96%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 3,73%, đóng góp 0,10 điểm phần trăm. Mặc dù vậy, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng đầu năm 2024 vẫn bảo đảm nhu cầu tiêu dùng trong nước và phục vụ xuất khẩu.

Sản xuất công nghiệp: Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 9 tháng năm 2024 tăng 8,34% so với cùng kỳ năm trước (quý III/2024 ước đạt 9,59%), mức tăng khá tích cực trong giai đoạn 2011 - 20242, đóng góp 2,71 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,76%, đóng góp 2,44 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.

Khu vực dịch vụ: Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ 9 tháng năm 2024 tăng 6,95% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, một số ngành có đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế như bán buôn và bán lẻ (đóng góp 0,78 điểm phần trăm), ngành vận tải, kho bãi (0,70 điểm phần trăm), hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm (0,38 điểm phần trăm)...

Về tình hình doanh nghiệp: Trong tháng 9/2024, cả nước có 11,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, giảm 16,3% so với tháng 8/2024 và giảm 5,0% so với cùng kỳ năm trước; có gần 6,5 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 23,7% so với tháng trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 9 tháng đầu năm 2024, cả nước có gần 121,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước, hơn 61,1 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 25% so với cùng kỳ năm 2023), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong 9 tháng năm 2024 lên hơn 183,0 nghìn doanh nghiệp, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm 2023.

Mặc dù hoạt động sản xuất diễn ra khá tích cực trong các tháng đầu năm 2024, tuy nhiên, do ảnh hưởng của cơn bão số 3, các lĩnh vực của ngành sản xuất đang đối mặt với khó khăn, rủi ro thu hẹp. Theo đó, Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam tháng 9/2024 giảm xuống dưới ngưỡng 50 điểm, trong khi các tháng trước đều trên ngưỡng điểm 50, báo hiệu các điều kiện kinh doanh suy giảm trở lại vào thời điểm cuối quý III/2024. Cụ thể: PMI ngành sản xuất Việt Nam đã giảm xuống từ 52,4 của tháng 8/2024 xuống 47,3 điểm trong tháng 9/2024, cho thấy sức khỏe ngành sản xuất đã yếu đi ở mức đáng kể nhất kể từ tháng 11 năm ngoái do đóng cửa hoạt động kinh doanh tạm thời, sự chậm trễ ở các dây chuyền sản xuất và chuỗi cung ứng; sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới giảm, khiến các doanh nghiệp lần đầu tiên trong 6 tháng qua thu hẹp hoạt động mua hàng; tồn kho hàng mua giảm mạnh, mức giảm này là mạnh thứ hai trong lịch sử chỉ số, chỉ kém mức của tháng 4/2020 là tháng chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.

- Tổng cầu: Nhìn chung, các thành tố của tổng cầu đã có sự cải thiện tốt hơn so với trước; trong đó, tăng trưởng mạnh mẽ của hoạt động thương mại và đầu tư ngoài nhà nước hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế từ phía cầu.

Cầu tiêu dùng: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9/2024 ước đạt 535,8 nghìn tỉ đồng, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2024 ước đạt 1.591,0 nghìn tỉ đồng, tăng 1,7% so với quý trước (quý II/2024 tăng 1,2%) và tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 4.703,4 nghìn tỉ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 10,1%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,8% (cùng kỳ năm 2023 tăng 7,6%).

Đầu tư: Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành 9 tháng đầu năm 2024 ước đạt 2.417,2 nghìn tỉ đồng, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 6%), trong đó, vốn của khu vực ngoài nhà nước đạt 1.336,9 nghìn tỉ đồng, chiếm 55,3% và tăng 7,1% (cùng kỳ năm 2023 tăng 3,9%); khu vực có vốn FDI đạt 415,6 nghìn tỉ đồng, chiếm 17,2% và tăng 10,7% (cùng kỳ năm 2023 tăng 2,1%); vốn của khu vực nhà nước đạt 664,7 nghìn tỉ đồng, chiếm 27,5% tổng vốn và tăng 4,1% (cùng kỳ năm 2023 tăng 15,9%)

Tình hình FDI tăng cả về vốn đăng ký và giải ngân. Tính đến ngày 30/9/2024, tổng vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt hơn 24,78 tỉ USD, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước3. Vốn FDI thực hiện 9 tháng đầu năm 2024 ước đạt 17,34 tỉ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2023.

Thương mại phục hồi nhanh, lũy kế 9 tháng đầu năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 578,47 tỉ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm 2023; trong đó, xuất khẩu tăng 15,4% (điện tử, máy tính và linh kiện tăng 27,4%, máy móc thiết bị tăng 22,1%); nhập khẩu tăng 17,3% (điện tử, máy tính và linh kiện tăng 25,8%, máy móc thiết bị tăng 16,6%). Cán cân thương mại hàng hóa thặng dư ở mức 20,79 tỉ USD, tương đương với 6,94% kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, thặng dư này chủ yếu được thúc đẩy bởi hoạt động sản xuất do khu vực FDI dẫn đầu (9 tháng đầu năm 2024 đóng góp khoảng 38,17 tỉ USD), trong khi khu vực trong nước thâm hụt thương mại (khoảng 17,38 tỉ USD).

Lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát

Trong tháng 9/2024, ảnh hưởng của cơn bão số 3 đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với đời sống nhân dân, một số thời điểm đã xuất hiện việc khan hiếm một số mặt hàng như rau, củ quả, thực phẩm và tăng giá cục bộ ở một số địa phương, Thủ tướng Chính phủ đã có Công điện số 92/CĐ-TTg về việc khắc phục hậu quả của bão số 3, đồng thời, Bộ Tài chính đã có Công điện số 03/CĐ-BTC ngày 13/9/2024 gửi các cơ quan, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các đơn vị, tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính đề nghị đẩy mạnh, tăng cường các biện pháp quản lý, điều hành giá sau bão, nhờ đó, nguồn cung giá cả hàng hóa được đảm bảo, mặt bằng giá cả trong tầm kiểm soát.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2024 tăng 0,29% so với tháng trước, trong đó, nhóm hàng giáo dục có mức tăng cao nhất 2,09% (dịch vụ giáo dục tăng 2,33%, đóng góp khoảng 0,12 điểm phần trăm vào mức tăng CPI chung); nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,92% (đóng góp 0,31 điểm phần trăm); nhóm nhà ở - vật liệu xây dựng tăng 0,52% (đóng góp 0,1 điểm phần trăm). Riêng nhóm hàng giao thông giảm 2,77% góp phần giảm CPI chung 0,27 điểm phần trăm.

Bình quân 9 tháng đầu năm 2024, CPI  tăng 3,88% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,69%, mức thấp nhất trong vòng 8 tháng qua, cho thấy lạm phát tiền tệ đang được kiểm soát chặt chẽ. Bên cạnh đó, khoảng cách giữa lạm phát cơ bản và lạm phát bình quân đang được thu hẹp nhưng vẫn khá cao so với đầu năm, cho thấy sức ép lạm phát từ các yếu tố bên ngoài yếu tố tiền tệ mặc dù có giảm nhưng vẫn còn lớn.
 
Hình 2. Lạm phát cơ bản và lạm phát bình quân
(Lũy kế, so với cùng kỳ)

                                         Nguồn: Tổng cục Thống kê

Chính sách tài khóa chủ động, linh hoạt, hiệu quả, được triển khai theo hướng tiếp tục hỗ trợ nền kinh tế. Dư địa tài khóa tích cực do thu ngân sách nhà nước (NSNN) và thu nội địa tăng khá.

- Về thu NSNN: Lũy kế 9 tháng đầu năm 2024, thu NSNN ước đạt 1.448,2 nghìn tỉ đồng, bằng 85,1% dự toán, trong đó: Thu nội địa ước đạt 1.203,1 nghìn tỉ đồng, bằng 83,3% dự toán, tăng 18,9% so cùng kỳ năm 2023; thu từ dầu thô ước đạt khoảng 44,4 nghìn tỉ đồng, bằng 96,6% dự toán, giảm 2,9% so cùng kỳ năm 2023; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 200,2 nghìn tỉ đồng, bằng 98,1% dự toán, tăng 17,6% so cùng kỳ năm 2023.

- Về chi NSNN: Lũy kế chi 9 tháng đầu năm 2024 đạt khoảng 1.256,3 nghìn tỉ đồng, bằng 59,3% dự toán, tăng 1,4% so cùng kỳ năm 2023, bao gồm: Chi đầu tư phát triển ước đạt khoảng 320,6 nghìn tỉ đồng, bằng 47,3% dự toán Quốc hội quyết định, chi trả nợ lãi ước đạt khoảng 77,3 nghìn tỉ đồng, bằng 69,2% dự toán; chi thường xuyên ước đạt 856,5 nghìn tỉ đồng, bằng 68% dự toán; chi dự trữ ước đạt 81,1% dự toán.

Tính đến ngày 30/9/2024, giải ngân vốn đầu tư nguồn NSNN ước thực hiện đạt 42,96% kế hoạch, tương đương 47,29% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2023 (tương ứng cùng kỳ đạt 47,75% và 51,38%). Trong đó, tỉ lệ giải ngân của các chương trình mục tiêu quốc gia đạt 55,31% so với kế hoạch, chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đạt 80,16% kế hoạch, đều cao hơn mức thực hiện tính đến ngày 31/8/2024 (tương ứng đạt 43,99% và 76,17%)4.

Chính sách tiền tệ được điều hành phù hợp với tình hình thực tiễn; trong đó, tỉ giá, lãi suất được điều hành linh hoạt, kịp thời, bảo đảm ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối.

- Tăng trưởng tín dụng có cải thiện: Tính đến ngày 27/9/2024, tổng phương tiện thanh toán tăng 5,10% so với cuối năm 2023 (cùng thời điểm năm trước tăng 5,40%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 4,79% (cùng thời điểm năm trước tăng 6,63%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 8,53% (cùng thời điểm năm trước tăng 6,24%).

Lãi suất cho vay giảm, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn, mở rộng sản xuất, kinh doanh: Lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng thương mại trong nước đối với cả các khoản vay mới và các khoản vay cũ còn dư nợ ở mức 6,8 - 9,2%/năm, giảm 0,1% so với tháng 8/2024. Mức lãi suất này cũng đã giảm mạnh gần 1%/năm so với đầu năm 2024 (7,8 - 10,1%/năm). Lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân bằng VND đối với lĩnh vực ưu tiên khoảng 3,7%/năm, thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (4,0%/năm).

Tỉ giá USD/VND có xu hướng giảm: Đến ngày 30/9/2024, tỉ giá trung tâm trên thị trường ngoại hối chính thức ở mức 24.093 VND/USD, giảm 0,54% so với cuối tháng trước và tăng 0,95% so với cuối năm 2023. Với biên độ +/-5%, các ngân hàng thương mại được phép giao dịch trong khoảng 22.888 - 25.298 VND/USD. Tỉ giá trung bình tại các NHTM là 24.540 VND/USD, giảm 1,29% so với cuối tháng trước và tăng 1,15% so với cuối năm 2023. Trên thị trường tự do, tỉ giá USD/VND là 25.115 VND/USD, giảm 0,40% so với cuối tháng 8/2024 và tăng 1,51% so với cuối năm 2023.

Thị trường chứng khoán tích cực hơn, góp phần giảm áp lực cung ứng vốn từ khu vực ngân hàng

- Tính chung 9 tháng đầu năm 2024, VN-index tăng 13,98% so với cuối năm 2023, HNX-index tăng 2,82% và Upcom-index tăng 7,49%. Mức vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 7.049 nghìn tỉ đồng, tăng 18,74%, chiếm 68,96% GDP của năm 2023. Về thanh khoản, giá trị giao dịch bình quân đạt 22.655 tỉ đồng/phiên, tăng 28,9% so với bình quân năm 2023.

Tính từ đầu năm đến ngày 20/9/2024, nhà đầu tư đã thực hiện bán ròng 65.342 tỉ đồng (tương đương 2,66 tỉ USD) trên thị trường cổ phiếu, chứng chỉ quỹ và mua ròng 1.507 tỉ đồng trái phiếu. Nguyên nhân bán ròng chủ yếu là do hoạt động tái cấu trúc dòng vốn trên toàn cầu; chênh lệch lãi suất giữa các thị trường phát triển với các thị trường cận biên, mới nổi ở mức cao và kéo dài nên dòng tiền chảy về các thị trường phát triển để hưởng mức sinh lời cao hơn…

Về cải thiện môi trường kinh doanh

Môi trường kinh doanh được cải thiện tốt hơn đã hỗ trợ tích cực cho hoạt động sản xuất kinh doanh 9 tháng đầu năm 2024, theo đó, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp chế biến, chế tạo 9 tháng đầu năm 2024 cho thấy, chỉ có khoảng 18 - 21% số doanh nghiệp khảo sát cho rằng lãi suất vay vốn cao, thiếu nguyên, nhiên vật liệu là yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong khi có dưới 7% số doanh nghiệp khảo sát gặp vấn đề về chính sách pháp luật của Nhà nước hoặc khả năng tiếp cận vốn vay; yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, kinh doanh chủ yếu là nhu cầu thị trường trong nước thấp (53%) và tính cạnh tranh hàng trong nước cao (50,6%). Tuy vậy, các doanh nghiệp đều rất lạc quan về xu hướng kinh doanh trong thời gian tới, với hơn 80% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất, kinh doanh quý IV/2024 tốt hơn và giữ ổn định so với quý III/2024.

Ngày 18/9/2024, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 68/2024/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư quy định về giao dịch chứng khoán trên hệ thống giao dịch chứng khoán; bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán; hoạt động của công ty chứng khoán và công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, có hiệu lực thi hành từ ngày 02/11/2024. Thông tư số 68/2024/TT-BTC cho phép giao dịch mua cổ phiếu không yêu cầu có đủ tiền khi đặt lệnh của nhà đầu tư tổ chức nước ngoài. Theo đó, nhà đầu tư tổ chức nước ngoài mua chứng khoán ngay trong ngày (T+0) và thanh toán vào các ngày sau (T+1/T+2), điều này không chỉ giúp giảm chi phí tài chính và tăng tính linh hoạt cho nhà đầu tư mà còn tháo gỡ vướng mắc từ việc yêu cầu ký quỹ trước giao dịch, cũng như cải thiện quy trình mở mới tài khoản, là nhân tố hỗ trợ để nâng cấp thị trường Việt Nam lên trạng thái Thị trường mới nổi theo chuẩn FTSE Russell. Thời gian qua, nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng liên tục với tổng giá trị từ đầu năm 2024 lên đến hơn 65.000 tỉ đồng (2,6 tỉ USD) chỉ tính riêng trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE), do đó, việc tháo gỡ nút thắt quan trọng trong quá trình nâng hạng cũng được kỳ vọng sẽ trở thành chất xúc tác để đảo chiều dòng vốn ngoại trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Ngoài ra, Việt Nam đã hoàn thành sớm mục tiêu đặt ra năm 2024 về xếp hạng Chính phủ điện tử. Theo Báo cáo khảo sát Chính phủ điện tử (EGDI) năm 2024 của Liên hợp quốc (UN), Việt Nam đã tăng 15 bậc về xếp hạng EGDI so với năm 2022, ở vị trí thứ 71 trong tổng số 193 quốc gia thành viên UN. Vị trí xếp hạng về các chỉ số chính trong EDGI của Việt Nam năm 2024 đều có sự tăng trưởng cả về giá trị và xếp hạng, đặc biệt là về xếp hạng HCI (Chỉ số nguồn nhân lực) và giá trị TII (Chỉ số hạ tầng viễn thông). Đồng thời, UN đánh giá cao Việt Nam về những nỗ lực trong việc cải tiến chất lượng dịch vụ công trực tuyến. So với 55 quốc gia trong nhóm có thu nhập trung bình thấp, Việt Nam là một trong 5 quốc gia có EGDI ở mức “Rất Cao” và là lần đầu tiên Việt Nam được xếp vào nhóm EGDI ở mức “Rất Cao”. Với kết quả xếp hạng vượt bậc này, Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu đặt ra năm 2024 về xếp hạng Chính phủ điện tử tăng ít nhất 5 bậc tại Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024.

2. Triển vọng, thách thức

Trong 9 tháng đầu năm 2024, kinh tế nước ta phục hồi tích cực, tăng trưởng kinh tế tiếp tục được củng cố vững chắc hơn với sự phục hồi tốt hơn ở hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế, đặc biệt là khu vực dịch vụ, thương mại và hiệu quả tích cực từ việc triển khai các chính sách hỗ trợ sản xuất, kinh doanh. Trong bối cảnh nền kinh tế còn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức, tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian tới sẽ tiếp tục tích cực, bởi các yếu tố hỗ trợ như:

- Đối với trong nước:

(i) Ổn định vĩ mô được duy trì, lạm phát trong tầm kiểm soát, tỉ giá ổn định, cân đối tài khóa được củng cố, góp phần củng cố niềm tin tiêu dùng và đầu tư. Bên cạnh đó, Việt Nam có lợi thế của một nền kinh tế năng động, nhanh chóng thích nghi; việc chủ động và tích cực tham gia các hiệp định thương mại, mở rộng, tìm kiếm và khai thác các thị trường tiềm năng đã giúp Việt Nam thành công trong việc kết nối với các đối tác thương mại lớn trên thế giới, nhất là thị trường Mỹ. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng kinh tế được cải thiện liên tục, quý sau tăng cao hơn quý trước đã cho thấy khả năng chống chịu khá tốt của Việt Nam trước các cú sốc bên ngoài và hiệu quả thực thi các chính sách điều hành vĩ mô.

(ii) Nhờ cải cách thể chế và cải thiện môi trường kinh doanh, hoạt động giải ngân vốn đầu tư công và đầu tư sẽ tiếp tục được thúc đẩy, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng phía cầu. Bên cạnh đó, Luật Đất đai năm 2024 sẽ tác động tích cực lên triển vọng ngành bất động sản, thúc đẩy thị trường bất động sản Việt Nam phát triển lành mạnh, minh bạch và bền vững hơn, đồng thời góp phần khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai để phát triển kinh tế - xã hội đất nước; thu hút thêm các nguồn vốn đầu tư lớn cho tăng trưởng của nền kinh tế.

(iii) Nông nghiệp đã thể hiện rõ vai trò là ngành “bệ đỡ” cho tăng trưởng kinh tế và vai trò này được thể hiện rõ ràng hơn trong bối cảnh dịch Covid-19. Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản năm 2023 ở mức 3,88% - cao nhất so với 4 năm trước đó; năm 2020 - 2021, tốc độ tăng của nhóm ngành này lần lượt là 3% và 3,7%, cao hơn tốc độ tăng chung của toàn nền kinh tế (2,9%, 2,6%) và tốc độ tăng của nhóm ngành dịch vụ (2% và 1,7%), khi đại dịch Covid-19 xuất hiện và bùng phát. Thời gian qua, nông nghiệp cũng là ngành giúp nước ta “cách ly” khỏi sự gia tăng giá lương thực - thực phẩm toàn cầu do có khả năng tự chủ trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Lợi thế này giúp Việt Nam giảm thiểu được tác động của lạm phát lên giá hàng hóa nông nghiệp, đảm bảo nhu cầu trong nước và xuất khẩu, góp phần duy trì mức lạm phát trong tầm kiểm soát và lạm phát cơ bản ở mức thấp.

(iv) Công tác chỉ đạo, điều hành chủ động, bám sát. Chính phủ đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết chỉ đạo triển khai quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, tài chính, tiền tệ, kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn, thông qua chính sách tiền tệ linh hoạt, bảo đảm cân đối hài hòa giữa điều hành tỉ giá và lãi suất, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng; bình ổn thị trường vàng; thúc đẩy giải ngân gói tín dụng nhà ở xã hội; đẩy mạnh xử lý nợ xấu, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng; triển khai hiệu quả chính sách hỗ trợ giảm 2% thuế giá trị gia tăng, gia hạn miễn, giảm thuế, phí, lệ phí; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công…

- Đối với kinh tế bên ngoài:

(i) Kinh tế toàn cầu tăng trưởng cao hơn dự kiến đã thúc đẩy hoạt động thương mại và đầu tư. Theo đó, hầu hết các tổ chức đều nâng triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 so với dự báo trước: Tháng 9/2024, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu và nhóm các nước G20 năm 2024 ở mức 3,2% - cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với dự báo của tháng 5/2024; UN dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu đạt 2,7% trong năm 2024, điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024 nhờ hoạt động kinh tế tốt hơn dự kiến ở Hoa Kỳ và triển vọng tăng trưởng ngắn hạn được cải thiện ở các nền kinh tế lớn khác…

(ii) Lạm phát toàn cầu tiếp tục giảm và ở mức thấp hơn so với đầu năm 2024. Ở nhiều nước phát triển, lạm phát đang dần tiến gần đến mức mục tiêu của ngân hàng trung ương như lạm phát của Mỹ trong tháng 8/2024 ở mức 2,5%, gần mức lạm phát mục tiêu và là mức thấp nhất kể từ tháng 01/2021; khu vực đồng Euro: Lạm phát giảm từ 2,8% trong tháng 01/2024 xuống mức 1,8% trong tháng 9/2024; Hàn Quốc ở mức 1,6% trong tháng 9/2024, thấp hơn mức 2% của tháng 8/2024… Trong đó, giá dầu giảm mạnh là yếu tố góp phần làm giảm lạm phát. Theo Báo cáo thị trường hàng hóa xuất bản tháng 9/2024 của Ngân hàng thế giới (WB), chỉ số giá cả hàng hóa toàn cầu tháng 9 đã giảm 3,84% so với tháng trước và giảm 12,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, giá năng lượng giảm tương ứng là 7,1% và 18,97% (giá bình quân 3 loại dầu giảm tương ứng 7,3% và 21,5%). Tháng 7/2024, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo lạm phát toàn cầu sẽ giảm dần từ mức 6,7% năm 2023 xuống còn 5,9% trong năm 2024 và 4,4% trong năm 2025; khu vực đồng Euro giảm từ 2,8% trong tháng 01/2024 xuống mức 2,6% trong tháng 7/2024.

(iii) Chính sách tiền tệ nới lỏng hơn tại các nền kinh tế lớn thông qua hạ lãi suất góp phần làm giảm chi phí huy động tài chính trên toàn cầu và thu hẹp chênh lệch lãi suất giữa VND/USD, từ đó đem lại tác động tích cực lan tỏa cho ngành Ngân hàng và khu vực tài chính.

(iv) Tăng trưởng thương mại toàn cầu phục hồi tích cực. UN và OECD (2024) nhận định thương mại toàn cầu tiếp tục phục hồi từ nửa đầu năm 2024, thể hiện qua khối lượng thương mại hàng hóa và dịch vụ tăng, đặc biệt trong quý II/2024, do gia tăng xuất khẩu của khu vực châu Á và Bắc Mỹ. Tháng 7/2024, IMF dự báo tăng trưởng thương mại toàn cầu tăng từ mức 0,8% trong năm 2023 lên 3,1% trong năm 2024 và 3,4% trong năm 2025; tháng 4/2024, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) dự báo tăng trưởng thương mại toàn cầu ở mức 2,6% trong năm 2024 và 3,3% trong năm 2025. Tuy vậy, vẫn có những rủi ro làm suy giảm tăng trưởng thương mại toàn cầu, chẳng hạn: Căng thẳng địa chính trị dai dẳng, chi phí vận chuyển tăng, các chính sách công nghiệp và thương mại hướng nội có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng thương mại toàn cầu (UNCTAD, 7/2024).
Với những điểm sáng nổi bật của nền kinh tế 9 tháng đầu năm 2024 và các yếu tố hỗ trợ tích cực cho kinh tế Việt Nam trong thời gian tới, nhiều tổ chức quốc tế đã đánh giá cao kết quả và triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam năm 2024 - 2025, trong đó, WB (9/2024) nâng dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024 lên mức 6,5%, cao hơn mức 5,5% của dự báo tháng 4/2024; năm 2025 là 6,5%, vượt qua dự báo ban đầu là 6,0%. IMF (9/2024) cũng dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024 ở mức 6,1%, cao hơn mức 5,8% của dự báo tháng 7/2024…

 
Bảng 1. Dự báo tăng trưởng và lạm phát Việt Nam năm 2024 - 2025
 
                             
                                   Nguồn: Tổng cục Thống kê

Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam còn nhiều rủi ro, thách thức: Trong đó, xu hướng tăng trưởng tích cực của kinh tế toàn cầu còn chứa đựng nhiều yếu tố khó lường, nhất là tăng trưởng của những đối tác thương mại lớn của Việt Nam như Mỹ, Liên minh châu Âu, Trung Quốc. Bên cạnh đó, căng thẳng địa chính trị kéo dài và chính sách thương mại hướng nội gia tăng sẽ gây ảnh hưởng đến tăng trưởng thương mại toàn cầu và chuỗi cung ứng; rủi ro an ninh năng lượng, lương thực và ảnh hưởng tiêu cực từ biến đổi khí hậu… đều có thể là nhân tố khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu thấp hơn dự báo... Ở trong nước, tăng trưởng kinh tế có thể gặp nhiều khó khăn hơn trong việc bảo đảm đạt mục tiêu cả năm 2024 ở mức cận trên từ 6,5 - 7% như Chính phủ đề ra tại Nghị quyết số 108/NQ-CP ngày 10/7/2024 phiên họp Chính phủ thường kỳ 6 tháng năm 2024 và Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương do ảnh hưởng của cơn bão số 3 cùng với hoàn lưu sau bão đã gây nhiều thiệt hại, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cơ sở hạ tầng, sản xuất và cuộc sống của người dân. Ngoài ra, một số động lực tăng trưởng truyền thống phục hồi nhưng còn ở mức thấp so với trước dịch Covid-19 và chưa bền vững; tăng trưởng xuất khẩu phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng do sự chuyển hướng thương mại từ việc tái cấu trúc chuỗi giá trị toàn cầu đối với các sản phẩm như hàng may mặc, hàng dệt may và đồ điện tử, cũng như rủi ro từ căng thẳng địa chính trị và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng và còn phụ thuộc nhiều vào khu vực FDI…

3. Một số đề xuất, khuyến nghị

Triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay được đánh giá tích cực, các nền tảng cho tăng trưởng kinh tế vẫn được duy trì. Để bảo đảm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra cho năm 2024 đạt kết quả cao nhất, cũng như tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế những năm tiếp theo, trong thời gian tới cần lưu ý triển khai một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục nghiêm túc thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2024; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024; Nghị quyết số 93/NQ-CP ngày 18/6/2024 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp trong tâm để thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô; Nghị quyết số 143/NQ-CP ngày 17/9/2024 của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để khẩn trương khắc phục hậu quả bão số 3 (Yagi), nhanh chóng ổn định tình hình nhân dân, đẩy mạnh khôi phục sản xuất, kinh doanh, tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát tốt lạm phát; các Nghị quyết Phiên họp thường kỳ của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ - Trưởng ban Chỉ đạo điều hành giá tại các cuộc họp Ban Chỉ đạo điều hành giá. Tiếp tục bám sát, chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế, diễn biến giá dầu thế giới để có kịch bản ứng phó phù hợp.

Hai là, tiếp tục giữ vững ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, thông qua chủ động phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa, tiền tệ và quản lý giá; nâng cao hiệu quả trong điều hành, phối hợp chính sách (đặc biệt là giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác); khai thác tốt dư địa của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ nhằm thúc đẩy tăng trưởng, ổn định vĩ mô, bình ổn tỉ giá, thị trường tài chính - tiền tệ, bảo đảm an sinh xã hội. Cân nhắc dư địa nợ công, bội chi NSNN còn thấp so với giới hạn cho phép để huy động thêm nguồn lực cho phát triển, nhất là đầu tư cho các công trình hạ tầng chiến lược quốc gia.

Ba là, tiếp tục có chính sách hỗ trợ sản xuất, kinh doanh; khẩn trương triển khai các giải pháp khắc phục hậu quả, khôi phục sản xuất và đời sống nhân dân sau bão; đồng thời, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tập trung vào phát huy các động lực tăng trưởng truyền thống (xuất khẩu, đầu tư - nhất là đầu tư tư nhân, tiêu dùng); khai thác tốt hơn các động lực tăng trưởng mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…

Bốn là, đẩy mạnh triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia và giải ngân đầu tư công, nhất là đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao, đầu tư cơ sở hạ tầng; kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong triển khai; chú trọng cơ cấu lại nền kinh tế nhằm thu hút và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, nhất là các dự án, các tổ chức tín dụng yếu kém nhằm giảm rủi ro, chi phí, tăng tính lành mạnh và hiệu quả của thị trường. WB (8/2024) ước tính, Việt Nam chỉ cần tăng đầu tư công thêm một điểm phần trăm so GDP có thể khiến cho GDP tăng thêm 0,1 phần trăm.

Năm là, đẩy nhanh tiến độ tháo gỡ khó khăn, phát triển bền vững các thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản theo hướng: (i) Thực hiện hiệu quả Quyết định số 1726/QĐ-TTg ngày 29/12/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2030 và Công điện số 1360/CĐ-TTg ngày 13/12/2023 của Thủ tướng Chính phủ thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững, trong đó quyết tâm nâng hạng thị trường chứng khoán trong năm 2025, tăng cường kiểm soát rủi ro an ninh mạng, an toàn thông tin - dữ liệu; (ii) Triển khai có hiệu quả các luật mới ban hành liên quan đến thị trường bất động sản (Luật Đất đai, Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh Bất động sản), cần đẩy nhanh việc hoàn thành các nghị định hướng dẫn thi hành trên cơ sở đảm bảo nội dung chất lượng, bám sát thị trường.

Tốc độ tăng giá trị tăng thêm 9 tháng của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản so với cùng kỳ năm trước các năm 2020 - 2024 lần lượt là: 1,90%; 3,84%; 3,66%; 3,71% và 3,2%. Trong 9 tháng năm 2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản bị ảnh hưởng của dịch Covid-19, xâm nhập mặn và dịch tả lợn châu Phi nên tăng thấp.
Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp 9 tháng các năm 2011 - 2024 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 8,79%; 7,92%; 4,62%; 5,51%; 8,93%; 7,07%; 6,92%; 8,9%; 8,64%; 2,3%; 3,06%; 9,12%; 1,59% và 8,34%. Quý III các năm 2012 - 2024 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 8,17%; 4,85%; 6,59%; 9,29%; 7,9%; 9,93%; 9,45%; 9,38%; 2,38%; -4,6%; 10,69%; 4,51%; 9,59%.
3 Bao gồm: Tổng vốn đăng ký cấp mới đạt 13,55 tỉ USD, tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký điều chỉnh tăng thêm 7,64 tỉ USD, tăng 48,1% so với cùng kỳ năm trước, tổng giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 3,59 tỉ USD, giảm 26,2% so với cùng kỳ năm trước.
https://dangcongsan.vn/kinh-te/giai-ngan-chuong-trinh-phuc-hoi-kinh-te-xa-hoi-nhieu-thach-thuc-de-hoan-thanh-ke-hoach-nam-679940.html


Tài liệu tham khảo:

1. ADB (9/2024), Asean Development Outlook.
2. IMF (9/2024), VietNam staff report for the 2024 article IV consultation.
3. OECD (9/2024), OECD Economic Outlook.
4. Tổng cục Thống kê (10/2024), Báo cáo số 279/BC-TCTK ngày 06/10/2024 về Tình hình kinh tế - xã hội  quý III và 9 tháng năm 2024.
5. UN (5/2024), World Economic Situation and Prospects as of mid-2024.
6. UN (9/2024), World Economic Situation and Prospects September 2024 update.
7. WB (8/2024), Báo cáo điểm lại tháng 8/2024: Vươn tới tầm cao mới trên thị trường vốn.
8. WB (9/2024), East Asia and the Pacific economic update October 2024.
 
ThS. Vũ Thị Huyền Trang
Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Phát triển thị trường tài chính trong nền kinh tế số tại Việt Nam
Phát triển thị trường tài chính trong nền kinh tế số tại Việt Nam
21/10/2024 08:35 245 lượt xem
Kinh tế số là hoạt động kinh tế sử dụng công nghệ số và dữ liệu số làm yếu tố đầu vào chính, sử dụng môi trường số làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin - viễn thông để tăng năng suất lao động, đổi mới mô hình kinh doanh và tối ưu hóa cấu trúc nền kinh tế.
Tác động của tiền gửi đến hiệu quả tài chính các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tác động của tiền gửi đến hiệu quả tài chính các ngân hàng thương mại Việt Nam
18/10/2024 08:05 445 lượt xem
Nghiên cứu này xem xét tác động của tiền gửi đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam giai đoạn 2014 - 2023.
Thách thức và giải pháp tài chính trong phát triển nông nghiệp bền vững tại Việt Nam
Thách thức và giải pháp tài chính trong phát triển nông nghiệp bền vững tại Việt Nam
17/10/2024 08:45 474 lượt xem
Biến đổi khí hậu đang gây ra những tác động lớn đến đời sống và kinh tế toàn cầu, nông nghiệp tác động đến phát triển kinh tế - xã hội trên hai khía cạnh thích ứng với môi trường và tác động tiêu cực đến môi trường.
Tiếp cận phương pháp xác định hành vi quản trị lợi nhuận theo hướng truyền thống và hiện đại
Tiếp cận phương pháp xác định hành vi quản trị lợi nhuận theo hướng truyền thống và hiện đại
16/10/2024 08:00 393 lượt xem
Quản trị lợi nhuận là một chiến lược có thể được ban quản lí cố ý sử dụng để điều chỉnh chỉ tiêu thu nhập của công ty với các mục tiêu đã xác định trước.
Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - công cụ hỗ trợ phát triển “tam nông”: Kinh nghiệm từ Nhật Bản và bài học cho Việt Nam
Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - công cụ hỗ trợ phát triển “tam nông”: Kinh nghiệm từ Nhật Bản và bài học cho Việt Nam
15/10/2024 08:02 404 lượt xem
Bảo lãnh tín dụng được coi là một công cụ hữu hiệu giúp khắc phục được “điểm nghẽn” về vốn cho phát triển “tam nông”. Bài viết đề cập đến kinh nghiệm của Nhật Bản về bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp tiền tệ, tín dụng, góp phần phát triển nông nghiệp, nông thôn nhanh và bền vững
Thực hiện đồng bộ các giải pháp tiền tệ, tín dụng, góp phần phát triển nông nghiệp, nông thôn nhanh và bền vững
14/10/2024 08:00 461 lượt xem
Quán triệt sâu sắc những quan điểm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách, biện pháp về tiền tệ, tín dụng để khơi thông dòng vốn tín dụng vào khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Xây dựng mô hình dự báo hiện tại tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam
Xây dựng mô hình dự báo hiện tại tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam
11/10/2024 09:58 364 lượt xem
Dự báo hiện tại (Nowcasting) rất quan trọng trong kinh tế học vì dữ liệu cho các chỉ số chính như GDP thường có độ trễ và sai số đo lường đáng kể (Giannone và cộng sự, 2008)...
Giải pháp về giáo dục tài chính cho trẻ em của các ngân hàng thương mại
Giải pháp về giáo dục tài chính cho trẻ em của các ngân hàng thương mại
07/10/2024 08:06 506 lượt xem
Trong những năm gần đây, vấn đề dân trí tài chính đã trở thành một mối quan tâm lớn tại Việt Nam. Dân trí tài chính là khả năng hiểu biết và áp dụng các kiến thức tài chính trong cuộc sống hằng ngày, giúp cá nhân quản lý tài sản, lập kế hoạch tài chính và đưa ra các quyết định đầu tư một cách hiệu quả.
Phát triển kinh tế xanh - Từ nhận thức, chính sách đến thực tiễn ở Việt Nam
Phát triển kinh tế xanh - Từ nhận thức, chính sách đến thực tiễn ở Việt Nam
01/10/2024 10:00 724 lượt xem
Kinh tế xanh là sự kết hợp hài hòa giữa ba yếu tố kinh tế - xã hội - môi trường, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
Tác động của khoản vay mua nhà đến quản lí tài chính cá nhân
Tác động của khoản vay mua nhà đến quản lí tài chính cá nhân
27/09/2024 10:24 924 lượt xem
Bài viết nghiên cứu về tác động của khoản vay mua nhà đến quản lí tài chính của khách hàng cá nhân có vay vốn mua nhà tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
Xây dựng khung chiến lược quản lý rủi ro quốc gia nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Xây dựng khung chiến lược quản lý rủi ro quốc gia nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
23/09/2024 09:30 1.000 lượt xem
Tần suất dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào và ra khỏi một nền kinh tế cụ thể cùng với biến động quy mô dòng vốn này thường xuyên chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố liên quan đến tính ổn định của môi trường kinh tế - chính trị quốc gia...
Tác động của tín dụng xanh đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam: Vai trò điều tiết của quy mô ngân hàng
Tác động của tín dụng xanh đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam: Vai trò điều tiết của quy mô ngân hàng
20/09/2024 10:40 1.870 lượt xem
Trong bối cảnh mở rộng và thúc đẩy tăng trưởng xanh, tín dụng xanh đang dần trở thành lĩnh vực kinh doanh tiềm năng mà các tổ chức tín dụng ngày càng quan tâm.
Phát triển thanh toán qua kênh điện thoại di động ở Việt Nam hiện nay
Phát triển thanh toán qua kênh điện thoại di động ở Việt Nam hiện nay
16/09/2024 08:14 1.270 lượt xem
Bài viết nghiên cứu sự phát triển của thanh toán qua kênh ĐTDĐ ở Việt Nam trong những năm gần đây, chỉ ra những điểm tích cực và hạn chế trong thanh toán qua kênh ĐTDĐ thời gian qua. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy hơn nữa hoạt động thanh toán qua kênh ĐTDĐ tại Việt Nam trong thời gian tới.
Các biến thể tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương và những tác động lên bảng cân đối tài sản của ngân hàng trung ương
Các biến thể tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương và những tác động lên bảng cân đối tài sản của ngân hàng trung ương
10/09/2024 08:28 1.194 lượt xem
Sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của tiền điện tử đã mở đường cho sự ra đời và phát triển tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC.
Tác động của rủi ro địa chính trị và bất ổn chính sách kinh tế thế giới đến giá thị trường của cổ phiếu tại Việt Nam
Tác động của rủi ro địa chính trị và bất ổn chính sách kinh tế thế giới đến giá thị trường của cổ phiếu tại Việt Nam
06/09/2024 11:22 2.779 lượt xem
Trong nền kinh tế toàn cầu ngày càng kết nối chặt chẽ, thị trường chứng khoán (TTCK) không chỉ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố trong nước mà còn bởi các sự kiện và chính sách quốc tế.
Giá vàngXem chi tiết

Giá vàng - Xem theo ngày

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

82.000

84.000

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

82.000

84.000

Vàng SJC 5c

82.000

84.020

Vàng nhẫn 9999

81.600

83.000

Vàng nữ trang 9999

81.550

82.700


Ngoại tệXem chi tiết
Tỷ giá - Xem theo ngày 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,550 24,920 26,604 28,064 31,668 33,015 163.07 172.56
BIDV 24,580 24,920 26,828 28,045 32,079 33,022 165.6 172.99
VietinBank 24,578 24,918 26,859 28,059 32,139 33,149 165.46 173.21
Agribank 24,570 24,930 26,777 28,005 31,882 33,001 164.72 173.02
Eximbank 24,520 24,980 26,795 27,806 31,943 33,105 166.07 172.35
ACB 24,560 24,920 26,840 27,772 32,108 33,091 165.78 172.4
Sacombank 24,580 24,920 26,852 27,824 32,039 33,191 166.17 173.18
Techcombank 24,560 24,951 26,679 28,031 31,738 33,083 162.54 175.04
LPBank 24,365 25,090 26,732 28,383 32,170 33,181 164.34 176.25
DongA Bank 24,600 24,910 26,830 27,720 32,030 33,010 164.10 171.70
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết

(Cập nhật trong ngày)

Ngân hàng

KKH

1 tuần

2 tuần

3 tuần

1 tháng

2 tháng

3 tháng

6 tháng

9 tháng

12 tháng

24 tháng

Vietcombank

0,10

0,20

0,20

-

1,60

1,60

1,90

2,90

2,90

4,60

4,70

BIDV

0,10

-

-

-

1,70

1,70

2,00

3,00

3,00

4,70

4,70

VietinBank

0,10

0,20

0,20

0,20

1,70

1,70

2,00

3,00

3,00

4,70

4,80

ACB

0,01

0,50

0,50

0,50

2,30

2,50

2,70

3,50

3,70

4,40

4,50

Sacombank

-

0,50

0,50

0,50

2,80

2,90

3,20

4,20

4,30

4,90

5,00

Techcombank

0,05

-

-

-

3,10

3,10

3,30

4,40

4,40

4,80

4,80

LPBank

0.20

0,20

0,20

0,20

3,00

3,00

3,20

4,20

4,20

5,30

5,60

DongA Bank

0,50

0,50

0,50

0,50

3,90

3,90

4,10

5,55

5,70

5,80

6,10

Agribank

0,20

-

-

-

1,70

1,70

2,00

3,00

3,00

4,70

4,80

Eximbank

0,10

0,50

0,50

0,50

3,10

3,30

3,40

4,70

4,30

5,00

5,80


Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?