Tăng trưởng tín dụng năm 2022 hỗ trợ tích cực phục hồi tăng trưởng kinh tế
23/12/2022 3.690 lượt xem
Năm 2022, bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến khó lường và khác biệt hơn nhiều so với dự báo. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại rõ rệt, nguy cơ suy thoái hiện hữu, xung đột Nga - Ukraine kéo dài, phức tạp đẩy giá cả hàng hóa thế giới tăng cao khiến lạm phát toàn cầu tăng lên nhanh chóng và đạt mức cao nhất trong hơn 40 năm qua. Để kiềm chế đà tăng lên của lạm phát, ngân hàng trung ương các nước đẩy nhanh thắt chặt chính chính sách tiện tệ, thực hiện tăng lãi suất điều hành với tốc độ nhanh và tần suất mạnh. Trong đó, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất mục tiêu nhanh nhất trong lịch sử, từ 0 - 0,25%/năm lên 4,25 - 4,5%/năm hiện nay, khiến đồng USD tăng giá mạnh so với nhiều đồng tiền khác...

Bối cảnh kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn như vậy đã tạo áp lực rất lớn đến công tác điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ trong bối cảnh Việt Nam là một nền kinh tế nhỏ, có độ mở kinh tế lớn như hiện nay. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo sát sao của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, kinh tế trong nước về cơ bản vẫn phục hồi tích cực, ổn định vĩ mô được giữ vững, lạm phát được kiểm soát. Góp phần vào thành công này có một phần quan trọng không nhỏ của nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
 


Doanh nghiệp cần nâng cao hơn nữa năng lực quản trị, cơ cấu lại hoạt động, xây dựng phương án,
dự án sản xuất
, kinh doanh khả thi 

Trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2022 khoảng 6 - 6,5% và lạm phát khoảng 4% được Quốc hội, Chính phủ đặt ra, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2022 khoảng 14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Theo đó, NHNN điều hành tín dụng hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát; chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng tín dụng vào những lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên phát triển theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Các nội dung định hướng này đã được NHNN công bố công khai tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngay từ đầu năm.

Có thể nói, năm 2022, công tác điều hành tín dụng của NHNN đứng trước rất nhiều thách thức khi vừa phải thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế, vừa phải đảm bảo kiểm soát lạm phát. Do đó, việc kiểm soát tín dụng để tránh ảnh hưởng đến lạm phát là điều tất yếu. Các thách thức có thể kể đến như:

Thứ nhất, dòng vốn cung ứng cho nền kinh tế rất đa dạng, bao gồm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn huy động từ thị trường quốc tế thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp hoặc vay các tổ chức nước ngoài, huy động từ thị trường chứng khoán, từ phát hành trái phiếu doanh nghiệp, nguồn vốn tự có, tự tích lũy của các tổ chức, cá nhân và vay từ TCTD. Vốn tín dụng chỉ là một trong số các kênh cung ứng vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, với đặc thù vốn đầu tư của nền kinh tế phụ thuộc phần lớn vào tín dụng ngân hàng, nên năm 2022 áp lực lên vốn tín dụng ngân hàng càng tăng cao để phục vụ cho quá trình phục hồi kinh tế. Tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam tăng nhanh trong giai đoạn gần đây, đặc biệt, cuối năm 2021, tỷ lệ tín dụng/GDP ở mức khoảng 124% GDP1 (Hà Thành, 2022), đây là mức cảnh báo về tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống tài chính. Các tổ chức quốc tế như IMF, WB, một số tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia đều cảnh báo về tỷ lệ này của Việt Nam. Bên cạnh đó, tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động bằng VND của cả hệ thống ở mức cao (khoảng 100%), gây rủi ro về thanh khoản trong khi thị trường vốn chưa phát triển tương xứng với vai trò là kênh cung ứng vốn tín dụng trung và dài hạn cho nền kinh tế.

Thứ hai, các nguồn vốn khác đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế diễn biến không thuận lợi, gặp nhiều khó khăn (thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán tồn tại một số vấn đề, đăng ký vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm, giải ngân đầu tư công chậm) càng tạo thêm sức ép lên nguồn vốn tín dụng ngân hàng trong bối cảnh nền kinh tế cần vốn để phục hồi tăng trưởng kinh tế. Cụ thể: (1) Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20/11/2022, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần đạt hơn 25,1 tỷ USD, bằng 95% so với cùng kỳ năm 2021, tăng 0,4 điểm phần trăm so với 10 tháng đầu năm 2022 và tăng 10,3 điểm phần trăm so với 9 tháng đầu năm 2022. Trong đó: (i) Vốn đăng ký cấp mới có 1.577 dự án được cấp phép với số vốn đăng ký đạt 14,06 tỷ USD, giảm 31,8% về số dự án và tăng 3,7% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 3.466 lượt với tổng giá trị góp vốn 4,38 tỷ USD, giảm 33% so cùng kỳ năm trước; (ii) Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 11 tháng năm 2022 ước đạt 19,68 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước. (2) Thực trạng giải ngân vốn đầu tư công chậm, vẫn chưa được khắc phục. Theo Bộ Tài chính, ước tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công của cả nước 11 tháng năm 2022 mới đạt 52,43% kế hoạch. Nếu so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, tỷ lệ giải ngân đạt 58,33%, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2021 (63,86%). Tổng chi ngân sách nhà nước 11 tháng năm 2022 ước đạt 1.359 nghìn tỷ đồng, bằng 76,2% dự toán, tăng 7,1% so cùng kỳ năm 2021. (3) Thị trường chứng khoán mặc dù là kênh cung ứng vốn quan trọng cho nền kinh tế nhưng kết quả không được khả quan...

Thứ ba, việc giá hàng hóa cơ bản thế giới tăng cao đã tác động lớn tới giá cả hàng hóa trong nước và tạo áp lực tăng lạm phát chi phí đẩy. Điều này gây khó khăn cho NHNN khi vừa phải cân bằng giữa nhiệm vụ hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát trong công tác điều hành tín dụng.

Nhận định và đo lường trước các vấn đề này, trong quá trình điều hành tín dụng, phương châm điều hành xuyên suốt của NHNN là nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, hướng dòng vốn tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, góp phần hỗ trợ phục hồi tăng trưởng nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát, an toàn hệ thống các TCTD. Với sự chỉ đạo đồng bộ các giải pháp về điều hành tín dụng, tín dụng năm 2022 tăng ngay từ đầu năm, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế trong khi lạm phát vẫn được kiểm soát. Kết quả, tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát. Đến ngày 30/11/2022, tín dụng toàn hệ thống tăng khoảng 12%, góp phần hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế trong khi lạm phát vẫn được kiểm soát (lạm phát bình quân 11 tháng đầu năm 2022 ở mức 3,02%, thấp hơn mức mục tiêu 4%).

Trong bối cảnh các nguồn vốn khác gặp khó khăn như phân tích trên đây, mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2022 hoàn toàn có thể đạt được; để cung ứng thêm vốn tín dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho các ngành kinh tế trọng yếu, động lực tăng trưởng kinh tế như các lĩnh vực ưu tiên, xăng dầu, nông nghiệp nông thôn… theo chủ trương của Chính phủ, đầu tháng 12/2022, NHNN điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng năm 2022 thêm 1,5 - 2% cho toàn hệ thống các TCTD. Đồng thời, yêu cầu các TCTD kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với năng lực quản trị rủi ro, khả năng cân đối vốn, đảm bảo cân đối đủ nguồn vốn để cấp tín dụng, giữ ổn định mặt bằng lãi suất; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng theo chủ trương của Chính phủ; tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, đặc biệt là tín dụng cho nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân, nhà thương mại giá rẻ, đáp ứng nhu cầu nhà ở của người dân; kiểm soát chặt chẽ đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Việc NHNN điều chỉnh thêm chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2022 cho thấy, NHNN rất linh hoạt trong công tác điều hành tín dụng, điều này sẽ góp phần cung ứng thêm vốn cho nền kinh tế để hỗ trợ sản xuất, kinh doanh những tháng cuối năm 2022 và đầu năm 2023. Liên quan đến tiếp cận vốn của doanh nghiệp, bản thân các doanh nghiệp cần nâng cao hơn nữa năng lực quản trị, cần cơ cấu lại hoạt động, nâng cao khả năng tài chính, xây dựng phương án, dự án sản xuất kinh doanh khả thi, tạo niềm tin để các TCTD yên tâm cấp tín dụng.

Như vậy, có thể nói, công tác điều hành tín dụng năm 2022 của NHNN rất hiệu quả và phù hợp, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng và đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng trước bối cảnh lạm phát, lãi suất trên thế giới tăng cao và tình hình địa chính trị trên thế giới dự báo còn diễn biến phức tạp, tác động đến kinh tế toàn cầu. Trong thời gian tới, Chính phủ nên có thêm giải pháp hiệu quả phát triển và thu hút vốn trung, dài hạn từ các kênh khác như trái phiếu, chứng khoán và thu hút đầu tư nước ngoài… để nền kinh tế không quá phụ thuộc vào vốn tín dụng vì với bản chất vốn tín dụng chỉ phục vụ vốn ngắn hạn và lưu động… Việc tập trung quá nhiều vào tín dụng ngân hàng, đặc biệt là vốn trung và dài hạn sẽ tạo áp lực lên hệ thống ngân hàng và lâu dài ảnh hưởng đến an toàn hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.

1 Hà Thành (2022). “Hỗ trợ tăng trưởng, không chủ quan lạm phát”, tại https://sbv.gov.vn
 
Khánh Vy (Hà Nội)
 

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023 và triển vọng
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023 và triển vọng
04/12/2023 114 lượt xem
Sau khi đạt tăng trưởng cao ở mức 8% năm 2022, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2023 có xu hướng giảm do chịu ảnh hưởng từ sự ảm đạm của kinh tế thế giới.
Cơ hội và thách thức trong chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn
Cơ hội và thách thức trong chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn
01/12/2023 182 lượt xem
Cùng với xu thế phát triển trên thế giới và kiên định với mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đang có nhiều nỗ lực chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn (KTTH) như một định hướng ưu tiên và giải pháp quan trọng để phát triển nhanh, bền vững đất nước theo mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra.
Thực trạng Fintech tại Việt Nam, kinh nghiệm quản lí quốc tế và đề xuất
Thực trạng Fintech tại Việt Nam, kinh nghiệm quản lí quốc tế và đề xuất
23/11/2023 834 lượt xem
Trong những năm gần đây, thị trường Fintech tại Việt Nam đã có những bước phát triển rất mạnh mẽ cả về mặt số lượng, sự đa dạng trong sản phẩm, dịch vụ và thu hút vốn đầu tư.
Rủi ro, thách thức của kinh tế Việt Nam và một số kiến nghị, giải pháp
Rủi ro, thách thức của kinh tế Việt Nam và một số kiến nghị, giải pháp
20/11/2023 512 lượt xem
Trong 10 tháng đầu năm 2023, kinh tế toàn cầu diễn biến phức tạp, suy thoái kinh tế và lạm phát cao vẫn diễn ra ở nhiều nước; an ninh năng lượng, an ninh lương thực và biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng rất lớn đến thị trường giá cả hàng hóa; cùng với đó, những căng thẳng địa chính trị kéo dài và chính sách thắt chặt tiền tệ ở các nước cũng đã đem đến những hệ lụy không nhỏ cho kinh tế toàn cầu và kinh tế trong nước. Thời
Khó khăn, thách thức trong triển khai khung năng lực tại ngân hàng thương mại và một số khuyến nghị
Khó khăn, thách thức trong triển khai khung năng lực tại ngân hàng thương mại và một số khuyến nghị
20/11/2023 518 lượt xem
Nguồn nhân lực có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch và chương trình hành động của một doanh nghiệp nói chung cũng như của một ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng.
APEC - Vai trò và điểm nhấn mới trong hợp tác kinh tế
APEC - Vai trò và điểm nhấn mới trong hợp tác kinh tế
15/11/2023 508 lượt xem
Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) thành lập năm 1989, bao gồm 21 nền kinh tế trên vành đai châu Á - Thái Bình Dương.
Tác động của phân tích kinh doanh đến hiệu quả hoạt động ngân hàng
Tác động của phân tích kinh doanh đến hiệu quả hoạt động ngân hàng
14/11/2023 536 lượt xem
Ngân hàng hiện đang tương tác với khách hàng qua nhiều kênh Internet. Sự tiến triển sang lĩnh vực kĩ thuật số này dẫn đến sự phát triển của dữ liệu lớn với các phương pháp phân tích tiên tiến để quản lí hệ thống dịch vụ một cách hiệu quả trong các ngân hàng.
Thúc đẩy hoạt động quản lí siêu dữ liệu tại các tổ chức tài chính - ngân hàng trong thời kì chuyển đổi số
Thúc đẩy hoạt động quản lí siêu dữ liệu tại các tổ chức tài chính - ngân hàng trong thời kì chuyển đổi số
13/11/2023 380 lượt xem
Dữ liệu là phần quan trọng của mọi tổ chức, doanh nghiệp, đặc biệt là các tổ chức tài chính - ngân hàng, nơi mà khối lượng dữ liệu lưu trữ vô cùng lớn.
Tương tác giữa bảo mật và tính khả dụng trong lĩnh vực e-banking: Phân tích và khuyến nghị
Tương tác giữa bảo mật và tính khả dụng trong lĩnh vực e-banking: Phân tích và khuyến nghị
10/11/2023 359 lượt xem
Bài viết tập trung nghiên cứu về bảo mật e-banking trong ngân hàng điện tử với mục tiêu xác định sự biến đổi của các giải pháp bảo mật e-banking và tương tác phức tạp giữa tính bảo mật và tính khả dụng của hệ thống.
Chia sẻ và mở rộng kho dữ liệu nhằm hỗ trợ ra quyết định kinh doanh  tại các tổ chức tài chính, ngân hàng
Chia sẻ và mở rộng kho dữ liệu nhằm hỗ trợ ra quyết định kinh doanh tại các tổ chức tài chính, ngân hàng
08/11/2023 401 lượt xem
Trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, các tổ chức phải đối mặt với thách thức là không thể nắm giữ toàn bộ dữ liệu của khách hàng, mỗi tổ chức thường giữ một phần của dữ liệu đó.
Kinh nghiệm quốc tế về công cụ bộ đệm vốn phản chu kì và bài học cho Việt Nam
Kinh nghiệm quốc tế về công cụ bộ đệm vốn phản chu kì và bài học cho Việt Nam
03/11/2023 515 lượt xem
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 - 2008 kéo theo sự đổ vỡ của hệ thống tài chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mại - trung gian tài chính quan trọng, gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực cho nền kinh tế. Kể từ đó, các nhà quản lí trở nên quan tâm hơn đến việc xây dựng các công cụ giúp hệ thống tài chính có khả năng chịu đựng tốt hơn trước các cú sốc, giảm thiểu rủi ro hệ thống của các ngân hàng thương mại tại quốc gia mình.
Tác động của tài chính số đến ổn định tài chính quốc gia - Nghiên cứu thực nghiệm tại các nước ASEAN + 3
Tác động của tài chính số đến ổn định tài chính quốc gia - Nghiên cứu thực nghiệm tại các nước ASEAN + 3
02/11/2023 475 lượt xem
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích kinh tế lượng dựa trên dữ liệu bảng của 14 quốc gia trong khu vực ASEAN+3 giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2021 để phân tích tác động của tài chính số tới ổn định tài chính của các quốc gia. Trong đó, tài chính số được đo lường bởi hai nhóm nhân tố: Hệ thống cơ sở hạ tầng kĩ thuật số và khả năng triển khai dịch vụ tài chính số. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tài chính số có tác động tiêu cực tới chỉ số căng thẳng tài chính của các quốc gia trong khu vực ASEAN+3.
Nhận diện hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng dưới khía cạnh pháp lí và một số định hướng hoàn thiện
Nhận diện hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng dưới khía cạnh pháp lí và một số định hướng hoàn thiện
31/10/2023 537 lượt xem
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân khác.
Điểm nhấn, triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2023
Điểm nhấn, triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2023
27/10/2023 713 lượt xem
Theo số liệu tháng 9/2023 của nhiều tổ chức quốc tế, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 được điều chỉnh tăng nhẹ so với dự báo, nhưng vẫn thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng năm 2022.
Một số bất cập của Quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu URDG 758 2010 của ICC
Một số bất cập của Quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu URDG 758 2010 của ICC
18/10/2023 946 lượt xem
Bảo lãnh là một biện pháp đảm bảo nghĩa vụ dân sự thông dụng, nhưng cho đến nay trên thế giới chưa có luật quốc tế nào được ban hành để điều chỉnh phương thức bảo lãnh này ngoài các tập quán thương mại quốc tế do Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) ban hành là Quy tắc Thống nhất về Bảo lãnh theo yêu cầu (Uniform Rules for Demand Guarantees) số 458 năm 1992 (gọi tắt là URDG 458 1992) và bản sửa đổi hiện hành năm 2010, số 758 (gọi tắt là URDG 758 2010).
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

73.200

74.400

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

73.200

74.400

Vàng SJC 5c

73.200

74.420

Vàng nhẫn 9999

61.600

62.750

Vàng nữ trang 9999

61.450

62.450


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,020 24,390 25,663 27,072 29,913 31,187 160.34 169.73
BIDV 24,085 24,385 25,866 27,062 30,080 31,206 161.34 169.85
VietinBank 23,985 24,405 25,952 27,087 30,348 31,358 161.89 169.84
Agribank 24,050 24,390 25,906 26,697 30,145 31,120 162.46 167.45
Eximbank 24,000 24,390 25,979 26,705 30,253 31,099 162.78 167.33
ACB 24,040 24,390 26,018 26,673 30,441 31,082 162.21 167.47
Sacombank 24,030 24,383 26,083 26,746 30,514 31,035 162.55 169.11
Techcombank 24,063 24,403 25,722 27,064 29,938 31,252 158.46 170.9
LPBank 24,100 24,660 25,941 27,280 30,455 31,415 161.26 172.81
DongA Bank 24,080 24,380 25,980 26,650 30,290 31,120 160.5 167.6
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
2,60
2,60
2,90
3,90
3,90
5,00
5,00
BIDV
0,10
-
-
-
3,00
3,00
3,30
4,30
4,30
5,30
5,30
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,30
4,30
4,30
5,30
5,30
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
3,20
3,30
3,40
4,50
4,55
4,60
4,60
Sacombank
-
-
-
-
3,40
3,50
3,60
4,50
4,75
4,80
4,95
Techcombank
0,10
-
-
-
3,20
3,20
3,50
4,50
4,55
4,90
4,90
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
3,50
3,60
3,70
4,80
4,90
5,30
6,10
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,90
3,90
3,90
4,90
5,10
5,40
5,60
Agribank
0,20
-
-
-
3,00
3,00
3,30
4,30
4,30
5,30
5,30
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,40
3,50
3,70
4,80
5,10
5,40
5,50

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?