Năm 2022, bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến khó lường và khác biệt hơn nhiều so với dự báo. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại rõ rệt, nguy cơ suy thoái hiện hữu, xung đột Nga - Ukraine kéo dài, phức tạp đẩy giá cả hàng hóa thế giới tăng cao khiến lạm phát toàn cầu tăng lên nhanh chóng và đạt mức cao nhất trong hơn 40 năm qua. Để kiềm chế đà tăng lên của lạm phát, ngân hàng trung ương các nước đẩy nhanh thắt chặt chính chính sách tiện tệ, thực hiện tăng lãi suất điều hành với tốc độ nhanh và tần suất mạnh. Trong đó, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất mục tiêu nhanh nhất trong lịch sử, từ 0 - 0,25%/năm lên 4,25 - 4,5%/năm hiện nay, khiến đồng USD tăng giá mạnh so với nhiều đồng tiền khác...
Bối cảnh kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn như vậy đã tạo áp lực rất lớn đến công tác điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ trong bối cảnh Việt Nam là một nền kinh tế nhỏ, có độ mở kinh tế lớn như hiện nay. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo sát sao của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, kinh tế trong nước về cơ bản vẫn phục hồi tích cực, ổn định vĩ mô được giữ vững, lạm phát được kiểm soát. Góp phần vào thành công này có một phần quan trọng không nhỏ của nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2022 khoảng 6 - 6,5% và lạm phát khoảng 4% được Quốc hội, Chính phủ đặt ra, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2022 khoảng 14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Theo đó, NHNN điều hành tín dụng hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát; chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng tín dụng vào những lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên phát triển theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Các nội dung định hướng này đã được NHNN công bố công khai tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngay từ đầu năm.
Có thể nói, năm 2022, công tác điều hành tín dụng của NHNN đứng trước rất nhiều thách thức khi vừa phải thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế, vừa phải đảm bảo kiểm soát lạm phát. Do đó, việc kiểm soát tín dụng để tránh ảnh hưởng đến lạm phát là điều tất yếu. Các thách thức có thể kể đến như:
Thứ nhất, dòng vốn cung ứng cho nền kinh tế rất đa dạng, bao gồm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn huy động từ thị trường quốc tế thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp hoặc vay các tổ chức nước ngoài, huy động từ thị trường chứng khoán, từ phát hành trái phiếu doanh nghiệp, nguồn vốn tự có, tự tích lũy của các tổ chức, cá nhân và vay từ TCTD. Vốn tín dụng chỉ là một trong số các kênh cung ứng vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, với đặc thù vốn đầu tư của nền kinh tế phụ thuộc phần lớn vào tín dụng ngân hàng, nên năm 2022 áp lực lên vốn tín dụng ngân hàng càng tăng cao để phục vụ cho quá trình phục hồi kinh tế.
Tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam tăng nhanh trong giai đoạn gần đây, đặc biệt, cuối năm 2021, tỷ lệ tín dụng/GDP ở mức khoảng 124% GDP
1 (Hà Thành, 2022), đây là mức cảnh báo về tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống tài chính. Các tổ chức quốc tế như IMF, WB, một số tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia đều cảnh báo về tỷ lệ này của Việt Nam. Bên cạnh đó, tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động bằng VND của cả hệ thống ở mức cao (khoảng 100%), gây rủi ro về thanh khoản trong khi thị trường vốn chưa phát triển tương xứng với vai trò là kênh cung ứng vốn tín dụng trung và dài hạn cho nền kinh tế.
Thứ hai, các nguồn vốn khác đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế diễn biến không thuận lợi, gặp nhiều khó khăn (thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán tồn tại một số vấn đề, đăng ký vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm, giải ngân đầu tư công chậm) càng tạo thêm sức ép lên nguồn vốn tín dụng ngân hàng trong bối cảnh nền kinh tế cần vốn để phục hồi tăng trưởng kinh tế. Cụ thể: (1) Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20/11/2022, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần đạt hơn 25,1 tỷ USD, bằng 95% so với cùng kỳ năm 2021, tăng 0,4 điểm phần trăm so với 10 tháng đầu năm 2022 và tăng 10,3 điểm phần trăm so với 9 tháng đầu năm 2022. Trong đó: (i) Vốn đăng ký cấp mới có 1.577 dự án được cấp phép với số vốn đăng ký đạt 14,06 tỷ USD, giảm 31,8% về số dự án và tăng 3,7% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 3.466 lượt với tổng giá trị góp vốn 4,38 tỷ USD, giảm 33% so cùng kỳ năm trước; (ii) Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 11 tháng năm 2022 ước đạt 19,68 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước. (2) Thực trạng giải ngân vốn đầu tư công chậm, vẫn chưa được khắc phục. Theo Bộ Tài chính, ước tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công của cả nước 11 tháng năm 2022 mới đạt 52,43% kế hoạch. Nếu so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, tỷ lệ giải ngân đạt 58,33%, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2021 (63,86%). Tổng chi ngân sách nhà nước 11 tháng năm 2022 ước đạt 1.359 nghìn tỷ đồng, bằng 76,2% dự toán, tăng 7,1% so cùng kỳ năm 2021. (3) Thị trường chứng khoán mặc dù là kênh cung ứng vốn quan trọng cho nền kinh tế nhưng kết quả không được khả quan...
Thứ ba, việc giá hàng hóa cơ bản thế giới tăng cao đã tác động lớn tới giá cả hàng hóa trong nước và tạo áp lực tăng lạm phát chi phí đẩy. Điều này gây khó khăn cho NHNN khi vừa phải cân bằng giữa nhiệm vụ hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát trong công tác điều hành tín dụng.
Nhận định và đo lường trước các vấn đề này, trong quá trình điều hành tín dụng, phương châm điều hành xuyên suốt của NHNN là nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, hướng dòng vốn tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, góp phần hỗ trợ phục hồi tăng trưởng nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát, an toàn hệ thống các TCTD. Với sự chỉ đạo đồng bộ các giải pháp về điều hành tín dụng, tín dụng năm 2022 tăng ngay từ đầu năm, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế trong khi lạm phát vẫn được kiểm soát. Kết quả, tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát. Đến ngày 30/11/2022, tín dụng toàn hệ thống tăng khoảng 12%, góp phần hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế trong khi lạm phát vẫn được kiểm soát (lạm phát bình quân 11 tháng đầu năm 2022 ở mức 3,02%, thấp hơn mức mục tiêu 4%).
Trong bối cảnh các nguồn vốn khác gặp khó khăn như phân tích trên đây, mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2022 hoàn toàn có thể đạt được; để cung ứng thêm vốn tín dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho các ngành kinh tế trọng yếu, động lực tăng trưởng kinh tế như các lĩnh vực ưu tiên, xăng dầu, nông nghiệp nông thôn… theo chủ trương của Chính phủ, đầu tháng 12/2022, NHNN điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng năm 2022 thêm 1,5 - 2% cho toàn hệ thống các TCTD. Đồng thời, yêu cầu các TCTD kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với năng lực quản trị rủi ro, khả năng cân đối vốn, đảm bảo cân đối đủ nguồn vốn để cấp tín dụng, giữ ổn định mặt bằng lãi suất; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng theo chủ trương của Chính phủ; tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, đặc biệt là tín dụng cho nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân, nhà thương mại giá rẻ, đáp ứng nhu cầu nhà ở của người dân; kiểm soát chặt chẽ đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Việc NHNN điều chỉnh thêm chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2022 cho thấy, NHNN rất linh hoạt trong công tác điều hành tín dụng, điều này sẽ góp phần cung ứng thêm vốn cho nền kinh tế để hỗ trợ sản xuất, kinh doanh những tháng cuối năm 2022 và đầu năm 2023. Liên quan đến tiếp cận vốn của doanh nghiệp, bản thân các doanh nghiệp cần nâng cao hơn nữa năng lực quản trị, cần cơ cấu lại hoạt động, nâng cao khả năng tài chính, xây dựng phương án, dự án sản xuất kinh doanh khả thi, tạo niềm tin để các TCTD yên tâm cấp tín dụng.
Như vậy, có thể nói, công tác điều hành tín dụng năm 2022 của NHNN rất hiệu quả và phù hợp, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng và đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng trước bối cảnh lạm phát, lãi suất trên thế giới tăng cao và tình hình địa chính trị trên thế giới dự báo còn diễn biến phức tạp, tác động đến kinh tế toàn cầu. Trong thời gian tới, Chính phủ nên có thêm giải pháp hiệu quả phát triển và thu hút vốn trung, dài hạn từ các kênh khác như trái phiếu, chứng khoán và thu hút đầu tư nước ngoài… để nền kinh tế không quá phụ thuộc vào vốn tín dụng vì với bản chất vốn tín dụng chỉ phục vụ vốn ngắn hạn và lưu động… Việc tập trung quá nhiều vào tín dụng ngân hàng, đặc biệt là vốn trung và dài hạn sẽ tạo áp lực lên hệ thống ngân hàng và lâu dài ảnh hưởng đến an toàn hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
1 Hà Thành (2022). “Hỗ trợ tăng trưởng, không chủ quan lạm phát”, tại https://sbv.gov.vn