Quyết định tài trợ tín dụng xanh cho bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu: Nghiên cứu các nhân tố và khuyến nghị
05/05/2023 315 lượt xem
Tóm tắt: Sự phát triển của tín dụng xanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau và các yếu tố tác động đến sự phát triển của tín dụng xanh theo những cách khác nhau, tùy thuộc vào bối cảnh của mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn phát triển, sự phát triển của nền kinh tế và thị trường tài chính. Trong bài viết này, nhóm tác giả nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới quyết định tài trợ tín dụng xanh cho bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu tại các tổ chức tín dụng Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra, phỏng vấn, thu thập dữ liệu và áp dụng mô hình thuyết hành vi có kế hoạch (theory of planned behavior - TPB) để chứng minh các nhân tố ảnh hưởng tới các quyết định tài trợ tín dụng xanh ở các tổ chức tín dụng tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tất cả các nhân tố đều có sức ảnh hưởng nhất định tới quyết định tài trợ tín dụng xanh. Trong đó, nhân tố Trách nhiệm xã hội có tác động mạnh nhất lên quyết định tài trợ, theo sau là Cảm nhận kiểm soát và Cơ chế chính sách. Nhân tố Chuẩn chủ quan có tác động ít nhất. Từ kết quả thu được, tác giả đưa ra một số đề xuất, kiến nghị cho các cơ quan nhà nước, bên cung và cầu tín dụng xanh nhằm hoàn thiện và phát triển sản phẩm này trên thị trường Việt Nam.

Từ khóa: Tín dụng xanh, TPB, môi trường, biến đổi khí hậu.
 
DETERMINANTS OF FINANCING GREEN CREDIT FOR ENVIRONMENTAL PROTECTION AND CLIMATE CHANGE RESPONSE AND RECOMMENDATIONS
 
Abstract: The authors aim at studing factors impacting the decision to finance green credit for the purposes of environmental protection and climate change response at Vietnam banks. By using the theory of planned behavior (TPB), a long with survey methods, and interviews, the results show that all factors have certain influences on the decision to finance green credit. Social responsibility has the strongest impacts on funding decisions, followed by Perceived control and Policy mechanisms; in contrast, the subjective norm factor has the least impact. Based on findings, the authors propose some recommendations for State agencies as well as for the supply and demand side to improve and develop green credit product in Vietnam.
 
Keywords: Green credit, TPB, environment, climate change.
 
1. Giới thiệu
 
Theo tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Thế giới, để thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam đến năm 2030 dự kiến sẽ cần tới 30 tỉ USD. Đây là một thách thức không nhỏ đối với nguồn ngân sách nhà nước. Do vậy, những nguồn lực tài chính ngoài nhà nước, từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội theo hướng xanh hóa. Trong đó, nguồn tín dụng xanh là một trong những nguồn vốn đầy tiềm năng và hiệu quả phục vụ mục tiêu này. 
 
Sự phát triển của tín dụng xanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau và các yếu tố tác động đến sự phát triển của tín dụng xanh theo những cách khác nhau, tùy thuộc vào bối cảnh của mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn phát triển, sự phát triển của nền kinh tế và thị trường tài chính. Các nghiên cứu cho thấy, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của tín dụng xanh. Theo đó, các yếu tố phổ biến được nghiên cứu bao gồm các yếu tố vi mô như cấp bậc, quy mô, quyền sở hữu của tổ chức tài chính và các yếu tố vĩ mô như môi trường, xã hội, kinh tế vĩ mô dưới góc độ tài chính như nguồn vốn dài hạn cho ngân hàng thực hiện cấp tín dụng đối với các dự án xanh. Các yếu tố khác ảnh hưởng đến sự phát triển của tín dụng xanh bao gồm: Chi phí giao dịch tại ngân hàng cao; khách hàng thiếu kiến ​​thức, thông tin; sự tham gia chưa đầy đủ của các tổ chức quốc tế; giá trị còn lại của tài sản hiện có cần được thay thế; chi phí cao để tích hợp các nguồn năng lượng sạch vào hệ thống, rủi ro chính trị và các quy định; quyền sở hữu trí tuệ không rõ ràng; công cụ tài chính trong nước không phù hợp. Vì vậy, cần tăng cường các nghiên cứu về tín dụng xanh tại thị trường Việt Nam để góp phần làm tăng hiệu quả của việc bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu tại Việt Nam. 
 
2. Cơ sở lí luận và tổng quan nghiên cứu
 
Theo Hoài Linh và cộng sự (2022), tín dụng xanh là hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại (NHTM) với ba đặc điểm rõ rệt: Thứ nhất, tín dụng xanh được cấp cho các dự án sản xuất, kinh doanh không gây rủi ro về môi trường. Tuy nhiên, không phải dự án nào có yếu tố “xanh” sẽ được cấp tín dụng và mỗi ngân hàng cũng có những tiêu chí nhất định. Thứ hai, cho vay tín dụng xanh chủ yếu được thực hiện bằng nguồn vốn huy động từ các thành phần khác nhau trong xã hội, không hoàn toàn từ vốn huy động của ngân hàng, nguồn vốn được sử dụng để cấp tín dụng xanh là vốn xanh. Thứ ba, hoạt động cấp tín dụng xanh của ngân hàng có sự tham gia của nhiều cơ quan chức năng. Vì vậy, để khuyến khích các nhà đầu tư, Chính phủ hỗ trợ thông qua các chính sách thuế và cam kết đầu ra ổn định cho các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án ưu tiên theo hướng bảo vệ môi trường, cam kết hỗ trợ vốn dài hạn với lãi suất ưu đãi.
 
Nhìn chung, căn cứ theo nội dung thì các nhân tố (yếu tố) ảnh hưởng tới quyết định tài trợ tín dụng xanh của NHTM có thể được chia thành hai nhóm nhân tố: 
 
Thứ nhất, nhóm nhân tố nội tại (Internal factors). Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển tín dụng xanh trong nền kinh tế bao gồm chính sách tín dụng xanh của ngân hàng, quy trình cấp tín dụng xanh, phẩm chất, trình độ cán bộ ngân hàng và các nhân tố khác như kiểm soát nội bộ, tình hình huy động vốn của doanh nghiệp (Vũ Phương Chi, 2018; Barner và Han, 2013). Các yếu tố như thứ hạng, quy mô và tỉ lệ sở hữu của ngân hàng cũng là những yếu tố then chốt giúp ngân hàng có tầm nhìn và từ đó xây dựng kế hoạch triển khai phát triển tài chính xanh. Ngoài ra, xét về mục đích, các tổ chức trung gian tài chính quan tâm tới tín dụng xanh bởi mong muốn củng cố lợi ích về danh tiếng và uy tín cũng như các lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh thị trường ngân hàng có sự cạnh tranh gay gắt (Wright và Rwabizambuga, 2006).
 
Thứ hai, nhóm nhân tố bên ngoài (External factors). Các nhân tố này bao gồm nhân tố từ phía khách hàng (năng lực của khách hàng, khẩu vị tín dụng, sự hiểu biết và nhận thức về tín dụng xanh). Trong đó, đặc biệt tập trung đến thông tin về khách hàng doanh nghiệp, khả năng tiếp cận tín dụng và các dự án của doanh nghiệp có đang hướng tới mục tiêu phát triển xanh hay không (Shouyu Yao và cộng sự, 2021). Bên cạnh đó còn có nhân tố từ phía Nhà nước như môi trường kinh tế, môi trường pháp luật, chính sách thuế, chính sách kinh tế và bảo vệ môi trường của Chính phủ về phát triển tín dụng xanh (Vũ Phương Chi, 2018)
 
Để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới quyết định tài trợ tín dụng xanh cho bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu, tác giả phát triển mô hình từ các lí thuyết gốc bao gồm TPB, mở rộng từ mô hình lí thuyết hành động hợp lí (TRA). Lí thuyết hành vi có kế hoạch bởi các quyết định đầu tư vào hoạt động tín dụng xanh nhằm tài trợ cho môi trường và biến đổi khí hậu đều từ phía các cá nhân, hình thành hành vi có kế hoạch là sự mở rộng của TRA, cũng giống như TRA, TPB cho rằng, yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến việc đưa ra quyết định của con người là Ý định hành vi. Sự mở rộng của TPB khi nghiên cứu cho rằng Thái độ, Cảm nhận và Chuẩn chủ quan có ảnh hưởng đến Ý định hành vi (Ajzen, 1975).
 
3. Mô hình và các giả thuyết nghiên cứu
 
3.1. Các giả thuyết nghiên cứu đề xuất 
 
Thái độ đối với hành vi của TRA được định nghĩa là đánh giá của một cá nhân về kết quả thu được từ việc thực hiện một hành vi cụ thể, ám chỉ mức độ đánh giá thuận lợi hay bất lợi về một hành vi của một cá nhân (Fishbein và Ajzen, 1975). Trong mô hình này, nhân tố Thái độ đối với hành vi được hiểu như thái độ của các tổ chức tín dụng dẫn tới hành vi quyết định tài trợ tín dụng xanh như thế nào.  
 
H1: Thái độ đối với hành vi có ảnh hưởng thuận chiều đến ý định tài trợ tín dụng xanh.
 
Theo TRA của Fishbein và Ajzen (1975), Chuẩn chủ quan là một nhân tố có thể giải thích cho ý định hành vi. Chuẩn chủ quan là cảm nhận của các lãnh đạo ngân hàng và các tổ chức khác cung ứng tín dụng xanh đối với hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu cũng như các định hướng của đơn vị chủ quản. 
 
H2: Chuẩn chủ quan có tác động thuận chiều đến ý định tài trợ cho tín dụng xanh.
 
Nhân tố Cảm nhận kiểm soát được hiểu là khả năng kiểm soát khoản vay tín dụng xanh sau khi đã kí kết hợp đồng tại các tổ chức tín dụng. Sahoo và cộng sự (2008) và Agrawal (2014) đều có kết luận rằng, việc có khả năng kiểm soát dòng tín dụng giúp các tổ chức tín dụng, các ngân hàng sẵn sàng hơn trong việc cho vay, phát triển bền vững. Để kiểm soát được dòng tín dụng, thị trường cần hoạt động trong khuôn khổ các quy định phù hợp và ngân hàng là một trong những tổ chức có tác động lớn nhất tới nền kinh tế.
 
H3: Cảm nhận kiểm soát có tác động thuận chiều đến ý định tài trợ cho tín dụng xanh.
 
Cơ chế, chính sách của cơ quan quản lí, bao gồm Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và Chính phủ được hiểu là khung pháp lí và các quy định do Chính phủ ban hành nhằm khuyến khích, thúc đẩy thực hiện các hoạt động tín dụng xanh. Ahmad và cộng sự (2013) chỉ ra rằng, quy định của Ngân hàng Bangladesh đã thúc ép các NHTM Bangladesh phải thi hành chính sách ngân hàng xanh. 
 
H4: Cơ chế chính sách có tác động thuận chiều đến ý định tài trợ cho tín dụng xanh.
 
Trách nhiệm xã hội là một nhân tố tác động trực tiếp tới ý định tài trợ tín dụng xanh của các tổ chức tín dụng. Đi cùng với định hướng phát triển bền vững, yêu cầu hoạt động kinh tế phải chú trọng bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, điều này đang ngày càng được chú ý bởi toàn xã hội. Một phần nguyên nhân khiến cho các tổ chức tín dụng mong muốn tài trợ tín dụng xanh, thể hiện trách nhiệm xã hội chính là vì “danh tiếng xanh” - một lợi thế không nhỏ trong quảng bá, truyền thông, xây dựng hình ảnh của các tổ chức tín dụng. Theo Coombs và Holladay (2006), danh tiếng tích cực có thể đóng vai trò là bảo hiểm để chống lại thiệt hại về mặt danh tiếng.  
 
H5: Trách nhiệm xã hội có tác động thuận chiều đến ý định tài trợ cho tín dụng xanh.
 
Ý định tài trợ tín dụng xanh của các NHTM là động cơ để thực hiện hành động, ra quyết định về việc ngân hàng sẽ tài trợ các khoản tín dụng xanh hay không trong tương lai. Venkatesh và cộng sự (2012), Mahfuz và cộng sự (2016) cho thấy, các điều kiện thuận lợi có ảnh hưởng tích cực đến ý định hành vi, mà ở đây là ý định tài trợ cho tín dụng xanh. Ý định tài trợ tín dụng xanh sẽ thúc đẩy quyết định tài trợ tín dụng xanh. Dựa trên cơ sở đó, tác giả đưa ra giả thuyết:
 
H6: Ý định tài trợ tín dụng xanh ảnh hưởng thuận chiều đến quyết định tài trợ tín dụng xanh.
 
Từ giả thuyết đã tổng hợp, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu theo Hình 1.
 
Hình 1: Mô hình đề xuất


Trong thời gian khảo sát, tác giả nhận về được 200 quan sát. Đối tượng tham gia khảo sát là các cán bộ tín dụng, các nhân viên, quản lí tại các doanh nghiệp đang được tài trợ tín dụng xanh tại Hà Nội, Quảng Ninh, Hòa Bình (miền Bắc), Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh (miền Trung) và Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Long An (miền Nam). Tất cả các quan sát đều hợp lệ và đầy đủ thông tin, cơ cấu mẫu khảo sát đa dạng và đáng tin cậy, đủ điều kiện đại diện cho tổng thể.
 
Khảo sát các đối tượng trong bốn nhóm độ tuổi, trong đó nhóm độ tuổi từ 31 - 41 tuổi là lớn nhất chiếm 36%, các nhóm từ 41 - 50 tuổi, từ 22 - 30 tuổi và nhóm trên 50 tuổi chiếm lần lượt là 30%, 12% và 22%. Tỉ lệ người từ 31 - 41 tuổi chiếm tỉ lệ cao hơn có thể giải thích là do bảng hỏi nhắm đến đối tượng là cán bộ và nhân viên các ngân hàng.
 
Về chức vụ, có 34% người được hỏi là nhân viên các tổ chức tín dụng, trong khi 65% còn lại là quản lí. Nội dung phiếu khảo sát có nhiều câu hỏi liên quan tới cảm nhận của lãnh đạo ngân hàng. Điều này giải thích một phần cho sự chênh lệch về chức vụ trong mẫu quan sát.
 
Bên cạnh đó, khảo sát về đơn vị công tác có đến 20% người được hỏi đến từ các quỹ bảo vệ môi trường và 80% còn lại đến từ các NHTM. 
 
3.2. Kiểm định độ tin cậy của thang đo
 
Các thước đo có hệ số Cronbach Alpha từ 0,6 trở lên được coi là chấp nhận được. Các thước đo có hệ số Cronbach Alpha từ 0,7 đến 0,8 là sử dụng được. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng khi thước đo có độ tin cậy từ 0,8 trở lên đến gần 1 là thước đo tốt. 
 
Kết quả phân tích nhân tố khám phá cho thấy các biến quan sát được chia thành bảy nhóm, các biến quan sát được phân chia rõ ràng theo cột và có giá trị > 0,6. Quá trình phân tích nhân tố khám phá (Exploratory Factor Analysis - EFA) cho kết quả theo Bảng 1. 

Bảng 1: Kết quả kiểm định EFA



Phép trích: Phân tích thành phần chính.        Nguồn: Tác giả tổng hợp          
 
 
Giá trị tổng phương sai trích = 1,854 > 1, chia nhóm nhân tố thành bảy nhóm nhân tố phân biệt với hệ số tích lũy = 66,790% > 50% đã đảm bảo tính tin cậy của dữ liệu. Giá trị tổng phương sai trích 66,790% > 50% là đạt yêu cầu; giá trị hệ số Eigenvalues của các nhân tố đều cao (từ 1,854 - 7,594) đã đảm bảo yêu cầu > 1. 
 
Ngoài ra, khi tiến hành phân tích nhân tố khám phá cần quan tâm đến kết quả Kiểm định KMO (Kaiser - Meyer - Olkin) và Bartlett’s. Kiểm định KMO là chỉ số dùng để so sánh độ lớn của hệ số tương quan giữa hai biến với hệ số tương quan riêng phần của chúng. (Bảng 2)

Bảng 2: Kết quả kiểm định KMO



Nguồn: Tác giả tổng hợp
 
Kết quả phân tích nhân tố cho thấy chỉ số KMO là 0,879 > 0,5, điều này chứng tỏ dữ liệu dùng để phân tích nhân tố là hoàn toàn tin cậy.
 
Kết quả kiểm định Bartlett’s với mức ý nghĩa (p_value) sig. = 0,000 < 0,05, như vậy các biến có tương quan với nhau và thỏa mãn điều kiện phân tích nhân tố.
 
3.3. Phân tích nhân tố khẳng định (Confirmatory Factor Analysis - CFA)
 
Tác giả sử dụng phần mềm AMOS 24 để tiến hành phân tích các kết quả. Sau khi móc nối các sai số để cải thiện mô hình phù hợp thực tế, kết quả CFA Chi-Square điều chỉnh theo bậc tự do (CMIN/df) là 1,724 < 2; giá trị sig. = 0,000 cho thấy không có sự khác biệt giữa mô hình lí thuyết và mô hình thực tế.
 
Chỉ số độ phù hợp (GFI) = 0,896; chỉ số phù hợp không định mức (TLI) = 0,949 > 0,9; chỉ số thích hợp so sánh (CFI) = 0,954 
> 0,9 cho thấy mô hình được xem là tốt; chỉ số xác định mức độ phù hợp của mô hình so với tổng thể (RMSEA) = 0,034 < 0,05 cho thấy mô hình được xem là rất tốt, phù hợp với dữ liệu thị trường. (Bảng 3)
 
Bảng 3: Kết quả mô hình SEM 



Nguồn: Tác giả tổng hợp
 
Trước khi thực hiện phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM), nhóm tác giả kiểm định độ tin cậy của thang đo để đảm bảo các nhân tố được phản ánh chính xác. Kết quả kiểm định cho thấy các hệ số ước lượng của các nhân tố con trong nhân tố tổng hợp đều lớn hơn 0,5 và có ý nghĩa thống kê (sig. < 0,05). Từ đó cho thấy tất cả các nhân tố quan sát đều có thể được đưa vào mô hình SEM. 
 
Bước tiếp theo, tác giả tiến hành phân tích mô hình SEM để đánh giá tác động của mỗi biến độc lập lên ý định và quyết định tài trợ tín dụng xanh tại các tổ chức tín dụng tại Việt Nam. Với độ tin cậy là 95%, ta thấy các biến đều có sig. < 0,05 nên các mối quan hệ này đều có ý nghĩa. Các biến Chuẩn chủ quan (CHUANCHUQUAN); Cơ chế, chính sách (COCHECHINHSACH); Cảm nhận (CAMNHAN); Thái độ (THAIDO); Trách nhiệm (TRACHNHIEM) ảnh hưởng đến biến Ý định (YDINH) và biến YDINH ảnh hưởng đến biến Quyết định (QUYETDINH) như thể hiện trong Bảng 3.
 
Như vậy, kiểm định mô hình SEM cho thấy mức độ tác động của các nhân tố tới ý định tài trợ tín dụng xanh là khác nhau. Trong đó, tất cả các nhân tố đều có tác động dương tới ý định và quyết định tài trợ tín dụng xanh tại các quỹ bảo vệ môi trường và NHTM. Trong đó, nhân tố có mức tác động lớn nhất là Trách nhiệm xã hội của tổ chức tín dụng với mức tác động 0,209. Xếp sau đó là Cảm nhận và Cơ chế chính sách ở mức 0,130 và 0,128. Nhân tố có mức ảnh hưởng thấp nhất là Chuẩn chủ quan, ở mức 0,100. Điều này cho thấy chuẩn Chủ quan chỉ là ấn tượng ban đầu, chưa phải nhân tố mang tính quyết định tới việc có đồng ý thực hiện tài trợ tín dụng xanh cho các dự án bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu hay không.
 
4. Đề xuất, kiến nghị
 
Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra một số đề xuất, kiến nghị giúp thúc đẩy hoạt động tín dụng xanh tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. 
 
Đối với các cơ quan quản lí, phát triển hệ thống tài trợ tín dụng xanh là một quá trình lâu dài có thể chưa mang lại lợi ích trong ngắn hạn, vì vậy, cần kết hợp chiến lược phát triển xanh với chiến lược phát triển chung của đất nước. Chính phủ cần xem xét điều chỉnh hệ thống luật pháp hiện hành và xây dựng các quy định mới cho phù hợp với thông lệ quốc tế theo xu hướng phát triển tín dụng xanh. Mặt khác, hệ thống tài trợ tín dụng xanh có nhiều đặc điểm khác biệt so với hệ thống tài trợ tín dụng thông thường hiện nay nên Chính phủ cũng đồng thời cần nâng cao năng lực quản lí của các cơ quan nhà nước và đầu tư nhằm hỗ trợ quản lí hệ thống tài chính xanh. 
 
Thứ nhất, Nhà nước và Chính phủ cần xây dựng các chương trình hoặc chính sách nhằm mục đích nâng cao tầm quan trọng và lợi ích của việc tài trợ tín dụng xanh. Chính phủ cần có khả năng dự báo thể hiện trong quá trình hoạch định chính sách thực hiện với tầm nhìn hệ thống để có thể phát hiện khả năng điều hòa, cân đối các yêu cầu khác nhau về nguồn lực. 
 
Thứ hai, Chính phủ cần phải gia tăng mức độ cạnh tranh quốc gia cụ thể như gia tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư (Nguyễn Thường Lạng, 2017). Thực tế cho thấy, việc thu hút nguồn tài trợ tín dụng vào các dự án xanh gặp nhiều cản trở do mức độ hấp dẫn của những dự án đó đối với các nhà đầu tư chưa cao. 
 
Thứ ba, NHNN cần phối hợp chặt chẽ với các tổ chức tín dụng cung cấp tín dụng xanh, chính quyền địa phương và các bên liên quan để các tổ chức này có được những thông tin một cách chính xác, từ đó phê duyệt các khoản vay tín dụng xanh một cách dễ dàng hơn.
 
Thứ tư, cần đổi mới chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, xem xét lại và hoàn thiện chỉ tiêu GDP xanh, cải tiến hệ thống tài khoản quốc gia, phản ánh đủ các chỉ tiêu tính toán môi trường trong hạch toán cân đối tài khoản quốc gia... Bên cạnh đó, cân nhắc hình thành Quỹ tài chính - tín dụng xanh với mục đích chuyên nghiệp hóa cấp tín dụng xanh cho các dự án quan trọng.
 
Về phía cung tín dụng xanh, các quỹ bảo vệ môi trường và các NHTM cung cấp tín dụng xanh đóng vai trò to lớn trong việc lưu chuyển dòng vốn của nền kinh tế. Do vậy, các tổ chức tín dụng cần có chính sách tăng trưởng quy mô cho vay, cấp tín dụng một cách hợp lí cho các dự án xanh, vừa đáp ứng nhu cầu về vốn của các thành phần, tổ chức kinh tế cũng như vừa đảm bảo an toàn, giảm thiểu rủi ro cho hoạt động của ngân hàng.
 
Đầu tiên, quỹ bảo vệ môi trường và các NHTM cấp tín dụng nên điều chỉnh các khoản đầu tư dựa trên nền kinh tế thực để giúp điều chỉnh nền kinh tế từ “nâu” sang “xanh”, quy trình và lộ trình có thể tham khảo các quốc gia đang tích cực tiến hành xanh hóa nền kinh tế như Nga, Ấn Độ hay Trung Quốc…
 
Thứ năm, xét trên phương diện vi mô cần đánh giá hệ thống tài trợ tín dụng xanh dưới giác độ lợi ích và chi phí. Mục tiêu hoạt động chính của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Mục tiêu xây dựng mô hình tài trợ tín dụng xanh phải hướng tới việc giảm bớt hoạt động sản xuất và tiêu dùng hàng hóa và sản phẩm có hại cho môi trường và gia tăng hoạt động sản xuất và tiêu dùng những hàng hóa sạch, thân thiện với môi trường.
 
Thứ sáu, quỹ bảo vệ môi trường và các NHTM cũng cần xem xét phát triển các bộ chỉ số đánh giá cổ phiếu xanh, trái phiếu xanh, doanh nghiệp xanh, tài chính xanh và nghiên cứu bổ sung các tiêu chí còn thiếu trong bộ tiêu chí xếp hạng tín dụng xanh dành cho các tổ chức kinh tế thực hiện dự án xanh, đặc biệt chú ý tới tiêu chí bảo vệ môi trường, chất lượng của dự án, lịch sử các dự án đã thực hiện trong quá khứ. 
 
Thứ bảy, xây dựng một bộ phận đầu tư xanh trong các ngân hàng hiện có để hỗ trợ đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng xanh mà thị trường không thể tài trợ. Những lĩnh vực đầu tư chủ yếu của ngân hàng bao gồm năng lượng tái tạo, giao thông, xử lí rác và nguồn nước… Xanh hóa hệ thống tài chính tập trung vào các vấn đề trọng tâm như: (1) Hình thành cơ chế tài chính khuyến khích đầu tư xanh; (2) Xây dựng những định chế chuyên thực hiện các hoạt động đầu tư và cho vay xanh; (3) Cung cấp các sản phẩm và kênh tài trợ xanh; (4) Đảm bảo sử dụng tài chính công một cách có hiệu quả để khuyến khích dòng tài chính tư nhân; (5) Hình thành cơ sở hạ tầng thông tin hỗ trợ nhà đầu tư đánh giá tác động môi trường tới các khoản đầu tư, ví dụ như hệ thống chỉ số tín dụng xanh, các quy định công bố thông tin môi trường.
 
Tài liệu tham khảo:
 
1. Đỗ Hoài Linh và cộng sự (2022), Tín dụng xanh tại Việt Nam: Thực trạng và các khuyến nghị chính sách, Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ. Truy cập tại https://thitruongtaichinhtiente.vn/tin-dung-xanh-tai-viet-nam-thuc-trang-va-cac-khuyen-nghi-chinh-sach-38668.html
2. Do Hoai Linh, Tran Duc Anh, Khuc The Anh, Lai Thi Thanh Loan (2021), Empirical Research on Green Credit Policies in Vietnam, International Journal of Management Studies and Social Science Research Volume 3 Issue 5, pages 163 - 171.
3. Fishbein M. và Icek Ajzen (1975), Belief, attitude, intention and behaviour: An introduction to theory and research, Addison-Wesley Publisher, ISBN: 
978-0201020892.
4. Sahoo Pravakar và Bibhu Prasad Nayak (2008), Working paper submitted to Institute of Economic Growth, Tạp chí New Delhi.
5. Venkatesh Viswanath, Michael G. Morris, Gordon B. Davis và Fred D. Davis (2003), User Acceptance of Information Technology: Toward a Unified View, MIS Quarterly, No 27(3), pages 
425 - 478.
6. Vũ Phương Chi (2018), Phát triển tín dụng xanh: Kinh nghiệm quốc tế và một số bài học cho các NHTM Việt Nam: Luận văn Thạc sĩ Tài chính - Ngân hàng - Bảo hiểm. 

GS., TS. Đỗ Hoài Linh (Đại học Kinh tế Quốc dân)
ThS. Đặng Phong Nguyên (Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông)
ThS. Trần Đức Anh (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
 

 

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Nâng cao chất lượng dịch vụ ví điện tử trên thị trường Việt Nam
Nâng cao chất lượng dịch vụ ví điện tử trên thị trường Việt Nam
01/06/2023 156 lượt xem
Sự phát triển của thương mại điện tử, dịch bệnh Covid-19 bùng phát đã phát sinh nhu cầu thanh toán không tiền mặt của một bộ phận không nhỏ khách hàng. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp cung ứng ví điện tử cho người tiêu dùng bằng các ứng dụng trên điện thoại thông minh với hình thức đa dạng, phong phú, từ đó thu hút được số lượng người truy cập lớn.
Hội đồng trường đại học: Các điểm nghẽn cần quan tâm tháo gỡ trong bối cảnh hiện nay
Hội đồng trường đại học: Các điểm nghẽn cần quan tâm tháo gỡ trong bối cảnh hiện nay
31/05/2023 125 lượt xem
Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập hiện nay, giáo dục đại học đã có sự chuyển mình cần thiết để phù hợp với xu thế phát triển. Việc thành lập hội đồng trường là một trong những chủ trương đúng đắn, tiệm cận với giáo dục đại học thế giới. Hội đồng trường được thành lập là bước đi và khâu quan trọng để tiến tới tự chủ đại học.
Ảnh hưởng của dân trí tài chính đến quản lí nợ của người lao động phổ thông Việt Nam
Ảnh hưởng của dân trí tài chính đến quản lí nợ của người lao động phổ thông Việt Nam
29/05/2023 213 lượt xem
Định nghĩa về dân trí tài chính (financial literacy) từ trước đến nay luôn khiến các nhà nghiên cứu gặp khó khăn bởi có nhiều quan điểm sử dụng những từ ngữ khác nhau để đề cập đến khái niệm này như: “hiểu biết về tài chính”, “kiến thức tài chính”, “năng lực tài chính”…
Tác động của tái định vị thương hiệu đến hiệu quả kinh doanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tác động của tái định vị thương hiệu đến hiệu quả kinh doanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
16/05/2023 308 lượt xem
Tái định vị thương hiệu là xu hướng marketing đi cùng sự phát triển của doanh nghiệp, sự thay đổi và phát triển về nhu cầu của khách hàng mục tiêu, của thị trường và của môi trường kinh doanh. Tái định vị thương hiệu ngân hàng giúp các ngân hàng có được vị trí trong tâm trí và trái tim khách hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị phần và gia tăng hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Nghiên cứu thực nghiệm về ý định chấp nhận tiền điện tử của thế hệ Z bằng việc vận dụng lí thuyết về hành vi có kế hoạch
Nghiên cứu thực nghiệm về ý định chấp nhận tiền điện tử của thế hệ Z bằng việc vận dụng lí thuyết về hành vi có kế hoạch
12/05/2023 1.279 lượt xem
Nghiên cứu này nhằm mục đích khám phá ý định hành vi của thế hệ Z (thế hệ sinh ra từ năm 1997 đến năm 2012) đối với việc chấp nhận tiền điện tử. Bằng việc vận dụng lí thuyết về hành vi có kế hoạch để thực hiện phân tích ý định hành vi chấp nhận tiền điện tử, nghiên cứu sử dụng phương pháp bình phương bé nhất riêng phần (PLS) với cách tiếp cận để phân tích mẫu 230 người thuộc thế hệ Z.
Giảm tốc kinh tế thế giới và nhân tố tác động
Giảm tốc kinh tế thế giới và nhân tố tác động
10/05/2023 403 lượt xem
Năm 2022, kinh tế thế giới giảm tốc do bất ổn địa chính trị, lạm phát ở mức cao và làn sóng tăng lãi suất của các ngân hàng trung ương. Trong quý I và dự báo triển vọng kinh tế thế giới năm 2023 tiếp tục chứng kiến biến động ở nhiều khu vực bởi những “tàn dư” của đại dịch Covid-19, áp lực lạm phát, khủng hoảng năng lượng do hậu quả của xung đột Nga - Ukraine và lãi suất tăng cao tiếp tục đẩy kinh tế thế giới suy giảm mạnh.
Trí tuệ nhân tạo thúc đẩy hoạt động bán hàng trả góp
Trí tuệ nhân tạo thúc đẩy hoạt động bán hàng trả góp
08/05/2023 302 lượt xem
Trí tuệ nhân tạo đã và đang góp phần quan trọng trong việc thay đổi toàn diện hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống con người. Hiểu và áp dụng đúng trí tuệ nhân tạo sẽ đem lại những tiện ích, rút ngắn thời gian nghiệp vụ, loại bỏ những thủ tục rườm rà...
Rủi ro tín dụng và các mô hình quản lí rủi ro tín dụng tại Việt Nam
Rủi ro tín dụng và các mô hình quản lí rủi ro tín dụng tại Việt Nam
04/05/2023 899 lượt xem
Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường.
 Kinh tế toàn cầu tác động và ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế trong nước
Kinh tế toàn cầu tác động và ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế trong nước
29/04/2023 621 lượt xem
Trong 4 tháng đầu năm 2023, hầu hết các nền kinh tế phát triển đều tăng trưởng chậm lại; trong đó, GDP quý I/2023 của Mỹ dự báo chỉ tăng khoảng 1% và khu vực châu Âu tăng 0,1% so với cùng kì năm 2022...
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với hệ thống chuỗi cung ứng
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với hệ thống chuỗi cung ứng
26/04/2023 468 lượt xem
Một trong những thách thức lớn nhất mà các công ty sản xuất phải đối mặt hiện nay là sự gia tăng đáng kể các vấn đề về chuỗi cung ứng. Thật không may, cách tiếp cận truyền thống không thể phù hợp với sự đa dạng của những vấn đề phức tạp này. Sự ra đời các công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) giúp liên kết các hoạt động thông minh với thiết kế và quy trình chuỗi cung ứng để cứu vãn một số thiếu hụt hoạt động trong chuỗi cung ứng.
Các nhân tố phía cầu tác động đến tài chính toàn diện tại Việt Nam
Các nhân tố phía cầu tác động đến tài chính toàn diện tại Việt Nam
12/04/2023 891 lượt xem
Tài chính toàn diện ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong phát triển, ổn định kinh tế của mỗi quốc gia, do đó, việc nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới tài chính toàn diện tại Việt Nam có ý nghĩa về mặt lí luận và thực tiễn. Kết quả mô hình các nhân tố tác động tới tài chính toàn diện tại Việt Nam chỉ ra rằng: Giới tính có tác động ngược chiều tới việc sở hữu tài khoản, sử dụng các dịch vụ tiết kiệm, sử dụng thẻ ATM, sử dụng thẻ tín dụng, sử dụng dịch vụ bảo hiểm, đầu tư.
Ảnh hưởng của kiến thức và sự tự tin đến hành vi ra quyết định của khách hàng trong sử dụng dịch vụ tài chính
Ảnh hưởng của kiến thức và sự tự tin đến hành vi ra quyết định của khách hàng trong sử dụng dịch vụ tài chính
06/04/2023 755 lượt xem
Kiến thức tài chính của khách hàng là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hành vi của khách hàng trong sử dụng dịch vụ tài chính. Kiến thức này bao gồm hai loại: Kiến thức chủ quan và kiến thức khách quan. Hai loại kiến thức này hình thành nên sự tự tin thái quá hoặc kém tự tin của khách hàng. Khi khách hàng quá tự tin hay kém tự tin sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả ra quyết định của khách hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường và hàm ý cho Việt Nam
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường và hàm ý cho Việt Nam
25/03/2023 1.170 lượt xem
Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường (BVMT) bao gồm thuế, phí, lệ phí, đặt cọc, kí quỹ, quỹ BVMT, trợ cấp môi trường... Không giống như công cụ hành chính mang tính chất mệnh lệnh, công cụ kinh tế mang tính mềm dẻo, linh hoạt, khiến cho người gây ô nhiễm và người hưởng thụ môi trường có các hành vi xử sự có lợi cho môi trường.
Tác động của quản lí rủi ro tín dụng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tác động của quản lí rủi ro tín dụng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam
20/03/2023 1.053 lượt xem
Quản lí rủi ro tín dụng hiệu quả đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe của các ngân hàng vì nó có thể phá hủy hoặc đảm bảo khả năng duy trì và tăng trưởng của ngân hàng. Bài viết nghiên cứu tác động của quản lí rủi ro tín dụng, được đo lường bằng tỉ lệ nợ xấu, tỉ lệ an toàn vốn, tỉ lệ chi phí, tỉ lệ thanh khoản, tỉ lệ cho vay trên tiền gửi đối với khả năng sinh lời, được đo lường bằng tỉ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Vai trò của tài chính số trong ổn định hệ thống tài chính
Vai trò của tài chính số trong ổn định hệ thống tài chính
16/03/2023 1.228 lượt xem
Trên thế giới và ở Việt Nam, tài chính số đang ở trong giai đoạn phát triển bùng nổ với nhiều loại hình dịch vụ đa dạng. Qua nhiều nghiên cứu và kiểm nghiệm thực tế cho thấy, phát triển tài chính số cải thiện sự ổn định của hệ thống tài chính thông qua việc tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng và hạn chế tỉ lệ lạm phát.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

66.450

67.050

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

66.450

67.050

Vàng SJC 5c

66.450

67.070

Vàng nhẫn 9999

55.600

56.550

Vàng nữ trang 9999

55.600

56.650


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23,290 23,660 24,463 25,833 28,475 29,689 164.04 173.66
BIDV 23,345 23,645 24,640 25,823 28,589 29,852 164.82 173.61
VietinBank 23,232 23,652 24,706 25,841 28,825 29,835 165.1 173.05
Agribank 23,285 23,645 24,701 25,701 28,715 29,544 166.24 173.05
Eximbank 23,270 23,650 24,760 25,434 28,812 29,596 166.31 170.84
ACB 23,200 23,700 24,766 25,391 28,946 29,558 165.95 170.31
Sacombank 23,280 23,683 24,902 25,415 29,011 29,518 166.42 171.98
Techcombank 23,312 23,656 24,501 25,826 28,441 29,726 161.77 174.06
LPBank 23,290 23,890 24,739 26,073 28,836 29,778 163.78 175.23
DongA Bank 23,350 23,680 24,750 25,440 28,810 29,600 163.9 171.2
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
0,50
0,50
0,50
4,60
4,70
4,80
6,40
6,60
6,80
6,90
Sacombank
-
-
-
-
5,30
5,40
5,50
7,30
7,40
7,60
7,90
Techcombank
0,10
-
-
-
5,40
5,40
5,40
7,10
7,10
7,10
7,10
LPBank
-
0,20
0,20
0,20
5,00
5,00
5,00
7,30
7,30
7,70
8,00
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
5,50
5,50
5,50
7,90
7,95
8,00
8,30
Agribank
0,30
-
-
-
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,00
Eximbank
0,20
0,50
0,50
0,50
5,50
5,50
5,50
6,30
6,60
7,10
7,50

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?