Phát triển hoạt động bảo lãnh tín dụng hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
27/06/2023 2.711 lượt xem
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuy nhiên, việc tiếp cận vốn tín dụng hiện đang gặp khó khăn do sự bất cân xứng thông tin giữa doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng (TCTD). Bảo lãnh tín dụng (BLTD) ra đời và phát triển với mục tiêu là hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận tín dụng hiệu quả hơn. Mô hình này hiện đã phát triển tại nhiều quốc gia trên thế giới với những tác động tích cực đã được ghi nhận, đặc biệt là tại Nhật Bản và Hàn Quốc. Việc nghiên cứu kinh nghiệm phát triển hoạt động BLTD tại hai quốc gia có điều kiện về tổ chức, vận hành khá phù hợp với Việt Nam sẽ mang lại nhiều bài học quý trong việc tổ chức, quản lí.

1. Vai trò quan trọng của hoạt động BLTD

 
DNNVV là những doanh nghiệp có quy mô vừa, nhỏ hoặc siêu nhỏ. Phần lớn các doanh nghiệp này hoạt động trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ và sản xuất kinh doanh nhỏ. Thông thường, các quốc gia phân loại doanh nghiệp dựa vào các tiêu chí như số lượng nhân viên, số vốn hoặc tài sản và doanh thu trong năm. Ở Việt Nam, DNNVV được xác định tùy thuộc vào lĩnh vực hoạt động, số lượng người lao động và giá trị tài sản hoặc nguồn vốn của doanh nghiệp.

DNNVV có vai trò quan trọng và được coi là động lực tăng trưởng của nền kinh tế, đặc biệt là tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Tại châu Á, số lượng các DNNVV chiếm hơn 95% tổng số doanh nghiệp, đóng góp 50% - 70% việc làm và chiếm 30% - 60% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nhiều quốc gia. Các DNNVV hoạt động trong mọi lĩnh vực từ sản xuất công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ... không chỉ có vai trò lớn trong phát triển kinh tế mà còn góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội. Bên cạnh đó, loại hình doanh nghiệp này rất năng động, dễ ứng dụng công nghệ sản xuất mới, vì vậy có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hiện đại hóa nền kinh tế.

 
Tại Việt Nam, năm 2022, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, khu vực DNNVV hiện chiếm khoảng 98% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động, đóng góp tới 45% vào GDP, 31% vào tổng số thu ngân sách và thu hút hơn 5,6 triệu lao động.
 
Hiện nay, các DNNVV chủ yếu vay vốn thông qua kênh tín dụng từ các TCTD, mà phần lớn là ngân hàng thương mại (NHTM). Tuy nhiên, việc này gặp phải một số thách thức bởi các quy định về điều kiện vay, nhất là về tài sản thế chấp, thu nhập, thủ tục hành chính… Theo nghiên cứu của Quỹ Đầu tư châu Âu - European Investment Fund (EIF) năm 2015, các DNNVV chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngân hàng để huy động vốn và hạn chế hiểu biết về các nguồn vốn khác. Trong khi đó, NHTM có xu hướng tập trung nhiều hơn vào cho vay, tài trợ nguồn vốn cho các doanh nghiệp lớn vì các doanh nghiệp lớn thường có rủi ro vỡ nợ thấp hơn và tình hình tài chính, thông tin kế toán minh bạch, rõ ràng hơn so với các DNNVV.

Chính vì những lí do này, nên việc ra đời và phát triển của hoạt động BLTD là tất yếu, nhất là trong bối cảnh mà nhu cầu vốn với các DNNVV ngày càng tăng nhằm đáp ứng cho yêu cầu của cạnh tranh và hội nhập.

Về bản chất, BLTD là hoạt động mà tổ chức bảo lãnh đứng ra xác nhận sẽ thay thế cho bên được bảo lãnh (đi vay) thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba (bên cho vay). Hoạt động này có sự tham gia của ít nhất ba bên là TCTD, tổ chức BLTD (ở Việt Nam là quỹ BLTD) và khách hàng (DNNVV). Sau khi quỹ BLTD đã thực hiện các nghĩa vụ thanh toán nợ cho TCTD giúp khách hàng thì khách hàng sẽ cần nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức BLTD số tiền đã được tổ chức BLTD trả nợ thay cũng như các khoản phí liên quan đến bảo lãnh.

 
Hình 1: Quy trình chung của hoạt động BLTD

Nguồn: Tác giả tổng hợp

BLTD có tác động tích cực đối với cả ba chủ thể chính có liên quan: DNNVV; NHTM; Chính phủ và nền kinh tế:

Thứ nhất, đối với các DNNVV, BLTD giúp giảm chi phí giao dịch bảo lãnh, tăng khả năng thanh toán bảo hiểm (bao gồm cả giảm chi phí giao dịch, tăng số tiền chiết khấu và cải thiện mức độ thu hồi); khắc phục các vấn đề về huy động nguồn vốn cho các DNNVV và có tác dụng trong kích thích tăng trưởng.

Thứ hai, đối với các NHTM, sẽ san sẻ rủi ro giúp tăng cơ hội mở rộng khả năng cho vay, tạo mối liên hệ tốt hơn với các doanh nghiệp.

Thứ ba, đối với Chính phủ, BLTD là công cụ hữu hiệu thu hẹp khoảng cách giữa cung và cầu trong tài chính của các DNNVV, góp phần đa dạng hóa hệ thống và thị trường tài chính, là tiền đề để huy động các nguồn lực của các định chế tài chính khác và có đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Thực tế, nền kinh tế nhiều quốc gia khởi sắc hơn đáng kể với sự phát triển mạnh mẽ của DNNVV do hiệu quả từ hoạt động BLTD, đặc biệt là trong những giai đoạn khủng khoảng (2008 - 2009, 2020 - 2021). Từ năm 2020 (năm bùng phát đại dịch Covid-19), hầu hết các nước châu Âu và châu Á, các chính phủ đã đưa ra hoặc tăng cường các chương trình BLTD để thúc đẩy cho vay đối với DNNVV. Các chính sách này đã hỗ trợ hiệu quả cho các DNNVV trong việc có nguồn vốn để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng.

2. Kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc về phát triển hoạt động BLTD nhằm hỗ trợ các DNNVV

 
Tại Nhật Bản

Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu trong việc giải quyết khó khăn về vốn cho DNNVV. Mặc dù là nước có nền kinh tế hàng đầu thế giới, với hàng nghìn tập đoàn kinh tế, công ty đa quốc gia hoạt động, nhưng có đến 99% trong tổng số doanh nghiệp của Nhật Bản đang hoạt động là DNNVV. Các DNNVV ở Nhật Bản phần lớn thuộc các ngành nghề truyền thống, nhưng luôn có sự kết hợp giữa truyền thống với kĩ thuật, công nghệ hiện đại. Các DNNVV ở Nhật Bản đóng vai trò là xương sống của nền kinh tế, tạo việc làm cho khoảng 70% tổng số lao động, góp phần ổn định xã hội.

Mô hình tổ chức hoạt động

Tại Nhật Bản, hệ thống BLTD được tổ chức chặt chẽ trong một mô hình chung cho toàn thể các tổ chức tài chính có liên quan. Mô hình này được gọi là “Credit Supplementation System - hệ thống hỗ trợ tín dụng”. Hệ thống này bao gồm: BLTD và bảo hiểm tín dụng.
 
Hình 2: Hệ thống hỗ trợ tín dụng của Nhật Bản

 
Trong hệ thống trên thì:

(i) BLTD thực hiện hoạt động của hệ thống các tổ chức bảo lãnh cho các DNNVV vay vốn tại các TCTD, đồng thời hỗ trợ tài chính, kĩ thuật cho các tổ chức này. Hệ thống hỗ trợ tín dụng ở Nhật Bản bao gồm một hệ thống BLTD được vận hành bởi 51 công ty được thành lập trên khắp Nhật Bản. Hệ thống BLTD và hệ thống bảo hiểm tín dụng hoạt động cùng nhau để cho phép hệ thống bổ sung tín dụng ở Nhật Bản hoàn thành nhiệm vụ quan trọng là tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp vốn kinh doanh cho các DNNVV.

(ii) Bảo hiểm tín dụng thuộc trách nhiệm của Tập đoàn Tài chính Nhật Bản (JFC). JFC là một tổ chức tài chính thuộc sở hữu của Chính phủ và là đơn vị thực hiện bảo hiểm các khoản bảo lãnh của các tập đoàn BLTD cung cấp cho các doanh nghiệp. Vai trò chính của JFC là: (i) Cung cấp một mạng lưới an toàn để ứng phó với rủi ro từ các tình huống bất ngờ như thiên tai; (ii) Hỗ trợ khởi nghiệp; (iii) Tạo điều kiện phục hồi và mở rộng hoạt động kinh doanh ra nước ngoài. JFC cũng mở rộng các khoản vay trực tiếp cho các doanh nghiệp. Kể từ năm 1951, Chính phủ Nhật Bản đã đảm bảo cho các khoản bảo lãnh do các đơn vị BLTD cấp tỉnh phát hành.

Điều kiện BLTD

Các doanh nghiệp được BLTD khi được xác định là có quy mô vừa và nhỏ. Tại Nhật Bản, việc phân loại doanh nghiệp dựa trên hai tiêu chí chính là vốn điều lệ và số lượng nhân viên, việc phân chia còn phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đối tượng được BLTD tại Nhật Bản được mở rộng cho hầu hết các DNNVV. Thực tế theo tiêu chí đưa ra chỉ cần doanh nghiệp thỏa mãn các điều kiện về DNNVV là có thể được bảo lãnh. Điều này tăng khả năng hỗ trợ cho các doanh nghiệp nước này tiếp cận các nguồn vốn vay. Đây là cách tiếp cận rất mở rộng, công bằng cho doanh nghiệp. Việc các doanh nghiệp có chỉ tiêu tài chính khác nhau sẽ quyết định đến chi phí bảo lãnh mà họ và trả cho các tổ chức bảo lãnh.
 
Phí BLTD

Tỉ lệ phí bảo lãnh được xác định theo tỉ lệ phần trăm của giá trị khoản vay và được xác định bằng việc xem xét hệ thống cơ sở dữ liệu bảo lãnh rủi ro cho các DNNVV. Tỉ lệ phí bảo lãnh cao hay thấp phụ thuộc vào mức độ rủi ro tín dụng của các doanh nghiệp trong đánh giá của tổ chức BLTD. Theo đó, mức phí bảo lãnh sẽ dao động trong khoảng từ 0,45 - 1,9% với 09 mức độ khác nhau của loại bảo lãnh thông thường. Bên cạnh đó, bảo lãnh đặc biệt với mức dao động trong khoảng 0,39 - 1,62%. Bảo lãnh đặc biệt có nghĩa là quay vòng bảo lãnh về chiết khấu hóa đơn và các chứng thư khác, thấu chi bảo lãnh xoay vòng và các khoản vay thẻ của các hoạt động kinh doanh. Tỉ lệ chi phí được áp dụng cho hệ thống BLTD sử dụng loại bảo hiểm đặc biệt được xác định một cách riêng biệt hoặc theo tỉ lệ chi phí giống nhau được áp dụng trên toàn quốc.

Các khoản phí bảo lãnh được thanh toán hằng năm hoặc theo hợp đồng kí kết giữa DNNVV và tổ chức bảo lãnh. Trong trường hợp DNNVV không thanh toán được tiền vay từ TCTD và tổ chức BLTD phải thế quyền thanh toán thay thì DNNVV thay vì chỉ thanh toán phí bảo lãnh, còn phải thanh toán khoản lãi vay (trên số tiền mà tổ chức bảo lãnh đã trả cho TCTD) với mức lãi suất dao động trong khoảng 14 - 15%/năm.

Về bảo hiểm tín dụng

Để tạo hành lang pháp lí cho hoạt động bảo hiểm, Nhật Bản đã ban hành Luật Bảo hiểm tín dụng DNNVV (bên cạnh Luật BLTD và Luật Hỗ trợ DNNVV). Các cơ chế, quy trình bảo hiểm tín dụng được nêu cụ thể trong nội dung Luật Bảo hiểm tín dụng DNNVV. Sau khi kí hợp đồng BLTD với các DNNVV, TCTD, các quỹ BLTD có thể kí hợp đồng bảo hiểm (cho khoản đã bảo lãnh đối với các DNNVV). Trong trường hợp người được bảo lãnh không thanh toán được các khoản vay tại các TCTD, các TCTD sẽ thông báo đến quỹ BLTD, và quỹ BLTD sẽ thay thế quyền các doanh nghiệp thanh toán các khoản vay cho các TCTD. Giá trị các khoản thanh toán này sau đó sẽ được chi trả bảo hiểm với tỉ lệ 70 - 90% giá trị của khoản vay. Quỹ BLTD sau đó sẽ thu hồi các khoản tiền vay từ phía các doanh nghiệp, đồng thời phải có trách nhiệm chi trả cho JFC một khoản (bằng khoản nhận được từ doanh nghiệp nhân với phần trăm số dư tiền bảo hiểm được nhận sau khi thu hồi khoản vay).

Đánh giá tác động của hoạt động BLTD

Tính đến năm 2018, trong số khoảng 250 nghìn tỉ Yên dư nợ cho vay đối với các DNNVV, những khoản được bảo lãnh chiếm hơn 10%, tương đương 26 nghìn tỉ Yên. Trong đó, đáng chú ý nhất là Nhật Bản đã triển khai Chương trình bảo lãnh khẩn cấp để hỗ trợ hữu hiệu và kịp thời cho tiếp cận nguồn vốn của DNNVV. Chính sách này đặc biệt thành công trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2011 khi tình hình kinh tế - xã hội Nhật Bản bị ảnh hưởng mạnh bởi suy thoái kinh tế toàn cầu. Mức trần BLTD cho các doanh nghiệp nhỏ là 200 triệu Yên với chương trình bảo lãnh chung; trong đó, 80 triệu Yên với chương trình bảo lãnh không thế chấp. Theo thống kê, tổng giá trị BLTD trong năm tài chính 2019 đạt khoảng 9,2 nghìn tỉ Yên (tương đương 88 tỉ USD), tăng 6,8% so với năm trước đó.

Tại Hàn Quốc

Số lượng DNNVV của Hàn Quốc chiếm đến 99% tổng số doanh nghiệp (hơn 3,5 triệu doanh nghiệp), 88% tổng số lao động, 1/3 tổng sản lượng xuất khẩu của toàn nền kinh tế nước này. Tuy nhiên, cũng như tại các quốc gia khác, DNNVV tại Hàn Quốc lại thường khó tiếp cận được nhiều nguồn vốn, nhất là nguồn vốn trung hạn và dài hạn phục vụ sản xuất, kinh doanh.

Hệ thống BLTD Hàn Quốc bao gồm hệ thống BLTD trực thuộc Ngân hàng Trung ương và các cơ cấu tài chính khác thuộc Chính phủ. Cho đến hiện nay, hệ thống BLTD cho DNNVV được phân theo 3 kênh chính gồm: (i) Quỹ BLTD Hàn Quốc (Korea Credit Guarantee Fund – KCGF, nay là KODIT): Hoạt động theo Luật Quỹ BLTD năm 19741; (ii) Quỹ BLTD công nghệ Hàn Quốc (KOTCH); (iii) Quỹ BLTD địa phương: do các chính quyền địa phương thành lập và hoạt động theo nghị quyết riêng của mình2. Hệ thống bảo lãnh được tổ chức và quản lí rất chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Chẳng hạn, Quỹ BLTD Hàn Quốc và Quỹ BLTD công nghệ do Ủy ban Tài chính quốc gia giám sát hoạt động, còn quỹ BLTD địa phương do ban quản lí khối DNNVV quản lí.

Điều kiện bảo lãnh

Tất cả các thực thể kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận hoặc tổ chức của họ đều đủ điều kiện nhận BLTD trừ khi họ thuộc các ngành không đủ điều kiện bao gồm: (a) Kinh doanh khách sạn, chung cư, giải trí; (b) Kinh doanh nhà hàng sang trọng; (c) Dịch vụ tài chính; (d) Dịch vụ môi giới bất động sản. Các công ty không đủ điều kiện bao gồm: (a) Công ty không hoạt động; (b) Công ty quá hạn thanh toán các khoản vay ngân hàng; (c) Công ty nộp tài liệu giả; (d) Công ty được điều hành bởi người chịu trách nhiệm thanh toán theo bảo lãnh... 

Cơ cấu phí bảo lãnh 

Trước thời điểm năm 1998, KODIT vẫn áp dụng tỉ lệ phí bảo lãnh cố định cho khách hàng vay. Theo đó, đối với DNNVV là 1,0% và đối với các doanh nghiệp lớn là 1,5%. Tuy nhiên, sau thời điểm đó, KODIT đã xây dựng một hệ thống phí bảo lãnh gắn liền với xếp hạng tín dụng của người nộp đơn. Tỉ lệ phí cơ bản dao động từ 0,5% đến 3,0% của số tiền bảo lãnh được tính theo xếp hạng tương ứng của người nộp đơn. Mức phí cuối cùng được quyết định bằng cách cộng hoặc trừ một tỉ lệ nhất định vào phí cơ bản, tùy thuộc vào tình hình hiện tại của người nộp đơn hoặc loại sản phẩm bảo lãnh. Đối với một công ty lớn, thêm 0,5% được cộng vào mức phí cuối cùng.

Tỉ lệ bảo lãnh 

KODIT tính trọng số theo xếp hạng tín dụng của công ty và chu kì bảo lãnh, thời gian nhận bảo lãnh. Tuy nhiên, KODIT cũng quy định mức bảo lãnh tối đa cho các khoản bảo lãnh. Thông thường tỉ lệ bảo lãnh dao động trong khoảng từ 50 - 80%. Mức bảo lãnh tối đa có thể được tính theo doanh thu hoặc theo vốn chủ sở hữu. Theo đó, mức bảo lãnh tối đa trong khoảng từ 1/6 - 1/2 doanh thu hằng năm. Trong khi, theo vốn chủ sở hữu thì mức bảo lãnh trong khoảng 3 lần vốn cổ phần. Thực tế, mức bảo lãnh tối đa khoảng 2,7 triệu USD (trường hợp bảo lãnh đặc biệt có thể lên tới 6,3 triệu USD). Mức bảo lãnh trung bình đạt 180 nghìn USD.

Đánh giá tác động đến kinh tế

Theo thống kê, nhờ có BLTD của KODIT mà số DNNVV được vay vốn tăng lên đáng kể, từ 35,7% năm 1975 đã tăng lên 76,7% vào năm 2015. Tính đến năm 2016, KODIT đã bảo lãnh cho hơn 205 nghìn doanh nghiệp, số tiền bảo lãnh lên đến 42 tỉ USD. Mức trần bảo lãnh của KODIT là 2,6 triệu USD, một số trường hợp đặc biệt có thể được nâng mức trần lên đến 6 triệu USD. Tỉ lệ doanh nghiệp do KODIT bảo lãnh là 70 - 85% so với số hồ sơ nộp đơn xin bảo lãnh; trong đó, riêng nhóm doanh nghiệp khởi nghiệp thì tỉ lệ được bảo lãnh lên đến 100%.

Trong giai đoạn 2017 - 2021, hoạt động BLTD tại Hàn Quốc tiếp tục tăng trưởng mạnh. Đến cuối năm 2021, giá trị bảo lãnh lũy kế đạt hơn 66 tỉ USD, tăng gấp hơn 1,5 lần so với năm 2017.

 
 
Nguồn: KODIT, 2022

Hoạt động BLTD đã tiếp cận được một lượng lớn đối tượng là các DNNVV với 1/3 trong tổng số 3,6 triệu DNNVV tại Hàn Quốc được bảo lãnh khi vay vốn tại các TCTD, giá trị của các khoản vay bảo lãnh chiếm 15% tổng giá trị các khoản vay của các doanh nghiệp này. Thông qua BLTD, các DNNVV cũng được vay với lãi suất thấp hơn 4% cho các khoản vay tại các TCTD (năm 2019).

Theo đánh giá của KODIT (2022), các hoạt động này đã góp phần tích cực vào việc tạo việc làm với việc cho giá trị bảo lãnh đạt 1 triệu USD sẽ tạo ra được 4,5 việc làm mới (năm 2019), nâng cao kết quả hoạt động/thực hiện hợp đồng của các công ty được bảo lãnh; đồng thời, tăng nguồn thu từ thuế cho Chính phủ với việc 1 triệu USD được bảo lãnh sẽ làm tăng mức thuế thu được lên 0,5 triệu USD (2019). Đặc biệt, BLTD là công cụ hữu hiệu để tạo tính thanh khoản cho các DNNVV trong khủng hoảng kinh tế (giai đoạn 2008 - 2009 và 2020 - 2021).

Trong các giai đoạn tăng trưởng kinh tế sụt giảm, sự gia tăng của hoạt động BLTD đã góp phần hỗ trợ cho sự phục hồi của các DNNVV tại nước này, tiếp đó là sự phục hồi tăng trưởng kinh tế ngay sau đó.

Bài học rút ra cho Việt Nam

Thứ nhất, các quy định pháp lí chặt chẽ, đầy đủ

Tại Nhật Bản, Hàn Quốc, hoạt động BLTD được ra đời vào hoạt động dựa trên cơ sở pháp lí cao nhất là luật. Điều này đảm bảo tính thống nhất, tính tuân thủ của các đối tượng tham gia. Hoạt động BLTD có quy chuẩn, khung pháp lí riêng đảm bảo hoạt động hiệu quả, hướng tới mục tiêu quan trọng nhất là hỗ trợ các DNNVV tiếp cận vốn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các quy định hướng tới sự ổn định, tạo niềm tin cho các DNNVV, đặc biệt tránh các quy định theo hướng bất lợi cho doanh nghiệp như quy định cho phép hủy ngang bảo lãnh từ phía các tổ chức BLTD để bảo đảm cung ứng vốn cho DNNVV hoạt động hiệu quả, thông suốt.

Thứ hai, vai trò quan trọng của nhà nước với tư cách là người cung cấp, hỗ trợ tài chính và các dịch vụ khác. Hoạt động BLTD của các quỹ dành cho DNNVV thường mang tính rủi ro, nhưng là cần thiết. Mục tiêu tối thượng của hoạt động BLTD là hỗ trợ các DNNVV tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng, do vậy cần có nguồn lực tài chính đầy đủ và cơ chế huy động nguồn lực hiệu quả, đặc biệt là sự hỗ trợ của Chính phủ.

Kinh nghiệm tại Nhật Bản, Hàn Quốc cho thấy, nguồn lực tài chính cho các tổ chức BLTD được cung cấp trực tiếp từ Chính phủ, chính quyền địa phương (tại Hàn Quốc, Nhật Bản) hay các nguồn vốn gián tiếp từ các hiệp hội BLTD (tại các địa phương ở Nhật Bản), các công ty bảo hiểm (JFC). Tại Hàn Quốc, nguồn vốn cho hoạt động của các KODIT được quy định cụ thể trong luật từ ba nguồn: Ngân sách nhà nước, đóng góp của các TCTD và từ các tổ chức, cá nhân khác.

Thứ ba, việc bảo toàn và phát triển vốn cho các tổ chức BLTD không được đặt ra như một yêu cầu và mục tiêu quan trọng. Qua nghiên cứu kinh nghiệm các nước có thể thấy rằng, hoạt động BLTD phải tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu về đối tượng được BLTD, quy trình cũng như các yêu cầu khác về tỉ lệ bảo lãnh, chi phí bảo lãnh… Tuy nhiên, các nước không đặt ra yêu cầu về bảo toàn và phát triển vốn trong hoạt động của các tổ chức này.

Thực tế, hoạt động BLTD được bảo hiểm với tỉ lệ cao (70 - 80%) từ tổ chức bảo hiểm do Chính phủ thành lập, quản lí và cung cấp vốn (Nhật Bản) hay sự hỗ trợ trực tiếp của Chính phủ, các chính quyền địa phương… Các nước coi hoạt động này với mục tiêu phi lợi nhuận nên việc đánh giá hoạt động của các tổ chức BLTD được thể hiện thông qua khả năng cho bảo lãnh (số lượng các doanh nghiệp được bảo lãnh, giá trị bảo lãnh, tác động đến hiệu quả kinh tế - xã hội…).

Thứ tư, linh hoạt trong việc quy định mức phí. Việc xác định mức phí sẽ phụ thuộc vào sự đánh giá về chất lượng tín dụng của DNNVV cũng như một số yếu tố khác về giá trị bảo lãnh, thời gian bảo lãnh hay thậm chí là phụ thuộc vào quyết định của nhà quản lí tổ chức BLTD. Việc linh hoạt trong việc quy định phí bảo lãnh, phí bảo hiểm có nhiều tác dụng. Với các tổ chức bảo lãnh, việc này nhằm tạo sự chủ động và cơ hội cho các tổ chức BLTD nâng cao tính chủ động trong hoạt động của mình, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến đánh giá, xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp.

Thứ năm, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin phục vụ cho hoạt động đánh giá tín dụng. Đây là việc làm cần thiết, bởi khi việc đánh giá tín dụng được các DNNVV được xem là cơ sở để đưa ra mức phí của hoạt động bảo lãnh. Trong giai đoạn đầu, việc xây dựng hệ thống dữ liệu có thể được thực hiện bởi chính tổ chức bảo lãnh, tuy nhiên với sự mở rộng của quy mô, việc này dần có thể được thay thế bởi các tổ chức trung gian.

 
Hiện nay đã có 7 lần sửa đổi bổ sung, lần sửa đổi cuối cùng gần đây nhất là ngày 13/01/1998
Hiện nay chưa có luật điều chỉnh chung cho các quỹ BLTD địa phương. Hiện Hàn Quốc có 10 quỹ BLTD cho các DNNVV địa phương thuộc các vùng lớn trong toàn quốc như Thủ đô Seoul, thành phố Pusal…
 
Tài liệu tham khảo:

1. Đặng Thái Bình (2020), Vai trò của hệ thống BLTD đối với sự phát triển của DNNVV,  Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam,  số 1 năm 2020, trang 21-27.
2. Lại Thị Thanh Loan (2022), Giải pháp tăng hiệu quả bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, Tạp chí điện tử Ngân hàng, tháng 6/2022.
3. Ngô Thị Phương Lan (2018), Hoàn thiện khuôn khổ pháp lí về tổ chức và hoạt động của quỹ BLTD DNNVV, Đề tài cấp bộ, Bộ Tài chính, năm 2017.
4. Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ BLTD hỗ trợ DNNVV.
5. Naoyuki Y. and Farhad T.H (2016), Optimal Credit Guarantee Ratio for Asia, https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=2838074.
6. Yamori (2015), Japanese SMEs and the credit guarantee system after the global financial crisis, https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/23322039.2014.1002600.
7. Yoshino, N., and F. Taghizadeh-Hesary (2016), Optimal Credit Guarantee Ratio for Asia, In SMEs in Developing Asia New Approaches to Overcoming Market Failures, edited by P. Vandenberg, P. Chantapacdepong, and N. Yoshino. Tokyo: Asian Development Bank Institute.
8. Yoshino, N. and F. Taghizadeh-Hesary (2018), The Role of SMEs in Asia and Their Difficulties in Accessing Finance. ADBI Working Paper 911. Tokyo: Asian Development Bank Institute.
 
ThS. Phạm Xuân Hòe (Nguyên Phó Viện trưởng, Viện Chiến lược Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
ThS. Phạm Tiến Đạt (Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính)


Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Tăng cường thực hiện trách nhiệm xã hội tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tăng cường thực hiện trách nhiệm xã hội tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
01/05/2024 174 lượt xem
Một mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng là tìm kiếm lợi ích cho cổ đông. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, ngân hàng thương mại (NHTM) cũng là một nhân tố hình thành các hoạt động xã hội với những cá nhân và tổ chức liên quan, tạo nên mối liên kết với các chủ thể trong nền kinh tế.
Nâng cao hiệu quả quản lý gian lận số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nâng cao hiệu quả quản lý gian lận số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
24/04/2024 485 lượt xem
Thời gian qua, quá trình số hóa diễn ra liên tục và mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và đã mang lại những lợi ích đáng kể cho sự ổn định của khu vực tài chính nói riêng, sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Nhờ quá trình này mà các tổ chức tài chính có khả năng cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính, ngân hàng với chi phí thấp hơn, giúp nâng cao trải nghiệm và khả năng tiếp cận sản phẩm, dịch vụ của khách hàng, tăng cường minh bạch trong giao dịch tài chính và phản ứng nhanh chóng với các cuộc khủng hoảng.
Chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức, doanh nghiệp - định hướng  phát triển trong thời đại 4.0
Chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức, doanh nghiệp - định hướng phát triển trong thời đại 4.0
23/04/2024 439 lượt xem
Dữ liệu đóng vai trò thiết yếu trong hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp. Việc chia sẻ dữ liệu mở ra những cơ hội mới, tạo thêm nhiều giá trị, đồng thời góp phần bồi đắp kho dữ liệu hiện có, khai phá tiềm năng tối ưu hóa và đổi mới mô hình kinh doanh.
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đám bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đám bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
19/04/2024 0 lượt xem
Do nhu cầu tài chính phục vụ cho quá trình chuyển đổi của các doanh nghiệp ngày càng cao nên thị trường tín dụng liên kết bền vững toàn cầu tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Việt Nam cần nhanh chóng thúc đẩy và mở rộng hoạt động cho vay nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp ở đa dạng ngành, nghề thực hiện chiến lược phát triển bền vững.
Thực hiện tăng trưởng xanh - Tiền đề cho phát triển bền vững của Việt Nam
Thực hiện tăng trưởng xanh - Tiền đề cho phát triển bền vững của Việt Nam
12/04/2024 1.251 lượt xem
Phát triển bền vững đang là mục tiêu quan trọng của Việt Nam trong những năm qua và trong tương lai, theo đó tăng trưởng xanh với sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường chính là tiền đề để thực hiện mục tiêu này.
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
10/04/2024 1.264 lượt xem
Bài viết đề xuất một số khuyến nghị về xây dựng, thực thi chính sách tín dụng liên kết bền vững để góp phần đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và chiến lược phát triển bền vững tại Việt Nam...
Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
05/04/2024 1.466 lượt xem
Nghiên cứu trình bày về tầm quan trọng của ESG (Environmental - môi trường, Social - xã hội, Governance - quản trị) trong quá trình phát triển bền vững của ngân hàng, thực tiễn triển khai các hoạt động về ESG, các kết quả đạt được và thách thức, từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy triển khai ESG trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.
Tác động của minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Tác động của minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
03/04/2024 1.324 lượt xem
Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu tác động của tính minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate social responsibility - CSR) đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng.
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
02/04/2024 1.227 lượt xem
Bài viết dựa trên cơ sở tổng quan về giám sát tài chính, tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới để rút ra một số bài học và khuyến nghị đối với công tác giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước tại Việt Nam hiện nay.
Kinh nghiệm thực thi chính sách tài chính khí hậu trên thế giới và một số khuyến nghị cho Việt Nam
Kinh nghiệm thực thi chính sách tài chính khí hậu trên thế giới và một số khuyến nghị cho Việt Nam
01/04/2024 1.233 lượt xem
Một trong những vấn đề khó khăn nhất hiện nay đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, đó là việc thiếu nguồn lực tài chính để ứng phó với biến đổi khí hậu, hay còn gọi là tài chính khí hậu...
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/03/2024 1.326 lượt xem
Để nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ NHNN phù hợp thông lệ quốc tế và các quy định về kiểm toán nội bộ của Việt Nam, một trong những yêu cầu hiện nay là nghiên cứu, rà soát, ban hành Sổ tay Kiểm toán nội bộ NHNN nhằm tập hợp, hệ thống hóa các quy định chung về kiểm toán nội bộ của NHNN.
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
25/03/2024 1.724 lượt xem
Trong kỉ nguyên số, Chatbot đóng vai trò vô cùng quan trọng và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, trong đó có lĩnh vực ngân hàng.
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
22/03/2024 2.494 lượt xem
Trong thị trường kinh tế, giao dịch phái sinh là một dạng hợp đồng dựa trên giá trị các loại tài sản cơ sở khác nhau như hàng hóa, chỉ số, lãi suất hay cổ phiếu (giấy tờ có giá).
Văn hóa số và lộ trình xây dựng
Văn hóa số và lộ trình xây dựng
11/03/2024 2.697 lượt xem
Hiện nay, quyết liệt chuyển đổi số, tạo dựng hệ sinh thái ngân hàng mở, tạo ra nền tảng phát triển bán lẻ, tăng doanh thu dịch vụ, gia tăng trải nghiệm của khách hàng là xu hướng chủ đạo của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Nhìn từ bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay
Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Nhìn từ bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay
07/03/2024 3.953 lượt xem
Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ quốc gia có thu nhập thấp sang quốc gia có thu nhập trung bình. Song, những khó khăn nội tại và thách thức bên ngoài của nền kinh tế làm cho nguy cơ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình là có thể.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?