Mối quan hệ giữa đầu tư công với tăng trưởng kinh tế và lạm phát: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
10/03/2020 11.835 lượt xem
Đặt vấn đề: Đã có nhiều nghiên cứu từ lý thuyết cho đến thực tiễn chỉ ra rằng, đầu tư công có sự ảnh hưởng rất lớn tới tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn theo Munnell và Cook (1990), Aschauer (1989), Kamps (2005) đầu tư công có tác động thuận chiều đối với tăng trưởng kinh tế. Trong khi một số nghiên cứu khác lại cho thấy đầu tư công có tác động ngược chiều đối với tăng trưởng như nghiên cứu của Devarajan và cộng sự (1996), Ghali và Khalifa (1998).
 


Đầu tư công rất cần thiết trong việc tạo động lực cho nền kinh tế
 
Vốn đầu tư công là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng sự thay đổi của vốn đầu tư đồng nghĩa với việc làm tăng/giảm cung tiền, do đó sẽ ảnh hưởng đến lạm phát. Sự ảnh hưởng của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế hay lạm phát có sự khác nhau trong ngắn hạn hay dài hạn, là do chiến lược phân bổ vốn đầu tư công và cách thức quản lý đầu tư của mỗi  quốc gia. 
 
Các nước như Singapore và Australia thuộc nhóm các nước kinh tế phát triển (OECD) tại khu vực Châu Á, Thái Bình Dương, là một trong những quốc gia có vốn đầu tư công rất lớn, nhưng khá nổi tiếng về sự minh bạch và quản lý nguồn vốn có hiệu quả cao. Do đó, bài viết được thực hiện nhằm nghiên cứu, tìm hiểu về những bài học kinh nghiệm trong sử dụng vốn đầu tư công từ các nước nêu trên; những thành tựu đem lại cho tăng trưởng kinh tế của các quốc gia từ việc phân bổ vốn đầu tư công; và ảnh hưởng của nó đến tỷ lệ lạm phát trong nước. Từ đó đúc kết được bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, cần học hỏi những gì từ bài học kinh nghiệm của các quốc gia này trong cách thức quản lý và sử dụng vốn đầu tư công để áp dụng vào việc tái cấu trúc vốn đầu tư công trong nước nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và đạt được mục tiêu tăng trưởng trong thời kỳ mới. 
 
1. Kinh nghiệm  về mối quan hệ giữa đầu tư công với tăng trưởng kinh tế và lạm phát 
1.1. Kinh nghiệm tại Singapore
 
Singapore là nước có nền kinh tế thị trường tự do phát triển cao, phần lớn nhờ môi trường kinh doanh cởi mở và ít tham nhũng, chính sách tài chính và tiền tệ thận trọng và khung pháp lý minh bạch. Năm 2017, GDP của Singapore đạt 428.640 triệu SGD. Xét cả giai đoạn 2010 - 2017, GDP của Singapore tăng trưởng ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 2,89%/năm (Department of statistics Singapore). Chính phủ Singapore đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua chính sách công nghiệp tích cực nhằm mục tiêu: khuyến khích tài khóa, tăng đầu tư công, Singapore đã phát triển các thành phần năng lực cạnh tranh để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài và tập trung vào đa dạng hóa nền kinh tế. 
 
Giai đoạn 2006 - 2017, chỉ số giá trong nước có xu hướng tăng dần qua các năm nhưng, tỷ lệ lạm phát của Singapore thấp luôn ổn định với tỷ lệ lạm phát bình quân khoảng 2,2%, tác động tốt đến nền kinh tế. Đây là do sự quản lý hiệu quả của Chính phủ Singapore.
 
Do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, chi phí sản xuất đầu vào tăng cao do Singapore phụ thuộc nhập khẩu. Đồng thời, chi phí đi lại và nhà ở cũng tăng cao dẫn đến chỉ số giá tiêu dùng năm 2008 tăng vọt hơn 4 điểm so với năm 2007, tương đương mức lạm phát 6,63%. Tuy nhiên, giai đoạn từ 2012-2017, giá cả đi vào ổn định, giảm phát bắt đầu xảy ra vào năm 2015 (- 0,52%) và 2016 (- 0,53%).
 
Chi phí đầu tư công của Singapore tăng dần qua các năm. Năm 2006 chi phí đầu tư công của Singapore chỉ 23.924,6 triệu SGD, con số vượt gấp đôi sau 10 năm và đạt 55.313,9 triệu SGD (năm 2017). Trung bình tăng khoảng 2 triệu SGD/năm giai đoạn 2007 - 2011, sau đó tăng mạnh 3 - 5 triệu SGD/năm giai đoạn 2014 - 2016. Đầu tư công tại Singapore tăng trưởng mạnh, bình quân đạt 7,9%/năm.
 
Chi đầu tư công của Singapore bao gồm 4 lĩnh vực chính: phát triển xã hội, anh ninh và đối ngoại, phát triển kinh tế và quản lý công. Trong đó, tập trung chủ yếu hơn 90% đầu tư công chi cho phát triển xã hội và an ninh đối ngoại. Cụ thể, chi cho phát triển xã hội chiếm bình quân 47,7%; an ninh và đối ngoại 43,1%; phát triển kinh tế 5,5% và quản lý công 3,8% (Bảng 1). 
 

 
Cụ thể các khoản chi đầu tư công phân theo ngành nghề được Chính phủ Singapore tập trung nhiều nhất đó là giáo dục chiếm khoảng 25,4%, an ninh quốc phòng 22,65%, sức khỏe 15,73%, còn lại là các khoản chi khác. (Hình 1.1)
 

 
Quốc phòng của Singapore luôn luôn được ưu tiên đầu tư từ ngân sách. Tỷ trọng đầu tư luôn chiếm trung bình 22-23% tổng đầu tư công. Điều này đã giúp cho Singapore trở thành nước đứng đầu Đông Nam Á về công nghiệp quốc phòng, đủ khả năng tự chủ phần lớn các trang thiết bị đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu. Các công ty tư nhân cũng tham gia sâu vào ngành này và được nhà nước hỗ trợ. Đó là động lực giúp tăng năng lực cạnh tranh, và thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất trong nước. 
 
Giáo dục và y tế của Singapore cũng đứng đầu Đông Nam Á, là mục tiêu trọng điểm của Chính phủ Singapore để phát triển nguồn nhân lực và đảm bảo an sinh xã hội. Nền giáo dục của Singapore được đầu tư nhiều và có định hướng của nhà nước tập trung đào tạo các ngành mới như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin viễn thông. Đồng thời, đây cũng là ngành dịch vụ có lợi thế của Singapore, giúp thu hút ngoại tệ khi cung cấp dịch vụ đào tạo chất lượng cao cho khu vực. Lĩnh vực y tế của Singapore cũng là thế mạnh, là nơi tập trung dịch vụ y tế chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của khu vực Đông Nam Á nói chung và một số thị trường ở các châu lục khác. 
 
Mối quan hệ giữa đầu tư công với tăng trưởng kinh tế tại Singapore
 
Chi tiêu chính phủ và tăng trưởng kinh tế thực sự có mối quan hệ lâu dài ở các nước châu Á đặc biệt là Singapore, phù hợp với lý thuyết của Keynes và luật Wagner. Do đó, Singapore đã tăng cường sự tham gia của chính phủ để tăng cường tăng trưởng kinh tế. 
 
Theo Mukul g. Asher, Azad Singh Bali, Chang Yee Kwan (2015), khả năng của Singapore duy trì tính nhất quán giữa chiến lược tăng trưởng của quốc gia thông qua việc sử dụng các biện pháp rất linh hoạt và thực tiễn quản lý tài chính công (PFM) là một thành tựu quan trọng, đã đem lại hiệu quả cao trong nhiều thập kỷ qua. 
 
Singapore tập trung vào chiến lược tăng trưởng kinh tế dựa trên điểm đến, nhấn mạnh đến tích lũy vốn, thu hút các công ty nước ngoài, và lao động nước ngoài có trình độ kỹ thuật cao. Nhưng do tỷ lệ sinh giảm và tuổi thọ ngày càng tăng, chiến lược tăng trưởng này đòi hỏi một lượng lớn lao động nước ngoài, do đó tiền lương trong nước bị siết chặt (Hui, 2013). Năm 2014, công dân Singapore chiếm 61,1% tổng dân số, với người thường trú là 9,6% và lao động nước ngoài chiếm 29,3% (Cục Thống kê, 2015b). Dòng nhân lực nước ngoài có lợi cho Singapore về kinh tế và tài khóa, nhưng đã đặt ra những thách thức xã hội. Chính vì vậy, đầu tư công của Chính phủ đã phải ưu tiên chi nhiều nhất cho lĩnh vực phát triển xã hội. Những thách thức này sẽ trở nên gay gắt hơn, đòi hỏi phải tăng cường về quản lý chính trị khi tỷ lệ người nước ngoài trong dân số tăng (Yeoh và Lin, 2012). Chính phủ Singapore duy trì sự hiện diện đáng kể trong nền kinh tế bằng sự tham gia trực tiếp, kế hoạch do nhà nước lãnh đạo và sử dụng các chính sách can thiệp (Huff, 1995, 1999).
 
Singapore đã thực hiện tốt vai trò của nguồn vốn đầu tư công khi chi tiêu công được thực hiện phù hợp với chiến lược tăng trưởng của quốc gia. Chẳng hạn bằng cách cung cấp các tiện ích công cộng bổ sung như điện, nhà ở, nước, giao thông, v.v. mà các doanh nghiệp cần, và bằng cách tạo ra thặng dư tài chính. Những điều này giúp tạo niềm tin trong quản lý khu vực công đối với các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài là động lực chính của chiến lược tăng trưởng mà Singapore theo đuổi. Sau đó, doanh thu của khu vực công từ thuế và các nguồn khác tăng tương ứng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. 
 
Mối quan hệ giữa đầu tư công với lạm phát tại Singapore
 
Một trong những nguyên nhân chủ yếu tác động đến CPI Singapore là áp lực chi phí nội địa, chi phí lao động tăng cao do lực lượng lao động khan hiếm. Khi chi phí thuê nhân công tăng, doanh nghiệp có xu hướng chuyển phần chi phí tăng thêm vào giá sản phẩm và dịch vụ làm cho chi phí tăng. Kết quả là hàng loạt danh mục từ sức khỏe, giáo dục cũng như chỉ số giá trải qua đợt tăng giá và dẫn đến lạm phát. Để kìm hãm lạm phát, chính phủ Singapore đã chú trọng đầu tư giáo dục và sức khỏe nhằm nâng cao trình độ và sức khỏe nguồn lực lao động, điều này giúp tăng năng suất làm việc hiện có, doanh nghiệp sẵn sàng chi trả lương cao hơn cho người lao động nhưng chi phí trên sản phẩm dịch vụ lại không tăng cao và đồng nghĩa với việc không cần tăng chi phí trên mỗi sản phẩm (theo Government of Singapore, 2012)
 
1.2. Kinh nghiệm Australia
 
Theo Nordea Trade (2019), nền kinh tế Australia trải qua 26 năm tăng trưởng không bị gián đoạn và đây là quốc gia duy nhất của OECD không rơi vào suy thoái trong cuộc khủng hoảng tài chính. Australia giữ một trong những mức tăng trưởng cao nhất của các quốc gia phát triển và là nền kinh tế lớn thứ 13 thế giới. GDP của Australia năm 2017 đạt 1.694.483 triệu AUD với tốc độ tăng trưởng bình quân 3%/năm.
 
Điểm số tự do kinh tế của Australia là 80,9, khiến nền kinh tế của nước này đứng thứ 5 trong Chỉ số 2019. Điểm tổng thể của nó không thay đổi so với năm 2018, với điểm số cao hơn về tự do lao động, sự liêm chính của Chính phủ, sức khỏe tài khóa và tự do thương mại bù đắp cho hiệu quả tư pháp giảm mạnh. Australia được xếp hạng thứ 4 trong số 43 quốc gia trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương và điểm tổng thể của nó cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới (The Heritage Foundation, 2019).
 
Nền kinh tế Australia đang trải qua sự thay đổi cấu trúc khi sự bùng nổ đầu tư khai thác, đã đạt đỉnh vào năm 2012. Chính phủ đang hỗ trợ quá trình chuyển đổi này thông qua cắt giảm thuế doanh nghiệp, đàm phán các hiệp định thương mại tự do bổ sung và cải cách hơn nữa thị trường lao động. Nhìn chung, thị trường của Australia đã được hưởng lợi từ một hệ thống chính phủ hiệu quả tạo điều kiện cho sự phát triển kinh doanh sôi động. Khai thác và nông nghiệp là các ngành xuất khẩu quan trọng của Australia. Đến nay, có hơn 10 hiệp định thương mại tự do của Australia bao gồm các thỏa thuận với Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và ASEAN. Các cuộc đàm  phán về các thỏa thuận tương tự cũng đang diễn ra với Liên minh châu Âu và dự kiến sẽ bắt đầu với Vương quốc Anh sau khi Anh rời khỏi EU.
 
Trong giai đoạn 2006 - 2017 lạm phát của Australia ở mức thấp, trung bình khoảng 2,4%/ năm. Giai đoạn từ 2011- 2016 có xu hướng giảm và đạt thấp nhất vào năm 2016 ở mức 1,28%. Nguyên nhân chính là do trong giai đoạn này có sự sụt giảm của giá dầu thế giới. Chỉ số giá tiêu dùng tăng trung bình 2,6% tính theo giá 2010, mức tăng nhẹ ổn định không có đột biến về giá cả tiêu dùng.
 
Đầu tư công Australia năm 2017 đạt 450.594 triệu AUD với mức tăng trưởng trung bình 6,4%/năm. Tỷ lệ đầu tư công tăng mạnh từ giai đoạn 2007 đến 2009 đạt mức 15,9% tăng 44.291 triệu AUD năm 2009. Sau đó, tỷ lệ đầu tư công giảm mạnh xuống 1,24% năm 2013 và tăng dần đến năm 2017. Nhìn chung, tốc độ phát triển của đầu tư công tăng mạnh nhất vào giai đoạn 2007 - 2009. (Hình 1.2)

 
Giai đoạn 2006 - 2010, Australia không bị ảnh hưởng nhiều bởi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007 nên đầu tư công của Australia trong giai đoạn này vẫn cao và tăng dần qua các năm. 
 
Đầu tư công của Australia ưu tiên tập trung vào lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường bộ, đường sắt, nhà ở, hệ thống giáo dục); an ninh xã hội và phúc lợi xã hội, y tế sức khỏe, giáo dục, quốc phòng, dịch vụ kinh tế; hỗ trợ tài chính cho quỹ hưu trí, người lao động; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và các nhóm còn lại. 
 
Mối quan hệ giữa đầu tư công với tăng trưởng kinh tế tại Australia
 
Ở các nước tiên tiến như Australia, chi tiêu cho nông nghiệp, vận tải và truyền thông dường như có liên quan tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Xét toàn bộ giai đoạn 2006 - 2017 cho thấy, nền kinh tế của Australia liên tục không hề suy thoái, nhờ tiêu dùng tăng mạnh và chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng của Chính phủ nước này (theo Thời báo Kinh tế Việt Nam, 2018).
 
Mối quan hệ giữa đầu tư công với lạm phát tại Australia
 
Khi tăng trưởng kinh tế của quốc gia theo đà phát triển thì lạm phát luôn đi kèm theo. Ở Australia cũng vậy. Tuy nhiên, quốc gia này đã thực hiện những chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát, cụ thể:
 
 Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA) là cơ quan điều hành của Úc về chính sách tiền tệ và tài khóa. Mục đích chính của RBA là: giữ ổn định tỷ giá hối đoái; đảm bảo tăng trưởng và duy trì việc làm đầy đủ. 
 
Để làm điều này, các ngân hàng cho rằng tỷ lệ lạm phát hàng năm của quốc gia phải được giữ trong khoảng 2 - 3%. Bằng cách gắn chặt vào lạm phát, giá trị đồng nội tệ của họ được đảm bảo, mà cuối cùng sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh tế bền vững.
 
Ngân hàng Dự trữ Úc đã sử dụng 02 biện pháp để chắc chắn kiểm soát được lạm phát, đó là: (1) điều chỉnh lãi suất tiền mặt và (2) tiến hành các hoạt động thị trường mở.
 
Tỷ lệ tiền mặt là lãi suất tính bằng cách các ngân hàng cho vay qua đêm với các tổ chức tài chính khác.
 
Hoạt động thị trường mở, mặt khác, là cách RBA kiểm soát cung tiền thông qua việc mua bán các khoản vay của Chính phủ hoặc các tài sản tài chính khác. RBA họp hàng tháng để thảo luận về những thay đổi sẽ thực hiện trong chính sách tiền tệ, chỉ có ngoại lệ là tháng Giêng không họp.
 
2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
 
Hiện nay, hiệu quả đầu tư công của Việt Nam được đánh giá vẫn còn hạn chế như: hiệu quả sử dụng vốn đầu tư chưa cao; tái cơ cấu đầu tư công còn chậm; các dự án đầu tư công còn dàn trải,… Qua những phân tích về kinh nghiệm đầu tư công của các nước Singapore, Australia, Việt Nam có thể nghiên cứu kinh nghiệm của những nước này để đưa ra các biện pháp quản lý, tăng cường hiệu quả đầu tư công. Sau đây là một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:
 
Một là, cần phải đánh giá, phân tích cụ thể yếu kém hiệu quả đầu tư ở ngành nào, yếu kém ở lĩnh vực nào, qua đó điều chỉnh cơ cấu đầu tư bảo đảm những ngành có hiệu quả phải có hướng ưu tiên đầu tư phát triển lâu dài và ngược lại. 
 
Hai là, tạo cơ hội và thúc đẩy đầu tư tư nhân, hỗ trợ khu vực này trong quá trình kinh doanh và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. 
 
Ba là, đầu tư công là rất cần thiết trong việc tạo động lực cho nền kinh tế. Tuy nhiên, khi ở mức thu nhập tốt hơn, hoạt động đầu tư công cũng cần hướng nhiều hơn vào các ngành hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và vốn con người.
 
Bốn là, cần phải có một loạt các thể chế và chính sách để có thể quản lý đầu tư công một cách hiệu quả.
 
Năm là, cần cung cấp vốn cho các dự án theo thứ tự ưu tiên những dự án cấp thiết, trong đó ưu tiên đối với những lĩnh vực mà tư nhân không làm được.
 
Sáu là, tình trạng đầu tư công của Việt Nam còn dàn trải, chưa có trọng điểm, nặng về cơ chế xin - cho. Trong khi đó, nợ công và bội chi ngân sách của Việt Nam những năm gần đây khá cao, vì vậy cần phải lựa chọn tập trung, không đầu tư dàn trải. 
 
Bảy là, hiện nay, vốn đầu tư công của nước ta dành cho phát triển cơ sở hạ tầng cơ bản chiếm trên 50% tổng vốn đầu tư công, trong đó hạ tầng giao thông chiếm nguồn vốn rất lớn. Nhưng những năm gần đây các dự án đầu tư hạ tầng giao thông của Việt Nam đang có vấn đề như đội vốn lên quá cao so với đấu thầu đã phê duyệt, nguồn vốn chậm giải ngân, chất lượng công trình không đạt theo yêu cầu hoặc xuống cấp nhanh chóng, tham nhũng trong quản lý vốn đầu tư công. Vì vậy, đối với đầu tư công về cơ sở hạ tầng, dịch vụ thì Việt Nam có thể học hỏi trong vấn đề quản lý chi phí đầu tư và chất lượng công trình của Singapore như sau: (1) Huy động vốn đầu tư công trình, hạ tầng giao thông từ khu vực tư nhân, triển khai đầu tư dự án theo hình thức hợp tác công tư; (2) Cần bố trí kinh phí để duy tu, bảo dưỡng hạ tầng giao thông; (3) đấu thầu công khai minh bạch.

 
Tài liệu tham khảo:
 
- Department of statistics Singapore, 2018. Government Revenue and Expenditure. https://www.tablebuilder.singstat.gov.sg/publicfacing/createDataTable.action?refId=10304
- Government of Singapore, 2012. How is the government helping to mitigate inflation in Singapore? https://www.gov.sg/factually/content/how-is-the-government-helping-to-mitigate-inflation-in-singapore
- Nordea Trade, 2019. The economic context of Australia. https://www.nordeatrade.com/en/explore-new-market/australia/economical-context
- The Heritage Foundation, 2019. Australia. https://www.heritage.org/index/country/australia
- Thời báo Kinh tế Việt Nam, 2018. Kinh tế Australia 27 năm liền không suy thoái. http://vneconomy.vn/kinh-te-australia-27-nam-lien-khong-suy-thoai-20180905165242299.htm
- World Bank, 2018, https://data.worldbank.org/country 
- Yeoh, B and W Lin, 2012. Rapid Growth in Singapore’s Immigrant Population Brings Policy Challenges. Migration Information Source, 3 April 2012. http://www.migrationpolicy.org/article/rapid-growth-singapores-immigrant-population-bringspolicy-challenges.
- Huff, WG, 1995. What is the Singapore model of economic development? Cambridge Journal of Economics, 19(6), 735–759.
- Huff, WG, 1999. Singapore’s economic development: Four lessons and some doubts. Oxford Development Studies, 27(1), 33–55.


ThS. Nguyễn Thị Kim Chung

Nguồn: TCNH Số 8/2019
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Khủng hoảng ngân hàng và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Khủng hoảng ngân hàng và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
26/09/2023 193 lượt xem
Việc các cuộc khủng hoảng ngân hàng xảy ra liên tiếp gần đây trên thế giới đã dấy lên mối lo ngại về một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu như những gì từng xảy ra hơn một thập kỉ trước. Đứng trước nguy cơ những cuộc khủng hoảng có thể xảy ra do các bất ổn về chính trị và xã hội trên toàn cầu, Việt Nam cần chuẩn bị những gì để tránh khỏi khủng hoảng hệ thống ngân hàng hoặc để sẵn sàng ứng phó nếu khủng hoảng hệ thống ngân hàng xảy ra?
Kinh nghiệm quản lí rủi ro khí hậu trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trên thế giới
Kinh nghiệm quản lí rủi ro khí hậu trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trên thế giới
22/09/2023 416 lượt xem
Bài viết giới thiệu về loại rủi ro mới xuất hiện và ngày càng tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh ngân hàng, đó là rủi ro khí hậu.
Ứng dụng cơ sở sữ liệu dân cư trong đánh giá điểm khả tín khách hàng cá nhân tại các tổ chức tín dụng Việt Nam
Ứng dụng cơ sở sữ liệu dân cư trong đánh giá điểm khả tín khách hàng cá nhân tại các tổ chức tín dụng Việt Nam
20/09/2023 546 lượt xem
Ứng dụng cơ sở dữ liệu dân cư (CSDLDC) trong đánh giá điểm khả tín khách hàng, đặc biệt là khách hàng cá nhân được đánh giá là giải pháp mang lại nhiều lợi ích cho ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế. Bài viết sử dụng phương pháp phân tích văn bản, tổng quan tài liệu để đưa ra đánh giá về ứng dụng CSDLDC trong đánh giá điểm khả tín khách hàng cá nhân tại các tổ chức tín dụng (TCTD).
Các nhân tố ảnh hưởng tới sự trung thành với ngân hàng của khách hàng cá nhân gửi tiền tiết kiệm tại BIDV Chi nhánh tỉnh Trà Vinh
Các nhân tố ảnh hưởng tới sự trung thành với ngân hàng của khách hàng cá nhân gửi tiền tiết kiệm tại BIDV Chi nhánh tỉnh Trà Vinh
19/09/2023 628 lượt xem
Bài viết nhằm mục tiêu phát hiện mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến sự trung thành với ngân hàng của khách hàng cá nhân gửi tiền tiết kiệm. Thống kê ứng dụng và hồi quy đa biến là những phương pháp được sử dụng để phân tích mức độ ảnh hưởng của yếu tố, từ số liệu khảo sát cụ thể 290 khách hàng cá nhân gửi tiền tiết kiệm tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh tỉnh Trà Vinh (BIDV Trà Vinh).
Nỗ lực giải ngân đầu tư công năm 2023
Nỗ lực giải ngân đầu tư công năm 2023
15/09/2023 684 lượt xem
Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng hành của Quốc hội, sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng với nỗ lực, quyết tâm của các cấp, các ngành, giải ngân vốn đầu tư công năm 2023 đã có những chuyển biến tích cực.
Triển vọng thu hút FDI sau chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden
Triển vọng thu hút FDI sau chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden
14/09/2023 1.527 lượt xem
Theo Tổng cục Thống kê, tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đăng kí vào Việt Nam tính đến ngày 20/8/2023 bao gồm: Vốn đăng kí cấp mới, vốn đăng kí điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 18,15 tỉ USD, tăng 8,2% so với cùng kì năm trước.
Quản lí rủi ro toàn diện trong ngân hàng dựa trên kiến trúc dữ liệu lớn
Quản lí rủi ro toàn diện trong ngân hàng dựa trên kiến trúc dữ liệu lớn
14/09/2023 822 lượt xem
Trong bối cảnh hiện nay, rủi ro trong ngân hàng đến từ nhiều kênh và hệ thống khác nhau, vì thế các ngân hàng cần phải chuyển đổi từ mô hình quản lí rủi ro tín dụng đơn giản sang mô hình quản lí rủi ro toàn diện. Một số công nghệ mới cung cấp các giải pháp sáng tạo và hiệu quả cho quản lí dữ liệu, phù hợp để áp dụng trong các tình huống quản lí rủi ro yêu cầu dữ liệu chất lượng cao và phân tích dữ liệu phức tạp.
Xu hướng Gamification Marketing trong ngành tài chính, ngân hàng ở Việt Nam
Xu hướng Gamification Marketing trong ngành tài chính, ngân hàng ở Việt Nam
12/09/2023 970 lượt xem
Bài viết tổng quan một số lí thuyết có liên quan nhằm làm rõ khái niệm trò chơi hóa (gamification) và tầm quan trọng của việc ứng dụng gamification vào hoạt động marketing của các doanh nghiệp trong ngành tài chính, ngân hàng tại Việt Nam.
Xu hướng ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong sự phát triển của ngành Ngân hàng
Xu hướng ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong sự phát triển của ngành Ngân hàng
11/09/2023 1.084 lượt xem
Bài nghiên cứu trình bày các xu hướng ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong hoạt động ngân hàng, bao gồm Chatbot, tự động hóa quy trình bằng robot (RPA) và giao dịch định lượng. Từ đó, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ứng dụng AI cho quá trình chuyển đổi số trong sự phát triển của hoạt động ngân hàng. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu trường hợp và phân tích dữ liệu.
Một số nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng thẻ tín dụng của khách hàng cá nhân tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh An Giang
Một số nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng thẻ tín dụng của khách hàng cá nhân tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh An Giang
03/09/2023 1.621 lượt xem
Nghiên cứu được thực hiện nhằm kiểm định, đánh giá và đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng thẻ tín dụng của khách hàng cá nhân tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh An Giang.
Cơ hội và thách thức đối với kinh tế Việt Nam những tháng cuối năm 2023
Cơ hội và thách thức đối với kinh tế Việt Nam những tháng cuối năm 2023
21/08/2023 1.962 lượt xem
Bất chấp các khó khăn, thách thức từ kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam nhìn chung vẫn khá tích cực; kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát tốt.
Phát triển tài chính trong bối cảnh tăng trưởng thích ứng với biến đổi khí hậu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Phát triển tài chính trong bối cảnh tăng trưởng thích ứng với biến đổi khí hậu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
17/08/2023 5.896 lượt xem
Bài viết tìm hiểu mối liên hệ giữa phát triển tài chính trong bối cảnh tăng trưởng thích ứng với biến đổi khí hậu. Bài viết đưa ra một số cơ sở lí thuyết liên quan đến phát triển kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế thích ứng với biến đổi khí hậu cũng như mối liên hệ giữa phát triển tài chính trong bối cảnh tăng trưởng thích ứng với khí hậu; đồng thời, đề xuất các cơ hội để tăng cường phát triển tài chính hướng tới sự phát triển tương thích với biến đổi khí hậu, bao gồm các cơ chế tài chính sáng tạo như trái phiếu xanh, quỹ đầu tư xanh, đầu tư tác động và tài chính kết hợp.
Sử dụng ma trận Tows dựa trên việc kết hợp mô hình Pestel và mô hình quản trị ưu việt nhằm đề xuất một số giải pháp cho các ngân hàng thương mại trong thời gian tới
Sử dụng ma trận Tows dựa trên việc kết hợp mô hình Pestel và mô hình quản trị ưu việt nhằm đề xuất một số giải pháp cho các ngân hàng thương mại trong thời gian tới
15/08/2023 2.387 lượt xem
Kinh tế thế giới nói chung, kinh tế Việt Nam nói riêng dự báo còn nhiều khó khăn trong năm 2023 và thời gian tới do ảnh hưởng của xung đột tại Ukraine, cùng với xu hướng thắt chặt tiền tệ của các ngân hàng trung ương nhằm ứng phó với lạm phát tăng cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ngân hàng trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng với các rủi ro khó đoán định.
Tín hiệu mới và giải pháp khơi thông điểm nghẽn đầu tư công năm 2023
Tín hiệu mới và giải pháp khơi thông điểm nghẽn đầu tư công năm 2023
10/08/2023 2.380 lượt xem
Theo Bộ Tài chính, tổng kế hoạch vốn đầu tư công đã giao năm 2023 là hơn 804.420 tỉ đồng (tăng 23% so với năm 2022), trong đó, hơn 752.877 tỉ đồng vốn giao trong năm 2023 và còn lại là vốn kéo dài các năm trước chuyển sang (không bao gồm 12.887,2 tỉ đồng chưa giao).
Nhầm lẫn áp dụng pháp luật về tính lãi suất tiền gửi và điều kiện chuyển nhóm nợ trong cấp tín dụng tại ngân hàng thương mại Việt Nam
Nhầm lẫn áp dụng pháp luật về tính lãi suất tiền gửi và điều kiện chuyển nhóm nợ trong cấp tín dụng tại ngân hàng thương mại Việt Nam
08/08/2023 3.497 lượt xem
Việc áp dụng pháp luật về tính lãi suất tiền gửi và thực hiện chuyển nhóm nợ trong cấp tín dụng tại các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam có thể được thực hiện theo hướng nhầm lẫn so với quy định hiện hành của pháp luật.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

Vàng SJC 5c

68.050

68.770

Vàng nhẫn 9999

56.650

57.600

Vàng nữ trang 9999

56.500

57.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,200 24,570 25,105 26,483 28,868 30,098 159.15 168.46
BIDV 24,240 24,540 25,281 26,469 29,007 30,070 160.4 168.73
VietinBank 24,137 24,557 25,354 26,489 29,226 30,236 160.3 168.25
Agribank 24,200 24,550 25,358 26,066 29,122 29,955 161.42 165.41
Eximbank 24,150 24,540 25,385 26,091 29,179 29,991 161.18 165.66
ACB 24,190 24,540 25,423 26,061 29,339 29,955 160.81 166.01
Sacombank 24,180 24,535 25,495 26,160 29,402 29,911 161.08 167.62
Techcombank 24,211 24,548 25,142 26,464 28,831 30,120 156.91 169.16
LPBank 24,190 24,750 25,283 26,610 29,286 30,211 159.12 170.63
DongA Bank 24,250 24,550 25,470 26,070 29,280 30,020 159.4 166.1
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
BIDV
0,10
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Cake by VPBank
0,40
-
-
-
4,75
4,75
4,75
7,0
7,10
7,3
6,00
ACB
0,05
0,50
0,50
0,50
3,40
3,50
3,60
5,10
5,30
5,30
5,40
Sacombank
-
-
-
-
3,50
3,60
3,70
5,30
5,60
6,00
6,30
Techcombank
0,10
-
-
-
3,50
3,50
3,70
4,90
4,95
5,50
5,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
4,35
4,35
4,35
5,50
5,50
6,30
6,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,50
4,50
4,50
6,20
6,30
6,55
6,75
Agribank
0,20
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,00
4,00
4,00
5,00
5,30
5,50
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?