Hội đồng trường đại học: Các điểm nghẽn cần quan tâm tháo gỡ trong bối cảnh hiện nay
31/05/2023 2.648 lượt xem
1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập hiện nay, giáo dục đại học đã có sự chuyển mình cần thiết để phù hợp với xu thế phát triển. Việc thành lập hội đồng trường là một trong những chủ trương đúng đắn, tiệm cận với giáo dục đại học thế giới. Hội đồng trường được thành lập là bước đi và khâu quan trọng để tiến tới tự chủ đại học. Thực tế đã cho thấy, tự chủ đại học sẽ góp phần quan trọng giúp cho các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) công lập hoạt động hiệu quả hơn, tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở GDĐH, tạo điều kiện để đa dạng hóa các hoạt động GDĐH. Điều này, xét về bản chất cũng là phù hợp với xu thế khách quan của sự phát triển, đó là sự dịch chuyển mô hình từ việc Nhà nước kiểm soát sang các mô hình hệ thống Nhà nước giám sát. Theo đó, cũng đặt ra cho công tác quản trị đại học những thách thức cần quan tâm, giải quyết.



 
Cần thực hiện hiệu quả việc gắn kết giữa cơ sở GDĐH với doanh nghiệp, từ công tác tuyển sinh, đào tạo, thực tập đào tạo, thực hành sản xuất đến tuyển dụng và sử dụng lao động
 
Trong thời đại công nghệ phát triển như hiện nay, môi trường giáo dục đã có sự thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi cần phải có sự đổi mới về quản lí cũng như cách tiếp cận mới. Chính vì vậy mà các cơ sở GDĐH đôi khi phải thực hiện nhiệm vụ giống như một doanh nghiệp. Nếu hoạt động theo lối mòn cũ sẽ vô cùng lạc hậu và kém phát triển. Hiện nay, về cơ bản chúng ta có thể khái quát bốn (04) mô hình quản trị đại học, thể hiện địa vị pháp lí của các cơ sở GDĐH trong xã hội, bao gồm: i) Mô hình Nhà nước quản lí (state control)
1; ii) Mô hình bán tự chủ (semi-autonomous)2; iii) Mô hình bán độc lập (semi-independent3; iv) Mô hình độc lập (independent)4. Mỗi mô hình quản trị đại học đều thể hiện tính tự chủ ở các mức độ khác nhau. Đối với mô hình Nhà nước kiểm soát hoàn toàn thì các cơ sở GDĐH vẫn được tự chủ ở mức độ nhất định trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, tài chính. Ngược lại, mô hình độc lập (nhà nước giám sát) thể hiện rõ Nhà nước chỉ đóng vai trò giám sát hệ thống đảm bảo chất lượng đại học và duy trì mức độ tự chủ, chịu trách nhiệm cao cho các cơ sở GDĐH.

2. Những thách thức và khó khăn của các cơ sở GDDH công lập

Đối với các cơ sở GDĐH công lập đang chuyển dần từ mô hình Nhà nước kiểm soát sang mô hình Nhà nước giám sát với quyền tự chủ đại học ngày càng mở rộng, điều này tạo môi trường cho phép các trường tự quyết và chịu trách nhiệm để ứng phó trước sức ép tài chính và sự thay đổi nhanh của nền kinh tế. Khuynh hướng này cũng làm giảm giá trị truyền thống của mối quan hệ Nhà nước và trường đại học, theo đó, việc tăng quyền lực ở cấp trường đại học cũng đồng nghĩa với giảm bớt quyền lực của cơ quan quản lí Nhà nước.

Các “điểm nghẽn” cần tập trung tháo gỡ

Luật GDĐH sửa đổi năm 2018 có hiệu lực từ ngày 01/7/2019 là hành lang pháp lí quan trọng và cần thiết để mở rộng quyền tự chủ về học thuật, tổ chức và nhân sự, tài chính cho các cơ sở GDĐH. Cũng theo quy định, chủ tịch hội đồng trường của các cơ sở GDĐH hiện nay đều là chuyên trách, thuộc biên chế chính thức của cơ sở GDĐH không có những người có chức vụ trong các cơ quan quản lí thuộc và trực thuộc bộ chủ quản và Bộ Giáo dục và Đào tạo. Việc phân bổ ngân sách Nhà nước được đổi mới từ cơ chế “xin cho” sang cơ chế đầu tư căn cứ năng lực quản trị của các trường kết hợp với đầu tư trực tiếp cho người học; các cơ sở GDĐH được tăng quyền tự chủ trong tuyển sinh, đào tạo, tổ chức nhân sự, tài chính và thu hút sự tham gia của giảng viên, sinh viên và các bên liên quan… sẽ là điều kiện và tiền đề quan trọng để các GDĐH “cởi trói” phát triển theo nhu cầu, yêu cầu của thị trường, phù hợp với xu thế quốc tế. 

Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh và điều kiện cụ thể, cần nhận thức được những thách thức, khó khăn phải tập trung tháo gỡ:

Thứ nhất, tổng thể các cơ sở GDĐH chưa thực sự thay đổi tư duy, nhận thức cũng như cách làm trong quản trị nội bộ nhà trường để sẵn sàng thích ứng với sự đổi mới theo hướng tự chủ. Các thói quen trong hoạt động lãnh đạo, quản lí, điều hành vẫn chưa được thay đổi triệt để do còn ảnh hưởng bởi cơ chế trước đây.

Thứ hai, về bản chất, hội đồng trường hiện nay chưa phát huy hết vai trò tại các cơ sở GDĐH. Thành viên trong các cơ sở GDĐH vẫn chiếm tỉ lệ lớn trong hội đồng trường (trên 70%), hầu hết là ban giám hiệu, trưởng, phó các đơn vị trực thuộc trường; do đó, rất khó có những ý kiến khách quan trong khi ra các quyết sách của hội đồng trường, vì họ vừa có vai trò định hướng, giám sát lại vừa chịu trách nhiệm quản lí, thực hiện, chịu trách nhiệm về hoạt động của trường trước hội đồng trường. Ở khía cạnh này, xét cơ cấu thành viên ngoài trường chiếm tỉ lệ thấp, hội đồng trường khó thực hiện vai trò một cơ quan quyền lực cao nhất và độc lập với hiệu trưởng, ban giám hiệu mà chỉ thiên về tư vấn cho hiệu trưởng.

Thứ ba, phần lớn cơ sở GDĐH vẫn chưa mạnh dạn đổi mới thực hiện cơ chế tài chính trong nội bộ nhà trường theo hướng khoán, tự đảm bảo chi thường xuyên cho các đơn vị trực thuộc trường, nhất là đối với một số đơn vị đủ khả năng để triển khai thực hiện theo hình thức này căn cứ vào nhu cầu của xã hội và thực tế của chính đơn vị
5. Nhiều cơ sở GDĐH chưa có phương án khả thi để tăng cường tính tự chủ và nâng cao, ổn định nguồn tài chính trong dài hạn, đặc biệt các nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học chưa được khai thác hiệu quả như các cơ sở GDĐH lớn trên thế giới.

Thứ tư, một thực tế cần thừa nhận là, trong thời gian dài, mối gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp còn lỏng lẻo, mục tiêu hợp tác nhiều khi mang tính hình thức. Dường như mối quan hệ này vẫn là hai đường thẳng đi song song với nhau. Nhà trường thì đánh giá doanh nghiệp không gắn với nhà trường, còn doanh nghiệp thì cho rằng công tác đào tạo kém, lao động không sử dụng được, phải đào tạo lại. Hai bên chủ yếu chỉ dừng lại ở việc đưa sinh viên đi thực tập, kiến tập tại doanh nghiệp. Thực hiện hiệu quả việc gắn kết giữa cơ sở GDĐH với doanh nghiệp, từ công tác tuyển sinh, đào tạo, thực tập đào tạo, thực hành sản xuất đến tuyển dụng và sử dụng lao động... là điều cần triển khai mạnh mẽ. Đó sẽ là khâu đột phá quan trọng tác động đến đổi mới quản trị đại học trong thời đại công nghệ phát triển như hiện nay.

Thứ năm, bất kỳ cơ sở GDĐH nào cũng có 02 hoạt động lõi là giảng dạy và nghiên cứu khoa học, do vậy, vị trí, vai trò của đội ngũ “chủ chốt” là giảng viên có trình độ cao, có kinh nghiệm là rất quan trọng cho cơ sở GDĐH đó phát triển bền vững. Nhưng trong thực tế, cơ chế hình thành chính sách và ra quyết định ở các cơ sở GDĐH hiện nay ít nhấn mạnh đến quyền hành, quyền hạn của đội ngũ cán bộ học thuật, giảng viên có trình độ cao (GS, PGS, TS) mà dành một quyền lực cao cho các bộ phận quản lí điều hành.

Thứ sáu, việc xác định vị trí và vai trò của người đứng đầu trường dưới góc độ pháp lí, quy định hiện hành liên quan và trong thực tế vẫn còn tình trạng mỗi cơ sở giáo dục có cách hiểu chưa thống nhất về vị trí, vai trò của người đứng đầu. Có quan điểm cho rằng, người đứng đầu của cơ sở GDĐH là người chủ tài khoản, là người có “thực quyền” trong quá trình điều hành các hoạt động thường nhật ở nhà trường. Hiệu trưởng cũng là người kí các quyết định về nhân sự liên quan đến các phòng chức năng, khoa chuyên môn trong trường. Cũng có quan niệm lại cho rằng, đó là chủ tịch hội đồng trường, vì được thực hiện theo cơ chế bầu. Chủ tịch hội đồng trường đồng thời cũng là bí thư đảng ủy tại cơ sở giáo dục. Trên thực tế, chúng tôi nhận thấy rằng, điều này là tùy vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử, bối cảnh không gian, thời gian, từng con người cụ thể, từng mối quan hệ của các chủ thể của các cơ sở GDĐH để thực hiện nội dung này, thực hiện “văn hóa” người đứng đầu tại một cơ sở GDĐH công lập.

Một sự thật dễ nhận thấy là vẫn còn tình trạng chủ tịch hội đồng trường “luân chuyển” sang làm hiệu trưởng, còn chủ tịch hội đồng trường lại do lãnh đạo của một khoa chuyên môn đảm nhận. Đương nhiên, việc này cũng thông qua các quy trình, quy định có liên quan. Tùy vào điều kiện cụ thể của mỗi cơ sở giáo dục đại học và các ê-kíp liên quan để quyền lực thực sự nằm ở chủ tịch hội đồng trường hay nằm ở hiệu trưởng.

Bên cạnh đó, những thách thức hiện hữu liên quan đến công tác quản trị tại các trường trong giai đoạn hiện nay còn thể hiện ở các khía cạnh liên quan đến việc hoạch định chính sách của các cơ sở GDĐH cần theo kịp để đào tạo gắn với nhu cầu xã hội, tránh tình trạng “đào tạo thừa”, đào tạo xong nhưng xã hội không sử dụng, không có nhu cầu; chưa kể, việc chuyển các trường từ trung cấp lên cao đẳng, từ cao đẳng lên đại học và cho ra đời nhiều trường đại học trong thời gian vừa qua (có giai đoạn, bộ nào cũng có trường đại học, thậm chí có những bộ, có nhiều cơ sở GDĐH trải dài khắp các vùng của cả nước) đã kéo chất lượng đào tạo đại học đi xuống, chưa ngang bằng với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, việc quy hoạch mạng lưới các cơ sở GDĐH để các trường kém chất lượng được chuyển đổi, công tác xây dựng hệ thống đại học Việt Nam đẳng cấp quốc tế chưa được quan tâm đúng mức.

3. Gợi mở những giải pháp cơ bản

Thứ nhất, văn hóa tổ chức và tầm nhìn của người lãnh đạo tại các cơ sở GDĐH cần nâng lên một tầm mới để thích ứng với sự thay đổi trong môi trường quản trị đại học đang có sự thay đổi. Khi văn hóa tổ chức và tầm nhìn của lãnh đạo thay đổi, nâng lên một “nấc” mới thì sẽ chi phối, quy định các vấn đề liên quan đến các cơ sở GDĐH, bao gồm tầm nhìn, giá trị, các mối quan hệ, các sản phẩm và dịch vụ,… của chính cơ sở GDĐH.

Thứ hai, khi có hội đồng trường đúng nghĩa, các cơ sở GDĐH nên nghiên cứu để tổ chức, quản lí như một doanh nghiệp, với các cơ chế hoạt động và giám sát hiệu quả.

Thứ ba, chú trọng xây dựng đội ngũ viên chức quản lí và giảng viên có phẩm chất đạo đức tốt, chuyên môn cao, đủ về số lượng, phong cách quản lí, giảng dạy tiên tiến và hiện đại. Quan tâm đến công tác đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy học theo hướng mở, nội dung giảng dạy gắn với yêu cầu thực tiễn của ngành, chuyên ngành đào tạo.

4. Kết luận

Bối cảnh hiện nay, trong điều kiện Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) ra đời, có hiệu lực, GDĐH Việt Nam đan xen nhiều cơ hội và thách thức. Để phát huy tính tự chủ thì mỗi cơ sở GDĐH phải có đủ các nguồn lực, gắn với quá trình tự chủ từng phần, sau đó đến tự chủ toàn diện. Thực hiện tốt vấn đề tự chủ đại học sẽ mở ra những cơ hội phát triển lớn cho các trường đại học công lập nói chung và các đại học vùng nói riêng. Và muốn làm tốt điều đó, buộc các cơ sở GDĐH cần có chiến lược quản trị đại học phù hợp với quy luật, xu thế của sự phát triển.


Mỹ Latinh, Malaysia
Pháp và New Zealand
3 Singapore
4 Mỹ, Anh, Úc
Thường sẽ tập trung vào các trung tâm liên quan đến các mảng: Hợp tác quốc tế; ngoại ngữ; tin học
 
Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 1.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017). Hội nghị Tổng kết thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở GDĐH công lập theo Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ giai đoạn 2014 - 2017.
3. Báo cáo tổng kết năm học 2021 - 2022 Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM.
4. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
5. Luật Giáo dục đại học (Sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014, 2015, 2018), Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019.
6. Nghị định số 73/2015/NĐ-CP ngày 08/9/2015 của Chính phủ quy định về tiêu chuẩn phân tầng, khung xếp hạng và tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở giáo dục đại học.
7. Trần Mai Ước (2019), Quán triệt Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở trường Đại học Ngân hàng TP.HCM, Hội thảo Khoa học quốc gia "Tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam cho các thập niên đầu của thế kỷ XXI", Nhà Xuất bản Thông tin và Truyền thông, ISBN 978-604-80-3965-3.
 
PGS.TS. Trần Mai Ước
Giảng viên Cao cấp, Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
 
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024 và triển vọng
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024 và triển vọng
26/07/2024 89 lượt xem
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được xem là một trong năm mũi đột phá của Việt Nam cần được tập trung để thúc đẩy tăng trưởng phát triển và hội nhập.
Sự phát triển của Fintech và thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
Sự phát triển của Fintech và thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
24/07/2024 253 lượt xem
Sự xuất hiện của các công ty công nghệ tài chính (Fintech) trên thị trường đã làm thay đổi toàn bộ ngành dịch vụ tài chính, thúc đẩy phát triển các kênh phân phối sản phẩm, dịch vụ ngân hàng truyền thống...
Một số rủi ro khi sử dụng thẻ tín dụng - Kinh nghiệm và bài học cho giới trẻ
Một số rủi ro khi sử dụng thẻ tín dụng - Kinh nghiệm và bài học cho giới trẻ
22/07/2024 244 lượt xem
Ở thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), thẻ tín dụng dần trở thành một phương tiện thanh toán khá phổ biến đối với bất kì khách hàng nào bởi tính tiện dụng trong chi tiêu và thanh toán.
Chủ động sử dụng và ứng phó với phòng vệ thương mại
Chủ động sử dụng và ứng phó với phòng vệ thương mại
22/07/2024 190 lượt xem
Ngày nay, toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại đang trở thành xu hướng tất yếu, phát triển ngày càng sâu rộng trên thế giới, ngày càng có nhiều nước tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và nhiều Hiệp định Thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương đã được ký kết.
Nghiên cứu xây dựng mô hình học sâu phát hiện tin nhắn rác dựa trên bộ dữ liệu phức hợp được cập nhật
Nghiên cứu xây dựng mô hình học sâu phát hiện tin nhắn rác dựa trên bộ dữ liệu phức hợp được cập nhật
19/07/2024 237 lượt xem
Dựa trên bộ dữ liệu phức hợp mới được cập nhật, bài viết này đề xuất mô hình học máy nhằm phát hiện tin nhắn rác giúp giảm thiểu tối đa những rủi ro mà người dùng thiết bị di động đang phải đối mặt, đặc biệt là rủi ro liên quan đến vấn đề tài chính.
Đánh giá tác động của tham nhũng địa phương đến hoạt động ESG của doanh nghiệp Việt Nam
Đánh giá tác động của tham nhũng địa phương đến hoạt động ESG của doanh nghiệp Việt Nam
18/07/2024 262 lượt xem
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của tham nhũng địa phương (tham nhũng cấp tỉnh/thành phố) đến hoạt động ESG (Environmental - môi trường, Social - xã hội và Governance - quản trị) của doanh nghiệp tại Việt Nam.
Lãi suất theo quy định pháp luật Việt Nam và sự cân nhắc về “mức giới hạn trần” trong hoạt động cho vay của các công ty tài chính.
Lãi suất theo quy định pháp luật Việt Nam và sự cân nhắc về “mức giới hạn trần” trong hoạt động cho vay của các công ty tài chính.
16/07/2024 444 lượt xem
“Lãi suất là công cụ tích cực trong phát triển kinh tế và đồng thời cũng là một công cụ kìm hãm của chính sự phát triển ấy, tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại trong việc sử dụng chúng” - đây là phát biểu của nhà kinh tế học người Pháp A. Poial.
Giải pháp và lộ trình áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế đối với hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam
Giải pháp và lộ trình áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế đối với hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam
15/07/2024 327 lượt xem
Với xu hướng hội nhập tài chính quốc tế, để đảm bảo cung cấp thông tin chính xác, minh bạch, việc áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) là một trong những điều kiện cần thiết để đẩy mạnh xu hướng này, góp phần hoàn thiện các giải pháp đồng bộ thúc đẩy lĩnh vực kế toán - kiểm toán phát triển; đảm bảo việc ghi nhận sổ sách theo cơ chế thị trường vận hành và thông lệ quốc tế.
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
11/07/2024 426 lượt xem
Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế đất nước (1986 - 2024), khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn luôn đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, mặc dù đạt được những kết quả quan trọng, nhưng hoạt động và đóng góp của khối doanh nghiệp nhà nước vào nền kinh tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng.
Đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023
Đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023
01/07/2024 673 lượt xem
Mục tiêu của bài viết này là phân tích và đánh giá thực trạng an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023 trên các khía cạnh gồm an toàn vốn, thanh khoản và chất lượng tài sản. Qua đó, bài viết đưa ra một số giải pháp đối với các NHTM Việt Nam và kiến nghị đối với các cơ quan quản lí nhà nước nhằm đảm bảo sự an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Tác động truyền thông chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tới người tiêu dùng
Tác động truyền thông chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tới người tiêu dùng
27/06/2024 558 lượt xem
Bài viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính truyền thống và nghiên cứu định lượng qua việc chạy mô hình hồi quy Logistic nhị phân (Binary Logistic Regression) để đánh giá tác động từ truyền thông chính sách tiền tệ (CSTT) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tới người tiêu dùng.
Mô hình tập trung trong thanh toán quốc tế của một số ngân hàng trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
Mô hình tập trung trong thanh toán quốc tế của một số ngân hàng trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
25/06/2024 623 lượt xem
Có nhiều mô hình thanh toán quốc tế đang được áp dụng tại các ngân hàng trên thế giới, bao gồm mô hình tập trung, phân tán, thuê ngoài và các mô hình thanh toán khác.
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay
19/06/2024 671 lượt xem
Phát huy vai trò báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thời gian qua đã được Đảng, Nhà nước, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt Nam, các cơ quan báo chí trong cả nước và đội ngũ những người làm báo quan tâm, chăm lo, thực hiện; từng bước đề ra nhiều nội dung, giải pháp, phương thức, phát huy hiệu quả vai trò của báo chí cách mạng.
Ứng dụng ESG trong xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Việt Nam
Ứng dụng ESG trong xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Việt Nam
19/06/2024 656 lượt xem
Kinh doanh bền vững gắn với bảo vệ môi trường, đề cao trách nhiệm xã hội đang là xu thế tất yếu tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Vai trò điều tiết của đa dạng hóa thu nhập đến mối quan hệ giữa các yếu tố đặc thù với khả năng sinh lời của ngân hàng
Vai trò điều tiết của đa dạng hóa thu nhập đến mối quan hệ giữa các yếu tố đặc thù với khả năng sinh lời của ngân hàng
17/06/2024 479 lượt xem
Là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống tài chính, các ngân hàng đóng vai trò trung gian trong việc chuyển vốn từ bên thừa sang bên thiếu vốn.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

Vàng SJC 5c

77.500

79.520

Vàng nhẫn 9999

75.600

77.000

Vàng nữ trang 9999

75.500

76.600


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,127 25,477 26,885 28,360 31,917 33,274 156.80 165.96
BIDV 25,157 25,477 27,090 28,390 32,186 33,429 157.71 166.56
VietinBank 25,157 25,477 27,180 28,380 32,396 33,406 158.36 166.11
Agribank 25,160 25,477 27,065 28,310 32,089 33,255 157.73 165.80
Eximbank 25,130 25,476 27,140 27,981 32,273 33,175 158.91 163.85
ACB 25,140 25,477 27,136 28,068 32,329 33,306 158.59 164.86
Sacombank 25,190 25,477 27,338 28,340 32,507 33,217 159.66 164.69
Techcombank 25,132 25,477 27,000 28,353 31,994 33,324 155.51 167.92
LPBank 24,937 25,477 26,998 28,670 32,415 33,421 157.95 169.10
DongA Bank 25,180 25,477 27,140 28,010 32,200 33,300 156.60 164.60
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,30
3,60
4,30
4,40
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,60
2,60
2,90
3,80
3,80
4,50
4,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
2,00
2,00
2,30
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
2,90
3,10
3,20
4,00
4,00
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?