Hội đồng trường đại học: Các điểm nghẽn cần quan tâm tháo gỡ trong bối cảnh hiện nay
31/05/2023 2.049 lượt xem
1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập hiện nay, giáo dục đại học đã có sự chuyển mình cần thiết để phù hợp với xu thế phát triển. Việc thành lập hội đồng trường là một trong những chủ trương đúng đắn, tiệm cận với giáo dục đại học thế giới. Hội đồng trường được thành lập là bước đi và khâu quan trọng để tiến tới tự chủ đại học. Thực tế đã cho thấy, tự chủ đại học sẽ góp phần quan trọng giúp cho các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) công lập hoạt động hiệu quả hơn, tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở GDĐH, tạo điều kiện để đa dạng hóa các hoạt động GDĐH. Điều này, xét về bản chất cũng là phù hợp với xu thế khách quan của sự phát triển, đó là sự dịch chuyển mô hình từ việc Nhà nước kiểm soát sang các mô hình hệ thống Nhà nước giám sát. Theo đó, cũng đặt ra cho công tác quản trị đại học những thách thức cần quan tâm, giải quyết.



 
Cần thực hiện hiệu quả việc gắn kết giữa cơ sở GDĐH với doanh nghiệp, từ công tác tuyển sinh, đào tạo, thực tập đào tạo, thực hành sản xuất đến tuyển dụng và sử dụng lao động
 
Trong thời đại công nghệ phát triển như hiện nay, môi trường giáo dục đã có sự thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi cần phải có sự đổi mới về quản lí cũng như cách tiếp cận mới. Chính vì vậy mà các cơ sở GDĐH đôi khi phải thực hiện nhiệm vụ giống như một doanh nghiệp. Nếu hoạt động theo lối mòn cũ sẽ vô cùng lạc hậu và kém phát triển. Hiện nay, về cơ bản chúng ta có thể khái quát bốn (04) mô hình quản trị đại học, thể hiện địa vị pháp lí của các cơ sở GDĐH trong xã hội, bao gồm: i) Mô hình Nhà nước quản lí (state control)
1; ii) Mô hình bán tự chủ (semi-autonomous)2; iii) Mô hình bán độc lập (semi-independent3; iv) Mô hình độc lập (independent)4. Mỗi mô hình quản trị đại học đều thể hiện tính tự chủ ở các mức độ khác nhau. Đối với mô hình Nhà nước kiểm soát hoàn toàn thì các cơ sở GDĐH vẫn được tự chủ ở mức độ nhất định trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, tài chính. Ngược lại, mô hình độc lập (nhà nước giám sát) thể hiện rõ Nhà nước chỉ đóng vai trò giám sát hệ thống đảm bảo chất lượng đại học và duy trì mức độ tự chủ, chịu trách nhiệm cao cho các cơ sở GDĐH.

2. Những thách thức và khó khăn của các cơ sở GDDH công lập

Đối với các cơ sở GDĐH công lập đang chuyển dần từ mô hình Nhà nước kiểm soát sang mô hình Nhà nước giám sát với quyền tự chủ đại học ngày càng mở rộng, điều này tạo môi trường cho phép các trường tự quyết và chịu trách nhiệm để ứng phó trước sức ép tài chính và sự thay đổi nhanh của nền kinh tế. Khuynh hướng này cũng làm giảm giá trị truyền thống của mối quan hệ Nhà nước và trường đại học, theo đó, việc tăng quyền lực ở cấp trường đại học cũng đồng nghĩa với giảm bớt quyền lực của cơ quan quản lí Nhà nước.

Các “điểm nghẽn” cần tập trung tháo gỡ

Luật GDĐH sửa đổi năm 2018 có hiệu lực từ ngày 01/7/2019 là hành lang pháp lí quan trọng và cần thiết để mở rộng quyền tự chủ về học thuật, tổ chức và nhân sự, tài chính cho các cơ sở GDĐH. Cũng theo quy định, chủ tịch hội đồng trường của các cơ sở GDĐH hiện nay đều là chuyên trách, thuộc biên chế chính thức của cơ sở GDĐH không có những người có chức vụ trong các cơ quan quản lí thuộc và trực thuộc bộ chủ quản và Bộ Giáo dục và Đào tạo. Việc phân bổ ngân sách Nhà nước được đổi mới từ cơ chế “xin cho” sang cơ chế đầu tư căn cứ năng lực quản trị của các trường kết hợp với đầu tư trực tiếp cho người học; các cơ sở GDĐH được tăng quyền tự chủ trong tuyển sinh, đào tạo, tổ chức nhân sự, tài chính và thu hút sự tham gia của giảng viên, sinh viên và các bên liên quan… sẽ là điều kiện và tiền đề quan trọng để các GDĐH “cởi trói” phát triển theo nhu cầu, yêu cầu của thị trường, phù hợp với xu thế quốc tế. 

Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh và điều kiện cụ thể, cần nhận thức được những thách thức, khó khăn phải tập trung tháo gỡ:

Thứ nhất, tổng thể các cơ sở GDĐH chưa thực sự thay đổi tư duy, nhận thức cũng như cách làm trong quản trị nội bộ nhà trường để sẵn sàng thích ứng với sự đổi mới theo hướng tự chủ. Các thói quen trong hoạt động lãnh đạo, quản lí, điều hành vẫn chưa được thay đổi triệt để do còn ảnh hưởng bởi cơ chế trước đây.

Thứ hai, về bản chất, hội đồng trường hiện nay chưa phát huy hết vai trò tại các cơ sở GDĐH. Thành viên trong các cơ sở GDĐH vẫn chiếm tỉ lệ lớn trong hội đồng trường (trên 70%), hầu hết là ban giám hiệu, trưởng, phó các đơn vị trực thuộc trường; do đó, rất khó có những ý kiến khách quan trong khi ra các quyết sách của hội đồng trường, vì họ vừa có vai trò định hướng, giám sát lại vừa chịu trách nhiệm quản lí, thực hiện, chịu trách nhiệm về hoạt động của trường trước hội đồng trường. Ở khía cạnh này, xét cơ cấu thành viên ngoài trường chiếm tỉ lệ thấp, hội đồng trường khó thực hiện vai trò một cơ quan quyền lực cao nhất và độc lập với hiệu trưởng, ban giám hiệu mà chỉ thiên về tư vấn cho hiệu trưởng.

Thứ ba, phần lớn cơ sở GDĐH vẫn chưa mạnh dạn đổi mới thực hiện cơ chế tài chính trong nội bộ nhà trường theo hướng khoán, tự đảm bảo chi thường xuyên cho các đơn vị trực thuộc trường, nhất là đối với một số đơn vị đủ khả năng để triển khai thực hiện theo hình thức này căn cứ vào nhu cầu của xã hội và thực tế của chính đơn vị
5. Nhiều cơ sở GDĐH chưa có phương án khả thi để tăng cường tính tự chủ và nâng cao, ổn định nguồn tài chính trong dài hạn, đặc biệt các nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học chưa được khai thác hiệu quả như các cơ sở GDĐH lớn trên thế giới.

Thứ tư, một thực tế cần thừa nhận là, trong thời gian dài, mối gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp còn lỏng lẻo, mục tiêu hợp tác nhiều khi mang tính hình thức. Dường như mối quan hệ này vẫn là hai đường thẳng đi song song với nhau. Nhà trường thì đánh giá doanh nghiệp không gắn với nhà trường, còn doanh nghiệp thì cho rằng công tác đào tạo kém, lao động không sử dụng được, phải đào tạo lại. Hai bên chủ yếu chỉ dừng lại ở việc đưa sinh viên đi thực tập, kiến tập tại doanh nghiệp. Thực hiện hiệu quả việc gắn kết giữa cơ sở GDĐH với doanh nghiệp, từ công tác tuyển sinh, đào tạo, thực tập đào tạo, thực hành sản xuất đến tuyển dụng và sử dụng lao động... là điều cần triển khai mạnh mẽ. Đó sẽ là khâu đột phá quan trọng tác động đến đổi mới quản trị đại học trong thời đại công nghệ phát triển như hiện nay.

Thứ năm, bất kỳ cơ sở GDĐH nào cũng có 02 hoạt động lõi là giảng dạy và nghiên cứu khoa học, do vậy, vị trí, vai trò của đội ngũ “chủ chốt” là giảng viên có trình độ cao, có kinh nghiệm là rất quan trọng cho cơ sở GDĐH đó phát triển bền vững. Nhưng trong thực tế, cơ chế hình thành chính sách và ra quyết định ở các cơ sở GDĐH hiện nay ít nhấn mạnh đến quyền hành, quyền hạn của đội ngũ cán bộ học thuật, giảng viên có trình độ cao (GS, PGS, TS) mà dành một quyền lực cao cho các bộ phận quản lí điều hành.

Thứ sáu, việc xác định vị trí và vai trò của người đứng đầu trường dưới góc độ pháp lí, quy định hiện hành liên quan và trong thực tế vẫn còn tình trạng mỗi cơ sở giáo dục có cách hiểu chưa thống nhất về vị trí, vai trò của người đứng đầu. Có quan điểm cho rằng, người đứng đầu của cơ sở GDĐH là người chủ tài khoản, là người có “thực quyền” trong quá trình điều hành các hoạt động thường nhật ở nhà trường. Hiệu trưởng cũng là người kí các quyết định về nhân sự liên quan đến các phòng chức năng, khoa chuyên môn trong trường. Cũng có quan niệm lại cho rằng, đó là chủ tịch hội đồng trường, vì được thực hiện theo cơ chế bầu. Chủ tịch hội đồng trường đồng thời cũng là bí thư đảng ủy tại cơ sở giáo dục. Trên thực tế, chúng tôi nhận thấy rằng, điều này là tùy vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử, bối cảnh không gian, thời gian, từng con người cụ thể, từng mối quan hệ của các chủ thể của các cơ sở GDĐH để thực hiện nội dung này, thực hiện “văn hóa” người đứng đầu tại một cơ sở GDĐH công lập.

Một sự thật dễ nhận thấy là vẫn còn tình trạng chủ tịch hội đồng trường “luân chuyển” sang làm hiệu trưởng, còn chủ tịch hội đồng trường lại do lãnh đạo của một khoa chuyên môn đảm nhận. Đương nhiên, việc này cũng thông qua các quy trình, quy định có liên quan. Tùy vào điều kiện cụ thể của mỗi cơ sở giáo dục đại học và các ê-kíp liên quan để quyền lực thực sự nằm ở chủ tịch hội đồng trường hay nằm ở hiệu trưởng.

Bên cạnh đó, những thách thức hiện hữu liên quan đến công tác quản trị tại các trường trong giai đoạn hiện nay còn thể hiện ở các khía cạnh liên quan đến việc hoạch định chính sách của các cơ sở GDĐH cần theo kịp để đào tạo gắn với nhu cầu xã hội, tránh tình trạng “đào tạo thừa”, đào tạo xong nhưng xã hội không sử dụng, không có nhu cầu; chưa kể, việc chuyển các trường từ trung cấp lên cao đẳng, từ cao đẳng lên đại học và cho ra đời nhiều trường đại học trong thời gian vừa qua (có giai đoạn, bộ nào cũng có trường đại học, thậm chí có những bộ, có nhiều cơ sở GDĐH trải dài khắp các vùng của cả nước) đã kéo chất lượng đào tạo đại học đi xuống, chưa ngang bằng với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, việc quy hoạch mạng lưới các cơ sở GDĐH để các trường kém chất lượng được chuyển đổi, công tác xây dựng hệ thống đại học Việt Nam đẳng cấp quốc tế chưa được quan tâm đúng mức.

3. Gợi mở những giải pháp cơ bản

Thứ nhất, văn hóa tổ chức và tầm nhìn của người lãnh đạo tại các cơ sở GDĐH cần nâng lên một tầm mới để thích ứng với sự thay đổi trong môi trường quản trị đại học đang có sự thay đổi. Khi văn hóa tổ chức và tầm nhìn của lãnh đạo thay đổi, nâng lên một “nấc” mới thì sẽ chi phối, quy định các vấn đề liên quan đến các cơ sở GDĐH, bao gồm tầm nhìn, giá trị, các mối quan hệ, các sản phẩm và dịch vụ,… của chính cơ sở GDĐH.

Thứ hai, khi có hội đồng trường đúng nghĩa, các cơ sở GDĐH nên nghiên cứu để tổ chức, quản lí như một doanh nghiệp, với các cơ chế hoạt động và giám sát hiệu quả.

Thứ ba, chú trọng xây dựng đội ngũ viên chức quản lí và giảng viên có phẩm chất đạo đức tốt, chuyên môn cao, đủ về số lượng, phong cách quản lí, giảng dạy tiên tiến và hiện đại. Quan tâm đến công tác đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy học theo hướng mở, nội dung giảng dạy gắn với yêu cầu thực tiễn của ngành, chuyên ngành đào tạo.

4. Kết luận

Bối cảnh hiện nay, trong điều kiện Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) ra đời, có hiệu lực, GDĐH Việt Nam đan xen nhiều cơ hội và thách thức. Để phát huy tính tự chủ thì mỗi cơ sở GDĐH phải có đủ các nguồn lực, gắn với quá trình tự chủ từng phần, sau đó đến tự chủ toàn diện. Thực hiện tốt vấn đề tự chủ đại học sẽ mở ra những cơ hội phát triển lớn cho các trường đại học công lập nói chung và các đại học vùng nói riêng. Và muốn làm tốt điều đó, buộc các cơ sở GDĐH cần có chiến lược quản trị đại học phù hợp với quy luật, xu thế của sự phát triển.


Mỹ Latinh, Malaysia
Pháp và New Zealand
3 Singapore
4 Mỹ, Anh, Úc
Thường sẽ tập trung vào các trung tâm liên quan đến các mảng: Hợp tác quốc tế; ngoại ngữ; tin học
 
Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 1.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017). Hội nghị Tổng kết thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở GDĐH công lập theo Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ giai đoạn 2014 - 2017.
3. Báo cáo tổng kết năm học 2021 - 2022 Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM.
4. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
5. Luật Giáo dục đại học (Sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014, 2015, 2018), Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019.
6. Nghị định số 73/2015/NĐ-CP ngày 08/9/2015 của Chính phủ quy định về tiêu chuẩn phân tầng, khung xếp hạng và tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở giáo dục đại học.
7. Trần Mai Ước (2019), Quán triệt Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở trường Đại học Ngân hàng TP.HCM, Hội thảo Khoa học quốc gia "Tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam cho các thập niên đầu của thế kỷ XXI", Nhà Xuất bản Thông tin và Truyền thông, ISBN 978-604-80-3965-3.
 
PGS.TS. Trần Mai Ước
Giảng viên Cao cấp, Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
 
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Khủng hoảng ngân hàng và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Khủng hoảng ngân hàng và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
26/09/2023 196 lượt xem
Việc các cuộc khủng hoảng ngân hàng xảy ra liên tiếp gần đây trên thế giới đã dấy lên mối lo ngại về một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu như những gì từng xảy ra hơn một thập kỉ trước. Đứng trước nguy cơ những cuộc khủng hoảng có thể xảy ra do các bất ổn về chính trị và xã hội trên toàn cầu, Việt Nam cần chuẩn bị những gì để tránh khỏi khủng hoảng hệ thống ngân hàng hoặc để sẵn sàng ứng phó nếu khủng hoảng hệ thống ngân hàng xảy ra?
Kinh nghiệm quản lí rủi ro khí hậu trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trên thế giới
Kinh nghiệm quản lí rủi ro khí hậu trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trên thế giới
22/09/2023 418 lượt xem
Bài viết giới thiệu về loại rủi ro mới xuất hiện và ngày càng tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh ngân hàng, đó là rủi ro khí hậu.
Ứng dụng cơ sở sữ liệu dân cư trong đánh giá điểm khả tín khách hàng cá nhân tại các tổ chức tín dụng Việt Nam
Ứng dụng cơ sở sữ liệu dân cư trong đánh giá điểm khả tín khách hàng cá nhân tại các tổ chức tín dụng Việt Nam
20/09/2023 548 lượt xem
Ứng dụng cơ sở dữ liệu dân cư (CSDLDC) trong đánh giá điểm khả tín khách hàng, đặc biệt là khách hàng cá nhân được đánh giá là giải pháp mang lại nhiều lợi ích cho ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế. Bài viết sử dụng phương pháp phân tích văn bản, tổng quan tài liệu để đưa ra đánh giá về ứng dụng CSDLDC trong đánh giá điểm khả tín khách hàng cá nhân tại các tổ chức tín dụng (TCTD).
Các nhân tố ảnh hưởng tới sự trung thành với ngân hàng của khách hàng cá nhân gửi tiền tiết kiệm tại BIDV Chi nhánh tỉnh Trà Vinh
Các nhân tố ảnh hưởng tới sự trung thành với ngân hàng của khách hàng cá nhân gửi tiền tiết kiệm tại BIDV Chi nhánh tỉnh Trà Vinh
19/09/2023 631 lượt xem
Bài viết nhằm mục tiêu phát hiện mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến sự trung thành với ngân hàng của khách hàng cá nhân gửi tiền tiết kiệm. Thống kê ứng dụng và hồi quy đa biến là những phương pháp được sử dụng để phân tích mức độ ảnh hưởng của yếu tố, từ số liệu khảo sát cụ thể 290 khách hàng cá nhân gửi tiền tiết kiệm tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh tỉnh Trà Vinh (BIDV Trà Vinh).
Nỗ lực giải ngân đầu tư công năm 2023
Nỗ lực giải ngân đầu tư công năm 2023
15/09/2023 686 lượt xem
Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng hành của Quốc hội, sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng với nỗ lực, quyết tâm của các cấp, các ngành, giải ngân vốn đầu tư công năm 2023 đã có những chuyển biến tích cực.
Triển vọng thu hút FDI sau chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden
Triển vọng thu hút FDI sau chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden
14/09/2023 1.530 lượt xem
Theo Tổng cục Thống kê, tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đăng kí vào Việt Nam tính đến ngày 20/8/2023 bao gồm: Vốn đăng kí cấp mới, vốn đăng kí điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 18,15 tỉ USD, tăng 8,2% so với cùng kì năm trước.
Quản lí rủi ro toàn diện trong ngân hàng dựa trên kiến trúc dữ liệu lớn
Quản lí rủi ro toàn diện trong ngân hàng dựa trên kiến trúc dữ liệu lớn
14/09/2023 825 lượt xem
Trong bối cảnh hiện nay, rủi ro trong ngân hàng đến từ nhiều kênh và hệ thống khác nhau, vì thế các ngân hàng cần phải chuyển đổi từ mô hình quản lí rủi ro tín dụng đơn giản sang mô hình quản lí rủi ro toàn diện. Một số công nghệ mới cung cấp các giải pháp sáng tạo và hiệu quả cho quản lí dữ liệu, phù hợp để áp dụng trong các tình huống quản lí rủi ro yêu cầu dữ liệu chất lượng cao và phân tích dữ liệu phức tạp.
Xu hướng Gamification Marketing trong ngành tài chính, ngân hàng ở Việt Nam
Xu hướng Gamification Marketing trong ngành tài chính, ngân hàng ở Việt Nam
12/09/2023 974 lượt xem
Bài viết tổng quan một số lí thuyết có liên quan nhằm làm rõ khái niệm trò chơi hóa (gamification) và tầm quan trọng của việc ứng dụng gamification vào hoạt động marketing của các doanh nghiệp trong ngành tài chính, ngân hàng tại Việt Nam.
Xu hướng ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong sự phát triển của ngành Ngân hàng
Xu hướng ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong sự phát triển của ngành Ngân hàng
11/09/2023 1.088 lượt xem
Bài nghiên cứu trình bày các xu hướng ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong hoạt động ngân hàng, bao gồm Chatbot, tự động hóa quy trình bằng robot (RPA) và giao dịch định lượng. Từ đó, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ứng dụng AI cho quá trình chuyển đổi số trong sự phát triển của hoạt động ngân hàng. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu trường hợp và phân tích dữ liệu.
Một số nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng thẻ tín dụng của khách hàng cá nhân tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh An Giang
Một số nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng thẻ tín dụng của khách hàng cá nhân tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh An Giang
03/09/2023 1.624 lượt xem
Nghiên cứu được thực hiện nhằm kiểm định, đánh giá và đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng thẻ tín dụng của khách hàng cá nhân tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh An Giang.
Cơ hội và thách thức đối với kinh tế Việt Nam những tháng cuối năm 2023
Cơ hội và thách thức đối với kinh tế Việt Nam những tháng cuối năm 2023
21/08/2023 1.965 lượt xem
Bất chấp các khó khăn, thách thức từ kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam nhìn chung vẫn khá tích cực; kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát tốt.
Phát triển tài chính trong bối cảnh tăng trưởng thích ứng với biến đổi khí hậu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Phát triển tài chính trong bối cảnh tăng trưởng thích ứng với biến đổi khí hậu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
17/08/2023 5.911 lượt xem
Bài viết tìm hiểu mối liên hệ giữa phát triển tài chính trong bối cảnh tăng trưởng thích ứng với biến đổi khí hậu. Bài viết đưa ra một số cơ sở lí thuyết liên quan đến phát triển kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế thích ứng với biến đổi khí hậu cũng như mối liên hệ giữa phát triển tài chính trong bối cảnh tăng trưởng thích ứng với khí hậu; đồng thời, đề xuất các cơ hội để tăng cường phát triển tài chính hướng tới sự phát triển tương thích với biến đổi khí hậu, bao gồm các cơ chế tài chính sáng tạo như trái phiếu xanh, quỹ đầu tư xanh, đầu tư tác động và tài chính kết hợp.
Sử dụng ma trận Tows dựa trên việc kết hợp mô hình Pestel và mô hình quản trị ưu việt nhằm đề xuất một số giải pháp cho các ngân hàng thương mại trong thời gian tới
Sử dụng ma trận Tows dựa trên việc kết hợp mô hình Pestel và mô hình quản trị ưu việt nhằm đề xuất một số giải pháp cho các ngân hàng thương mại trong thời gian tới
15/08/2023 2.390 lượt xem
Kinh tế thế giới nói chung, kinh tế Việt Nam nói riêng dự báo còn nhiều khó khăn trong năm 2023 và thời gian tới do ảnh hưởng của xung đột tại Ukraine, cùng với xu hướng thắt chặt tiền tệ của các ngân hàng trung ương nhằm ứng phó với lạm phát tăng cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ngân hàng trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng với các rủi ro khó đoán định.
Tín hiệu mới và giải pháp khơi thông điểm nghẽn đầu tư công năm 2023
Tín hiệu mới và giải pháp khơi thông điểm nghẽn đầu tư công năm 2023
10/08/2023 2.384 lượt xem
Theo Bộ Tài chính, tổng kế hoạch vốn đầu tư công đã giao năm 2023 là hơn 804.420 tỉ đồng (tăng 23% so với năm 2022), trong đó, hơn 752.877 tỉ đồng vốn giao trong năm 2023 và còn lại là vốn kéo dài các năm trước chuyển sang (không bao gồm 12.887,2 tỉ đồng chưa giao).
Nhầm lẫn áp dụng pháp luật về tính lãi suất tiền gửi và điều kiện chuyển nhóm nợ trong cấp tín dụng tại ngân hàng thương mại Việt Nam
Nhầm lẫn áp dụng pháp luật về tính lãi suất tiền gửi và điều kiện chuyển nhóm nợ trong cấp tín dụng tại ngân hàng thương mại Việt Nam
08/08/2023 3.502 lượt xem
Việc áp dụng pháp luật về tính lãi suất tiền gửi và thực hiện chuyển nhóm nợ trong cấp tín dụng tại các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam có thể được thực hiện theo hướng nhầm lẫn so với quy định hiện hành của pháp luật.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

Vàng SJC 5c

68.050

68.770

Vàng nhẫn 9999

56.650

57.600

Vàng nữ trang 9999

56.500

57.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,200 24,570 25,105 26,483 28,868 30,098 159.15 168.46
BIDV 24,240 24,540 25,281 26,469 29,007 30,070 160.4 168.73
VietinBank 24,137 24,557 25,354 26,489 29,226 30,236 160.3 168.25
Agribank 24,200 24,550 25,358 26,066 29,122 29,955 161.42 165.41
Eximbank 24,150 24,540 25,385 26,091 29,179 29,991 161.18 165.66
ACB 24,190 24,540 25,423 26,061 29,339 29,955 160.81 166.01
Sacombank 24,180 24,535 25,495 26,160 29,402 29,911 161.08 167.62
Techcombank 24,211 24,548 25,142 26,464 28,831 30,120 156.91 169.16
LPBank 24,190 24,750 25,283 26,610 29,286 30,211 159.12 170.63
DongA Bank 24,250 24,550 25,470 26,070 29,280 30,020 159.4 166.1
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
BIDV
0,10
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Cake by VPBank
0,40
-
-
-
4,75
4,75
4,75
7,0
7,10
7,3
6,00
ACB
0,05
0,50
0,50
0,50
3,40
3,50
3,60
5,10
5,30
5,30
5,40
Sacombank
-
-
-
-
3,50
3,60
3,70
5,30
5,60
6,00
6,30
Techcombank
0,10
-
-
-
3,50
3,50
3,70
4,90
4,95
5,50
5,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
4,35
4,35
4,35
5,50
5,50
6,30
6,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,50
4,50
4,50
6,20
6,30
6,55
6,75
Agribank
0,20
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,00
4,00
4,00
5,00
5,30
5,50
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?