Giao dịch bảo đảm bằng quyền tài sản theo Bộ luật dân sự 2015
21/04/2020 16.565 lượt xem
Ngày nay, các tài sản vô hình (quyền tài sản) có xu hướng chiếm một tỷ trọng ngày càng quan trọng trong tổng tài sản của một doanh nghiệp. Việc sử dụng tài sản vô hình để bảo đảm nghĩa vụ có rất nhiều ưu điểm so với tài sản hữu hình bởi vì giúp tránh được nguy cơ tài sản bị mất, bị phá hủy hay giảm giá trị.
 
Hơn nữa, tài sản vô hình có thể được lưu trữ và chuyển giao bằng các phương tiện điện tử mà không chịu hạn chế về mặt kích thước hay không cần phải chuyển giao về mặt vật chất. Chỉ bằng một cái nhấn chuột máy tính, tài sản vô hình có thể vượt qua biên giới một nước. Chính vì thế, đây là một loại tài sản khá lý tưởng để bảo đảm khoản vay[1]. Tuy vậy, ở Việt Nam, việc cho vay theo tài sản vô hình chưa thực sự phổ biến. Ngoài tâm lý “chuộng” tài sản hữu hình quy định pháp luật hiện hành vừa thiếu vừa ít tính khả thi đang là rào cản lớn cho việc xác lập và xử lý các giao dịch bảo đảm bằng tài sản vô hình. 
 
1. Khái niệm quyền tài sản và giao dịch bảo đảm với quyền tài sản
 
Khác với pháp luật của nhiều nước, tài sản vô hình ở Việt Nam được pháp luật ghi nhận thông qua khái niệm “quyền tài sản”. Quyền tài sản là một loại tài sản đã được quy định trong các bộ luật dân sự của Việt Nam [2]. 
 
Khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) quy định: “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Như vậy, quyền tài sản là một trong bốn loại tài sản theo bộ luật này.
 
Quyền tài sản là một loại tài sản khá đặc biệt. Điều 115 của BLDS định nghĩa: “quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Như vậy, quyền tài sản được hiểu là các (i) quyền, (ii) trị giá được bằng tiền. Nếu một quyền không thể trị giá được thành tiền thì không thể được coi là quyền tài sản. Danh sách các quyền tài sản nêu tại điều luật này là một danh sách mở. Xét ở khía cạnh tích cực thì nó không hạn chế các quyền có thể được xem là quyền tài sản với điều kiện chúng thỏa mãn hai tiêu chí nêu trên. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải lúc nào cũng dễ dàng xác định được một quyền nhất định có được xem là quyền tài sản hay không nhất là trong bối cảnh ranh giới giữa các quyền đối với tài sản và các quyền được xem là tài sản khá mong manh và chưa thực rõ ràng trong pháp luật thực định. Về mặt này, đáng tiếc là phần quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong BLDS không nêu rõ các loại quyền tài sản có thể được sử dụng làm tài sản bảo đảm. Điều này đang gây không ít khó khăn cho các bên khi xác lập các giao dịch bảo đảm trong thực tế.
 
Trên phương diện phân loại tài sản, nếu áp dụng định nghĩa động sản quy định tại khoản 2 Điều 107 của BLDS, một quyền tài sản sẽ mặc nhiên được coi là động sản trừ khi có một văn bản pháp luật quy định quyền tài sản này là bất động sản[3].
 
Dưới góc độ học thuật, cách sử dụng thuật ngữ “quyền tài sản” của BLDS chưa thực sự phù hợp và dễ gây nhầm lẫn. Thực vậy, trong pháp luật về sở hữu trí tuệ, thuật ngữ “quyền tài sản” mang một ý nghĩa hoàn toàn khác là một trong hai yếu tố cấu thành quyền tác giả4. Hơn nữa, BLDS cũng có một khái niệm tương tự là “quyền đối với tài sản” (Điều 158 và các điều tiếp theo) với một nội hàm hoàn toàn khác so với nội hàm là tài sản vô hình. Về bản chất của các quyền tài sản theo BLDS chính là các tài sản vô hình. Điều đáng tiếc là nhà lập pháp chưa công nhận khái niệm “tài sản vô hình” trong BLDS.
 
Bên cạnh quyền sử dụng đất, các quyền tài sản phổ biến được sử dụng để bảo đảm các khoản tín dụng trong thực tế hiện nay bao gồm quyền đòi nợ, một số quyền khác phát sinh từ hợp đồng, số dư tài khoản ngân hàng (tài khoản tiền gửi tiết kiệm của cá nhân, tài khoản tiền gửi của tổ chức và tài khoản thanh toán), phần vốn góp, cổ phần, chứng khoán và quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên. Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ hầu như vắng bóng trong danh mục tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.
 
Ngoài quy định tại Điều 115 BLDS còn dành Điều 450 để đề cập về việc mua bán quyền tài sản, trong đó có quy định (i) quyền đòi nợ là một loại quyền tài sản và (ii) “thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với quyền tài sản là thời điểm bên mua nhận được giấy tờ về quyền sở hữu đối với quyền tài sản đó hoặc từ thời điểm đăng ký việc chuyển quyền sở hữu, nếu pháp luật có quy định”. Cần hiểu “giấy tờ về quyền sở hữu” theo nghĩa rộng, bao gồm mọi giấy tờ, chứng từ liên quan đến quyền tài sản.
 
Khoản 7 Điều 6 của Thông tư số 08/2018/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 20 tháng 6 năm 2018 hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện pháp bảo đảm tại các trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp (Thông tư 08) quy định: “các quyền tài sản theo quy định tại Điều 115 BLDS, trừ quyền sử dụng đất, gồm:
 
a) Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng; quyền đòi nợ; quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên; quyền được bồi thường thiệt hại phát sinh từ hợp đồng;
 
b) Quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng thuê đóng tàu biển; quyền bồi thường thiệt hại phát sinh từ hợp đồng mua bán tàu bay, tàu biển; quyền thụ hưởng bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm đối với tàu bay, tàu biển;
 
c) Các quyền tài sản là quyền đòi nợ, quyền yêu cầu thanh toán, quyền được bồi thường thiệt hại, quyền thụ hưởng bảo hiểm phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng góp vốn xây dựng nhà ở, hợp đồng hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh nhà ở, hợp đồng cho thuê, hợp đồng cho thuê mua nhà ở (bao gồm cả nhà ở xã hội) giữa tổ chức với cá nhân hoặc giữa tổ chức, cá nhân với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong dự án xây dựng nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở; các quyền tài sản là quyền đòi nợ, quyền yêu cầu thanh toán, quyền được bồi thường thiệt hại, quyền thụ hưởng bảo hiểm phát sinh từ hợp đồng mua bán, hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh, hợp đồng cho thuê, hợp đồng cho thuê mua công trình xây dựng giữa tổ chức với cá nhân hoặc giữa tổ chức, cá nhân với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong dự án xây dựng công trình theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản;
 
d) Quyền tài sản khác theo quy định của pháp luật”.
 
Các quyền tài sản trên đây là các quyền tài sản có thể được theo yêu cầu đăng ký tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp. Tuy danh sách các quyền tài sản này chi tiết hơn danh sách nêu tại Điều 115 của BLDS, song cũng vẫn là một danh sách mở. Có thể thấy, ngoài quyền sử dụng đất, các quyền tài sản được ghi nhận rõ ràng trong danh sách này vẫn chỉ là quyền đòi nợ và quyền phát sinh từ hợp đồng.
 
Liên quan đến biện pháp bảo đảm bằng quyền tài sản, điều dễ nhận thấy là do quyền tài sản không thể chuyển giao về mặt vật chất (do không thể chiếm hữu được chúng) nên không thể trở thành đối tượng của cầm cố mà chỉ có thể được thế chấp5. Cầm cố đặt ra yêu cầu giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố (Điều 309 BLDS) trong khi đó, bên thế chấp không giao tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp (khoản 1 Điều 317 BLDS).
 
Khoản 2 Điều 319 BLDS 2015 quy định: “thế chấp tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”. Thời điểm đăng ký sẽ là cơ sở để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm bằng quyền tài sản (Điều 308 BLDS). Như nêu ở trên, việc thế chấp quyền tài sản ngoài quyền sử dụng đất sẽ được đăng ký tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp.
 
2. Đặc điểm pháp lý của các quyền tài sản là đối tượng của biện pháp thế chấp
 
Có thể rút các đặc điểm pháp lý cơ bản của quyền tài sản là đối tượng của hợp đồng thế chấp như sau:
 
Thứ nhất, quyền tài sản thế chấp phải thuộc sở hữu của bên thế chấp. Để sử dụng quyền tài sản làm tài sản thế chấp, bên thế chấp phải là chủ sở hữu của quyền tài sản đó, bởi chỉ có chủ sở hữu mới có quyền dùng tài sản của mình thế chấp (khoản 1 Điều 295 và khoản 1 Điều 317 BLDS) để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc của người khác. 
 
Thứ hai, quyền tài sản thế chấp luôn tồn tại dưới dạng vô hình. Khác với tài sản tồn tại dưới dạng vật chất hữu hình mà con người có thể nhận biết được qua các giác quan, các quyền tài sản luôn tồn tại dưới dạng vô hình, con người không thể nhận biết được thông qua các giác quan mà chỉ biết đến sự tồn tại của chúng thông qua các thông tin liên quan đến tài sản (các thông tin này có thể được đăng ký hoặc không đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền). 
 
Thứ ba, quyền tài sản là đối tượng của biện pháp thế chấp phải có thể chuyển giao được cho chủ thể khác. Xuất phát từ bản chất của biện pháp thế chấp nhằm đảm bảo thực hiện cho nghĩa vụ của bên thế chấp hoặc của một bên thứ ba đối với bên nhận thế chấp; khi có căn cứ xử lý thế chấp, BLDS cho phép bên nhận thế chấp được xử lý tài sản thế chấp thông qua hai phương thức chính là bán tài sản thế chấp để thanh toán cho nghĩa vụ được bảo đảm hoặc nhận chính tài sản thế chấp để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm (Điều 303 BLDS). Để có thể áp dụng các phương thức xử lý này thì quyền tài sản là đối tượng của hợp đồng thế chấp phải có hai đặc trưng sau: 
 
Một là, quyền tài sản được thế chấp không phải là quyền tài sản mà luật cấm hoặc hạn chế chuyển dịch quyền sở hữu, ví dụ: hạn chế chuyển nhượng cổ phần nêu trong Luật doanh nghiệp. 
 
Hai là, quyền tài sản thế chấp không phải là những quyền tài sản có gắn với yếu tố nhân thân. Các quyền tài sản gắn với yếu tố nhân thân như: quyền yêu cầu cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm… không thể chuyển giao thông qua các giao dịch dân sự, do đó không thể được sử dụng làm tài sản thế chấp.
 
Thứ tư, quyền tài sản là đối tượng của hợp đồng thế chấp cần được xác định cụ thể trong hợp đồng thế chấp. Theo quy định tại khoản 2 Điều 295 của BLDS, “tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được”. Việc xác định chính xác tài sản thế chấp có vai trò rất quan trọng trong quá trình thế chấp nói chung, đặc biệt là khi xử lý tài sản thế chấp. Trong những hợp đồng thế chấp có đối tượng là tài sản hữu hình, tính xác định được của tài sản thế chấp thể hiện ở chỗ các bên có thể mô tả chính xác trong hợp đồng tài sản thế chấp là động sản hay bất động sản, người đang thực tế chiếm hữu, quản lý tài sản, xác định giá trị của tài sản đó tại thời điểm xác lập hợp đồng hoặc phương thức xác định giá của tài sản khi cần xử lý tài sản thế chấp… Còn trong những hợp đồng thế chấp quyền tài sản, các bên phải xác định chính xác chủ thể quyền tài sản là ai, chủ thể có nghĩa vụ đối với quyền tài sản đó hay không (nếu đó là quyền yêu cầu trả thanh toán) để đảm bảo tính toàn vẹn của tài sản; những giấy tờ, văn bằng bảo hộ đã được đăng ký (nếu đó là quyền sở hữu trí tuệ); giấy chứng nhận quyền sử dụng hợp pháp (nếu đối tượng hợp đồng là quyền sử dụng đất); các giấy tờ pháp lý hợp pháp liên quan đến tài sản (trường hợp thế chấp phần vốn góp).
 
Thứ năm, quyền của bên nhận thế chấp xác lập trên quyền tài sản thế chấp không bị chấm dứt hoặc vô hiệu bởi các giao dịch được thiết lập sau đó liên quan đến quyền tài sản được thế chấp. Pháp luật phải ghi nhận một cách rõ ràng quyền của bên nhận thế chấp đối với tài sản thế chấp kể từ khi giao dịch bảo đảm được xác lập hợp pháp. Các quyền này đối kháng lại tất cả các quyền của các chủ thể khác xác lập lên tài sản bảo đảm sau đó. Việc thừa nhận nguyên tắc này sẽ làm cơ sở để xây dựng các quy định của pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản nói chung hay thế chấp quyền tài sản nói riêng. Bởi vì trong thời hạn thế chấp, xuất phát từ yếu tố chủ quan (người thế chấp cố tình tẩu tán tài sản khi không có khả năng thanh toán nghĩa vụ đến hạn) hoặc khách quan (tài sản bảo đảm phải được xử lý để thanh toán các khoản nợ đến hạn khi doanh nghiệp là bên thế chấp phá sản…) mà có nhiều giao dịch dân sự được xác lập trên tài sản thế chấp, dẫn đến việc xung đột lợi ích giữa các chủ thể là điều không thể tránh khỏi. Pháp luật với vai trò là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội phải có cơ chế rõ ràng bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể, đặc biệt là của bên thế chấp.
 
Từ các phân tích ở trên có thể thấy, quyền tài sản là một loại tài sản khá đặc thù và việc sử dụng loại tài sản này làm tài sản bảo đảm không phải lúc nào cũng dễ dàng. Chỉ có điều hiện các quy định của BLDS về thế chấp tài sản dường như chỉ hướng đến các tài sản hữu hình mà chưa thực sự phù hợp với các quyền tài sản. Cần xây dựng một hệ thống các quy định riêng cho chế định pháp lý này để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác lập, quản lý và xử lý thế chấp loại tài sản đặc biệt này.
 
[1] Louise Gullifer (ed), “Goode on Legal Problems of Credit and Security”, Sweet & Maxwell, 5th edn, 2013, para.3-01.
[2] Quyền tài sản đã được ghi nhận trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự 2005.
[3]  Về điểm này và rộng hơn về các biện pháp bảo đảm bằng động sản, xem thêm Bùi Đức Giang, “Pháp luật về bảo đảm khoản vay bằng động sản”, Tạp chí Ngân hàng, số 22, tháng 11/2018, trang 27-31.
4 Điều 18 của Luật sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 được bổ sung, sửa đổi năm 2009 (Luật sở hữu trí tuệ): “quyền tác giả đối với tác phẩm quy định tại Luật này bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản”. 
5 Về biện pháp thế chấp tài sản, xem thêm Bùi Đức Giang, “Xác lập hợp đồng thế chấp tài sản theo Bộ luật dân sự”, Tạp chí Ngân hàng, số 4, tháng 2/2019, trang 13 - 15.

TS. Bùi Đức Giang
ThS. Nguyễn Hoàng Long


Nguồn: TCNH số 11/2019
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Thực hiện tăng trưởng xanh - Tiền đề cho phát triển bền vững của Việt Nam
Thực hiện tăng trưởng xanh - Tiền đề cho phát triển bền vững của Việt Nam
12/04/2024 560 lượt xem
Phát triển bền vững đang là mục tiêu quan trọng của Việt Nam trong những năm qua và trong tương lai, theo đó tăng trưởng xanh với sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường chính là tiền đề để thực hiện mục tiêu này.
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
10/04/2024 596 lượt xem
Bài viết đề xuất một số khuyến nghị về xây dựng, thực thi chính sách tín dụng liên kết bền vững để góp phần đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và chiến lược phát triển bền vững tại Việt Nam...
Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
05/04/2024 906 lượt xem
Nghiên cứu trình bày về tầm quan trọng của ESG (Environmental - môi trường, Social - xã hội, Governance - quản trị) trong quá trình phát triển bền vững của ngân hàng, thực tiễn triển khai các hoạt động về ESG, các kết quả đạt được và thách thức, từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy triển khai ESG trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.
Tác động của minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Tác động của minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
03/04/2024 837 lượt xem
Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu tác động của tính minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate social responsibility - CSR) đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng.
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
02/04/2024 834 lượt xem
Bài viết dựa trên cơ sở tổng quan về giám sát tài chính, tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới để rút ra một số bài học và khuyến nghị đối với công tác giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước tại Việt Nam hiện nay.
Kinh nghiệm thực thi chính sách tài chính khí hậu trên thế giới và một số khuyến nghị cho Việt Nam
Kinh nghiệm thực thi chính sách tài chính khí hậu trên thế giới và một số khuyến nghị cho Việt Nam
01/04/2024 901 lượt xem
Một trong những vấn đề khó khăn nhất hiện nay đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, đó là việc thiếu nguồn lực tài chính để ứng phó với biến đổi khí hậu, hay còn gọi là tài chính khí hậu...
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/03/2024 992 lượt xem
Để nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ NHNN phù hợp thông lệ quốc tế và các quy định về kiểm toán nội bộ của Việt Nam, một trong những yêu cầu hiện nay là nghiên cứu, rà soát, ban hành Sổ tay Kiểm toán nội bộ NHNN nhằm tập hợp, hệ thống hóa các quy định chung về kiểm toán nội bộ của NHNN.
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
25/03/2024 1.386 lượt xem
Trong kỉ nguyên số, Chatbot đóng vai trò vô cùng quan trọng và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, trong đó có lĩnh vực ngân hàng.
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
22/03/2024 2.069 lượt xem
Trong thị trường kinh tế, giao dịch phái sinh là một dạng hợp đồng dựa trên giá trị các loại tài sản cơ sở khác nhau như hàng hóa, chỉ số, lãi suất hay cổ phiếu (giấy tờ có giá).
Văn hóa số và lộ trình xây dựng
Văn hóa số và lộ trình xây dựng
11/03/2024 2.445 lượt xem
Hiện nay, quyết liệt chuyển đổi số, tạo dựng hệ sinh thái ngân hàng mở, tạo ra nền tảng phát triển bán lẻ, tăng doanh thu dịch vụ, gia tăng trải nghiệm của khách hàng là xu hướng chủ đạo của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Nhìn từ bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay
Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Nhìn từ bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay
07/03/2024 3.190 lượt xem
Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ quốc gia có thu nhập thấp sang quốc gia có thu nhập trung bình. Song, những khó khăn nội tại và thách thức bên ngoài của nền kinh tế làm cho nguy cơ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình là có thể.
Động lực và kì vọng mới cho tương lai
Động lực và kì vọng mới cho tương lai
07/03/2024 2.322 lượt xem
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và phu nhân Lê Thị Bích Trân cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã bắt đầu chuyến công tác tham dự Hội nghị cấp cao đặc biệt kỷ niệm 50 năm quan hệ ASEAN - Australia; thăm chính thức Australia và New Zealand từ ngày 05 - 11/3/2024 theo lời mời của Thủ tướng Australia Anthony Albanese và Thủ tướng New Zealand Christopher Luxon.
Vai trò, tầm quan trọng của ESG trong phát triển bền vững tại ngân hàng thương mại Việt Nam
Vai trò, tầm quan trọng của ESG trong phát triển bền vững tại ngân hàng thương mại Việt Nam
05/03/2024 4.024 lượt xem
Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp đang dần chú trọng hơn đến sự phát triển bền vững như một hướng đi quan trọng trong hoạt động kinh doanh.
Nâng cao chất lượng đào tạo thông qua việc gắn chặt đào tạo cơ bản với đào tạo thực tế tại Học viện Ngân hàng
Nâng cao chất lượng đào tạo thông qua việc gắn chặt đào tạo cơ bản với đào tạo thực tế tại Học viện Ngân hàng
21/02/2024 2.816 lượt xem
Mô hình Ba Nhà là một mô hình nổi tiếng nêu bật sự gắn liền chặt chẽ giữa đào tạo lí thuyết và đào tạo thực tế, thông qua mối quan hệ giữa cơ sở giáo dục đại học, doanh nghiệp và chính phủ với tiềm năng đổi mới và phát triển kinh tế trong một xã hội tri thức.
Triển khai ESG trong lĩnh vực ngân hàng góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững
Triển khai ESG trong lĩnh vực ngân hàng góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững
20/02/2024 3.345 lượt xem
Chuyển dịch sang nền kinh tế phát thải carbon thấp, kinh tế tuần hoàn, hướng tới phát triển bền vững đang trở thành một xu hướng tất yếu, là ưu tiên của nhiều quốc gia trên thế giới để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.600

83.800

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.600

83.800

Vàng SJC 5c

81.600

83.820

Vàng nhẫn 9999

74.600

76.500

Vàng nữ trang 9999

74.500

75.800


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,840 25,210 25,979 27,404 30,388 31,680 158.15 167.39
BIDV 24,900 25,210 26,203 27,415 30,548 31,831 158.92 167.39
VietinBank 24,820 25,240 26,238 27,533 30,851 31,861 159.86 167.81
Agribank 24,830 25,180 26,104 27,377 30,482 31,615 158.96 166.90
Eximbank 24,830 25,220 26,288 27,038 30,716 31,593 160.73 165.32
ACB 24,870 25,250 26,372 27,023 30,957 31,594 160.38 165.49
Sacombank 24,860 25,250 26,466 26,999 31,022 31,540 161.14 166.17
Techcombank 24,887 25,239 26,076 27,427 30,445 31,761 156.36 168.78
LPBank 24,620 25,200 25,957 27,489 30,806 31,749 158.37 169.79
DongA Bank 24,910 25,240 26,310 26,970 30,780 31,600 158.40 165.40
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?