Điểm nhấn, triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2023
27/10/2023 2.134 lượt xem
Việt Nam - Điểm sáng trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế và thương mại toàn cầu chậm lại
 
Theo số liệu tháng 9/2023 của nhiều tổ chức quốc tế, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 được điều chỉnh tăng nhẹ so với dự báo, nhưng vẫn thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng năm 2022. (Hình 1)

   Hình 1: Đánh giá tăng trưởng toàn cầu năm 2022 
và dự báo năm 2023 của các tổ chức quốc tế

Nguồn: EU, OECD, IMF, Fitch Ratings và WB

Theo dự báo, tăng trưởng chung của kinh tế thế giới sẽ đạt từ 2,5% GDP  (theo tổ chức xếp hạng tín dụng Fitch Ratings) đến 3% GDP (theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF); Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)), thấp hơn so với mức tăng 3,3 - 3,5% của năm 2022. Liên minh châu Âu (EU) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 đạt 3,2%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 5/2023; thậm chí, Ngân hàng Thế giới (WB) bi quan hơn khi cho rằng, tăng trưởng toàn cầu sẽ chỉ ở mức 2,1% trong năm 2023 (dù đã điều chỉnh tăng 0,4 điểm phần trăm so với dự báo đầu năm 2023); các nền kinh tế phát triển chỉ tăng trưởng 0,7% GDP; các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi sẽ đạt 4% GDP.
 
Theo báo cáo Triển vọng kinh tế Đông Nam Á, Trung Quốc và Ấn Độ 2023, cập nhật tháng 9/2023 của OECD, tăng trưởng GDP năm 2023 của Philippines là 5,6%; Indonesia sẽ là 4,7%; Malaysia đạt 3,9%; Thái Lan đạt 2,8% và Singapore đạt 1,4%. (Bảng 1)

Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2022 và dự báo năm 2023 
của toàn cầu và một số quốc gia trên thế giới

                                                                                                           Đơn vị tính: %
Nguồn: OECD, IMF, ADB và FR, cập nhật ngày 26/9/2023
 
IMF nhận định tăng trưởng thương mại thế giới sẽ giảm từ 5,2% năm 2022 xuống 2,0% năm 2023, thấp hơn nhiều so với mức trung bình 4,9% của giai đoạn 2000 - 2019. Suy giảm thương mại phản ánh nhu cầu toàn cầu giảm, gia tăng cơ cấu dịch vụ trong nước, tác động trễ của tăng giá đồng đô la Mỹ và gia tăng các rào cản thương mại toàn cầu. Lạm phát toàn cầu dự kiến sẽ giảm từ mức 8,7% trong năm 2022 xuống còn 6,8% năm 2023, khi lạm phát trung bình ở phần lớn các nền kinh tế trên thế giới dự kiến giảm trong năm 2023. Chính sách tiền tệ thắt chặt tiếp tục tạo áp lực cho một số ngân hàng, cả trực tiếp (thông qua chi phí huy động vốn cao hơn) và gián tiếp (do rủi ro tín dụng ngày càng tăng).  Lãi suất thực tăng ở hầu hết các nền kinh tế, ngoại trừ Nhật Bản và chính sách khuyến khích tiết kiệm ở các nền kinh tế khiến đầu tư trở nên đắt đỏ hơn. Việc cho vay của ngân hàng đã chậm lại đáng kể ở các nền kinh tế tương đối phụ thuộc vào ngân hàng, đặc biệt là đối với các hộ gia đình. Số lượng vị trí tuyển dụng giảm, áp lực an sinh xã hội gia tăng.
 
Cơ quan Năng lượng Quốc tế dự báo biến động tiềm ẩn của giá dầu thô trong thời gian tới gồm: Triển vọng không chắc chắn về nguồn cung từ Nga do việc thực hiện các lệnh trừng phạt dầu mỏ từ Ả-Rập Xê-út, OPEC+ và tốc độ phục hồi của Trung Quốc.
 
Về tổng thể, nền kinh tế toàn cầu năm 2023 vẫn bấp bênh trong bối cảnh chịu tác động kéo dài của các cú sốc tiêu cực chồng chéo, như đại dịch Covid-19; xung đột giữa Nga - Ukraine và chính sách thắt chặt tiền tệ của các nước phát triển nhằm kiềm chế lạm phát và hướng tới tài chính công bền vững; xu hướng thu hẹp tiêu dùng và sụt giảm lượng đơn hàng xuất khẩu; những vấn đề về cơ cấu kinh tế và sự suy giảm mạnh thị trường bất động sản... Giá năng lượng cao và tăng lãi suất cùng với hoạt động kinh tế chậm lại ở các nền kinh tế phát triển có thể dẫn đến gia tăng các khoản nợ xấu, làm giảm giá trị tài sản dài hạn. Sự kết hợp giữa giá nhà giảm và thị trường việc làm yếu có thể làm tăng tình trạng vỡ nợ thế chấp, gây áp lực lên lợi nhuận của các ngân hàng, dẫn tới tăng chi phí đi vay, hạn chế dư địa dành cho chi tiêu ưu tiên và làm tăng nguy cơ khủng hoảng nợ. Tăng trưởng tiềm năng toàn cầu dự kiến sẽ giảm xuống mức thấp nhất trong ba thập kỉ, đạt 2,2% trong thời gian còn lại của thập niên 2020 gắn với lực lượng lao động toàn cầu đang già đi và tăng trưởng chậm hơn, tốc độ tăng trưởng đầu tư và năng suất các nhân tố tổng hợp ngày càng giảm; sự phân mảnh địa kinh tế ngày càng sâu sắc, với nhiều hạn chế hơn về thương mại, dịch chuyển vốn xuyên biên giới, công nghệ, lao động và thanh toán quốc tế có thể làm gia tăng biến động về giá cả hàng hóa và cản trở sự hợp tác đa phương trong việc cung cấp hàng hóa công toàn cầu. Ngoài ra, nền kinh tế toàn cầu ngày càng dễ bị tổn thương trước những cú sốc do biến đổi khí hậu.
 
Trong báo cáo Triển vọng phát triển châu Á tháng 9/2023, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) nhận định, tăng trưởng của khu vực Đông Nam Á năm 2023 đạt 4,6%, trong đó, tăng trưởng GDP của Philippines là 5,7%; Campuchia 5,3%; Indonesia là 5,0%; Malaysia là 4,5%; Lào là 3,7%; Thái Lan là 3,5%; Brunei và Myanmar đều 2,8%, còn Singapore đạt 1%.
 
Trong bối cảnh khó khăn chung nêu trên, các dự báo cập nhật tháng 9/2023 của các tổ chức quốc tế về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam so với các dự báo trước đây đều giảm. OECD dự báo tăng trưởng GDP năm 2023 của Việt Nam đạt 4,9%, điều chỉnh giảm 1,5 điểm phần trăm so với dự báo tháng 3/2023. WB và IMF dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng 4,7% năm 2023, điều chỉnh giảm lần lượt 1,3 điểm phần trăm so với dự báo tháng 6/2023 và 1,1 điểm phần trăm so với dự báo tháng 4/2023.
 
Đặc biệt, theo ADB, tăng trưởng năm 2023 của Việt Nam đạt 5,8% GDP, cao nhất Đông Nam Á (dù đã điều chỉnh giảm 0,7 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2023) và sẽ tăng 6,0% GDP trong năm 2024; lạm phát sẽ ở mức 3,8% cho năm 2023 và 4,0% cho năm 2024. Theo Giám đốc Quốc gia của ADB tại Việt Nam, môi trường bên ngoài yếu đã ảnh hưởng tiêu cực tới lĩnh vực sản xuất định hướng xuất khẩu của Việt Nam, làm thu hẹp sản xuất công nghiệp... Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn vững vàng và dự kiến sẽ phục hồi nhanh trong tương lai gần nhờ tiêu dùng trong nước mạnh, được hỗ trợ bởi lạm phát ở mức vừa phải, tăng tốc giải ngân vốn đầu tư công và cải thiện các hoạt động thương mại, cũng như các lĩnh vực khác được dự báo tăng trưởng lành mạnh. Lĩnh vực dịch vụ được kì vọng tiếp tục mở rộng nhờ sự hồi sinh của ngành du lịch và sự phục hồi của các dịch vụ liên quan. Nông nghiệp sẽ được hưởng lợi từ giá lương thực tăng và dự kiến tăng trưởng 3,2% trong năm 2023 và năm tiếp theo. Tiêu dùng nội địa sẽ được hỗ trợ bởi lạm phát ở mức vừa phải và tiếp tục tăng trưởng trong các tháng còn lại của năm. Đầu tư công sẽ là động lực chính cho phục hồi và tăng trưởng kinh tế trong năm 2023. Trong những tháng gần đây, với những giải pháp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), nguồn tài chính dành cho các lĩnh vực bất động sản, xây dựng dự kiến sẽ được nới lỏng, qua đó sẽ hỗ trợ cho đầu tư tư nhân từng bước phục hồi từ năm 2024 trở đi. Lĩnh vực chế biến, chế tạo sẽ vẫn là động lực chính thúc đẩy hoạt động kinh tế của đất nước và những trở ngại đối với xuất khẩu được dự báo sẽ giảm dần từ cuối năm 2023 đến năm 2024, khi nền kinh tế Hoa Kỳ và EU bắt đầu phục hồi.
 
 Ngày 05/9/2023, trong cuộc gặp với Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) Klaus Schwab đánh giá Việt Nam là điểm sáng của tăng trưởng kinh tế sau đại dịch Covid-19 nhờ cách tiếp cận toàn diện về quản lí kinh tế vĩ mô, giúp đưa nền kinh tế vượt qua các thách thức của bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay. Việt Nam đã kí kết Bản ghi nhớ về hợp tác giữa Việt Nam và WEF giai đoạn 2023 - 2026 để triển khai hiệu quả cả 06 lĩnh vực hợp tác, gồm: Đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực lương thực - thực phẩm, phát triển kĩ năng đổi mới sáng tạo và chuyển đổi xanh; cụm công nghiệp hướng tới phát thải ròng bằng “0”; thúc đẩy hợp tác hạn chế rác thải nhựa; tài chính cho chuyển đổi năng lượng và hợp tác chuyển đổi số và thúc đẩy thành lập Trung tâm Cách mạng công nghiệp lần thứ tư...
 
Những khó khăn, giải pháp và triển vọng kinh tế Việt Nam 2023
 
Trên thực tế, trong 9 tháng năm 2023, hoạt động sản xuất, kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp gặp vô vàn khó khăn, gắn với bối cảnh chung của kinh tế thế giới nêu trên, nổi bật là tình trạng đơn hàng xuất khẩu sụt giảm mạnh trong các ngành công nghiệp chế biến, dệt may, da giầy và đồ gỗ...
 
Theo báo cáo của Hiệp hội da giầy, kim ngạch xuất khẩu da giầy của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2023 giảm 15,9% so với năm 2022; trong đó, xuất sang thị trường Bắc Mỹ giảm 30,2%, thị trường châu Âu giảm 13,8%, còn xuất sang thị trường châu Á, Nam Mỹ và châu Đại Dương lần lượt tăng 9,4%, 2,5% và 1,4%. Đặc biệt, xuất khẩu sang ASEAN có mức tăng trưởng cao nhất là 52,6%; xuất sang thị trường các nước tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA) tăng lần lượt là 3,2% và 3,7%; xuất sang thị trường các nước tham gia Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU) sụt giảm tới 75,4% và xuất sang thị trường các nước tham gia Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) giảm 16%.
 
Cùng với suy giảm đơn hàng, thu hẹp thị trường tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp lâm vào tình cảnh cạn kiệt nguồn vốn, trong khi trái phiếu doanh nghiệp đến kì đáo hạn, vốn vay ngân hàng đến kì phải trả, việc hoàn thuế và dòng tiền về chậm, áp lực giá và chi phí đầu vào cao, nhất là tăng lãi suất tín dụng, khiến nhiều doanh nghiệp lao đao, sản xuất cầm chừng... Ngoài ra, Việt Nam còn phải đối mặt với hàng trăm vụ việc phòng vệ thương mại do các nước khởi kiện; trong đó, các vụ kiện chống bán phá giá là 128 vụ, chiếm 55,4%.
 
Bám sát phương châm: "Đoàn kết, kỷ cương - Bản lĩnh, linh hoạt - Đổi mới sáng tạo - Kịp thời, hiệu quả", từ đầu năm 2023 đến nay, nhiều chính sách, giải pháp đã được Quốc hội, Chính phủ và các địa phương khẩn trương ban hành, nổi bật là Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 06/01/2023 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023; Nghị định số 12/2023/NĐ-CP ngày 14/4/2023 của Chính phủ về giãn, hoãn thuế, tiền thuê đất, giảm một số thuế, phí với tổng quy mô gói hỗ trợ khoảng 198,4 nghìn tỉ đồng; Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 01/3/2023 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc đặc biệt là về thể chế, tổ chức thực hiện và nguồn vốn cho thị trường bất động sản; Công điện số 280/CĐ-TTg ngày 19/4/2023 của Thủ tướng Chính phủ nhằm chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế, tăng cường trách nhiệm, đẩy mạnh tinh thần dám nói, dám nghĩ, dám làm của một bộ phận cán bộ, công chức tại các bộ, ngành, cơ quan trung ương, địa phương; Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 21/4/2023 của Chính phủ về hỗ trợ doanh nghiệp; Nghị quyết giảm 2% thuế giá trị gia tăng được Quốc hội thông qua và thực hiện từ ngày 01/7/2023; NHNN cũng sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ tiền tệ, tín dụng nhằm vừa kiểm soát lạm phát, vừa hỗ trợ doanh nghiệp...
 
Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, các giải pháp đã được ban hành và triển khai thực hiện đúng thời điểm như: Thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công; giảm mặt bằng lãi suất cho vay, ổn định thị trường ngoại hối; gia tăng các gói tín dụng hỗ trợ các ngành, lĩnh vực; miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, tiền sử dụng đất, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, cơ cấu thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ để hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn; nới lỏng một số điều kiện cho vay, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng, góp phần tháo gỡ khó khăn hiện tại của thị trường trái phiếu doanh nghiệp và các khoản cho vay bất động sản; đồng thời, nâng thời hạn visa điện tử cho khách du lịch... Tất cả hợp lực tác động trực tiếp làm tăng tổng cầu và đa dạng hóa thị trường tiêu thụ, giải quyết lượng hàng tồn kho, nợ đọng vốn, hỗ trợ doanh nghiệp từng bước phục hồi, mở rộng sản xuất, đảm bảo ổn định việc làm cho người lao động; khắc phục tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm trong giải quyết công việc; bảo đảm kỉ luật, kỉ cương hành chính và nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành, với mục tiêu tháo gỡ rào cản về pháp lí, khắc phục các điểm nghẽn và bất cập của nền kinh tế, tạo hiệu ứng tích cực và niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp, các hộ sản xuất, kinh doanh nhằm khơi thông nguồn lực cho đầu tư sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế. 
 
Tất cả đã góp phần duy trì động lực và đà tăng trưởng kinh tế quý sau cao hơn quý trước (GDP quý I/2023 tăng 3,28%; quý II/2023 tăng 4,05%; quý III/2023 tăng 5,33%) và  bình quân 9 tháng năm 2023 GDP tăng 4,24% so với cùng kì năm trước. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,43%, đóng góp 9,16%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 2,41%, đóng góp 22,27% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Khu vực dịch vụ tăng 6,32%, đóng góp 68,57%, trong đó tăng trưởng của một số ngành dịch vụ thị trường đạt mức khá: Bán buôn, bán lẻ tăng 8,04%; vận tải kho bãi tăng 8,66%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 13,17%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,91%; xuất siêu 21,68 tỉ USD hàng hóa; CPI bình quân 9 tháng ở mức 3,16%, dự báo lạm phát bình quân cả năm 2023 trong khoảng 3,5 - 4%, thấp hơn mục tiêu đã được Quốc hội thông qua. Thu ngân sách Nhà nước ước tính đạt 1223,8 nghìn tỉ đồng, bằng 75% dự toán năm, góp phần đảm bảo cân đối thu - chi, giữ vững ổn định ngân sách nhà nước; đầu tư công ngày càng được đẩy nhanh, nhất là từ quý III/2023, tạo cơ sở hoàn thành mục tiêu giải ngân 95% kế hoạch đầu tư công của cả năm 2023.
 
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,7% so với cùng kì năm trước. Vận chuyển hành khách tăng 13,1% và luân chuyển tăng 27,9%; vận chuyển hàng hóa tăng 14,6% và luân chuyển tăng 12,5%. Khách quốc tế đến Việt Nam 9 tháng năm 2023 ước đạt 8,9 triệu lượt khách, gấp 4,7 lần cùng kì năm 2022. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tăng 5,9%, trong đó vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước đạt 57,4% kế hoạch, tăng 23,5%. Lao động có việc làm và thu nhập bình quân của người lao động 9 tháng năm 2023 tăng so với cùng kì năm trước; công tác bảo đảm an sinh xã hội được các cấp, các ngành thực hiện kịp thời, hiệu quả.
 
Theo Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2023 (Global Innovation Index 2023) của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) công bố ngày 27/9/2023, Việt Nam được xếp hạng 46/132 quốc gia, nền kinh tế, tăng 02 bậc so với năm 2022; trong đó, thứ hạng đầu vào đổi mới sáng tạo, tăng 02 bậc so với năm 2022, từ vị trí 59 lên 57 (đầu vào đổi mới sáng tạo gồm 05 trụ cột: Thể chế, nguồn nhân lực và nghiên cứu; cơ sở hạ tầng; trình độ phát triển của thị trường; trình độ phát triển của doanh nghiệp). Đầu ra đổi mới sáng tạo tăng 01 bậc so với năm 2022, từ vị trí 41 lên 40 (đầu ra đổi mới sáng tạo gồm 02 trụ cột: Sản phẩm tri thức và công nghệ, sản phẩm sáng tạo). Việt Nam duy trì vị trí thứ hai (chỉ sau Ấn Độ) trong nhóm các quốc gia thu nhập trung bình thấp. Đáng chú ý là Việt Nam xếp hạng 55/181 quốc gia toàn cầu và xếp thứ 6/10 trong ASEAN về chỉ số sẵn sàng trí tuệ nhân tạo (AI) trong báo cáo “Chỉ số sẵn sàng AI của chính phủ (Government AI Readiness Index) năm 2022” do Oxford Insights (Vương quốc Anh) thực hiện. 
 
Cộng đồng thế giới cũng đánh giá cao Việt Nam trong thúc đẩy thương mại quốc tế và cam kết mở rộng đầu tư vào Việt Nam trong thời gian tới. Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng kí vào Việt Nam tính đến ngày 20/9/2023 bao gồm: Vốn đăng kí cấp mới, vốn đăng kí điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 20,21 tỉ USD, tăng 7,7% so với cùng kì năm trước (trong đó, có 2.254 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đăng kí đầu tư nước ngoài với số vốn đạt 10,23 tỉ USD, tăng 66,3% về số dự án và tăng 43,6% về số vốn so với cùng kì năm 2022). Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 9 tháng năm 2023 ước đạt 15,91 tỉ USD, tăng 2,2% so với cùng kì năm trước. Đây là số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện cao nhất của 9 tháng trong 5 năm qua. Tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 416,8 triệu USD, tăng 4,6% so với cùng kì năm trước.
 
Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, khả năng Việt Nam sẽ tăng trưởng cả năm 2023 từ 5,0 - 6% GDP, phụ thuộc vào tốc độ phục hồi sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo; sự gia tăng nhu cầu tại các thị trường xuất khẩu lớn, chủ lực của Việt Nam, hoạt động du lịch, tiêu dùng trong nước trong dịp cuối năm và cận kề Tết Nguyên đán 2024...
 
Chúng ta đã đi được ¾ chặng đường của năm 2023, kết quả đạt được là tích cực và đáng ghi nhận, song trước mắt còn nhiều khó khăn, thách thức. Để phấn đấu đạt kết quả tăng trưởng cao nhất trong quý IV/2023, đặc biệt là tạo đà cho năm 2024 và các năm tiếp theo rất cần sự chủ động, nỗ lực, quyết tâm cao của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương trong việc tiếp tục triển khai nhanh, hiệu quả các chủ trương, chính sách của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị; các Luật, Nghị quyết được Quốc hội thông qua tại kì họp thứ 5; tập trung tổ chức, thực thi một cách quyết liệt, tổng thể và đồng bộ từ tất cả các cấp, ngành, địa phương giải pháp, chính sách đã ban hành để hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, các ngành, lĩnh vực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là các chính sách về thuế, phí, tiền tệ, thương mại, đầu tư; tập trung thúc đẩy thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu; kịp thời thông tin về thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng nhanh, kịp thời các tiêu chuẩn mới của nước đối tác xuất khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu các nhóm hàng chủ lực, tranh thủ cơ hội xuất khẩu từ các Hiệp định Thương mại tự do đã kí kết, đẩy nhanh đàm phán đã kí kết; đẩy mạnh rà soát, sửa đổi, hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy định pháp luật, cải cách hành chính, thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới của nền kinh tế, tranh thủ các cơ hội mới từ quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ để thu hút các tập đoàn đa quốc gia: Đầu tư, hợp tác hình thành hệ sinh thái chíp, bán dẫn, sản xuất linh kiện, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, đào tạo nhân lực công nghệ cao; giảm nhập siêu dịch vụ (theo Tổng cục Thống kê, giảm 10% nhập siêu dịch vụ sẽ làm GDP tăng 0,36%); tăng cường hội nhập quốc tế sâu, rộng, thực chất, hiệu quả; bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ người lao động, bảo đảm đời sống người dân; tăng cường công tác thông tin, truyền thông chính sách, củng cố niềm tin của doanh nghiệp, nhà đầu tư, người dân vào sự chuyển biến tích cực của nền kinh tế; sự lãnh đạo, quyết sách của Đảng, Quốc hội, công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương.

Tài liệu tham khảo:
 
1. EU (2023), “Báo cáo Dự báo kinh tế mùa hè 2023”, https://economy-finance.ec.europa.eu/system/files/2023-09/ip255_en.pdf  
2. OECD (2023), “Báo cáo Triển vọng kinh tế sơ bộ: Đối mặt với lạm phát và tăng trưởng thấp”, https://www.oecd.org/economic-outlook/september-2023
3. IMF (2023), “Báo cáo cập nhật triển vọng kinh tế thế giới: Khả năng phục hồi trong ngắn hạn, những thách thức dai dẳng”, https://www.imf.org/en/Publications/WEO/Issues/2023/07/10/world-economic-outlook-update-july-2023
4. Fitch Ratings (2023), “Báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu”, https://www.fitchratings.com/research/sovereigns/global-economic-outlook-september-2023
5. WB (2023), “Báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 6/2023: Tăng trưởng yếu, rủi ro tài  chính”, 
https://www.worldbank.org/en/publication/global-economic-prospects
6. ADB (2023), “Báo cáo triển vọng phát triển châu Á, tháng 9/2023”, https://www.adb.org/sites/default/files/publication/908126/asian-development-outlook-september-2023.pdf
7. Trading Economics (2023), https://tradingeconomics.com/united-states/forecast 
8. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2023/09/tong-quan-du-bao-tinh-hinh-kinh-te-the-gioi-quy-iii-va-ca-nam-2023/

TS. Nguyễn Minh Phong (Hà Nội)

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024 và triển vọng
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024 và triển vọng
26/07/2024 79 lượt xem
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được xem là một trong năm mũi đột phá của Việt Nam cần được tập trung để thúc đẩy tăng trưởng phát triển và hội nhập.
Sự phát triển của Fintech và thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
Sự phát triển của Fintech và thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
24/07/2024 244 lượt xem
Sự xuất hiện của các công ty công nghệ tài chính (Fintech) trên thị trường đã làm thay đổi toàn bộ ngành dịch vụ tài chính, thúc đẩy phát triển các kênh phân phối sản phẩm, dịch vụ ngân hàng truyền thống...
Một số rủi ro khi sử dụng thẻ tín dụng - Kinh nghiệm và bài học cho giới trẻ
Một số rủi ro khi sử dụng thẻ tín dụng - Kinh nghiệm và bài học cho giới trẻ
22/07/2024 236 lượt xem
Ở thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), thẻ tín dụng dần trở thành một phương tiện thanh toán khá phổ biến đối với bất kì khách hàng nào bởi tính tiện dụng trong chi tiêu và thanh toán.
Chủ động sử dụng và ứng phó với phòng vệ thương mại
Chủ động sử dụng và ứng phó với phòng vệ thương mại
22/07/2024 183 lượt xem
Ngày nay, toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại đang trở thành xu hướng tất yếu, phát triển ngày càng sâu rộng trên thế giới, ngày càng có nhiều nước tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và nhiều Hiệp định Thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương đã được ký kết.
Nghiên cứu xây dựng mô hình học sâu phát hiện tin nhắn rác dựa trên bộ dữ liệu phức hợp được cập nhật
Nghiên cứu xây dựng mô hình học sâu phát hiện tin nhắn rác dựa trên bộ dữ liệu phức hợp được cập nhật
19/07/2024 232 lượt xem
Dựa trên bộ dữ liệu phức hợp mới được cập nhật, bài viết này đề xuất mô hình học máy nhằm phát hiện tin nhắn rác giúp giảm thiểu tối đa những rủi ro mà người dùng thiết bị di động đang phải đối mặt, đặc biệt là rủi ro liên quan đến vấn đề tài chính.
Đánh giá tác động của tham nhũng địa phương đến hoạt động ESG của doanh nghiệp Việt Nam
Đánh giá tác động của tham nhũng địa phương đến hoạt động ESG của doanh nghiệp Việt Nam
18/07/2024 262 lượt xem
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của tham nhũng địa phương (tham nhũng cấp tỉnh/thành phố) đến hoạt động ESG (Environmental - môi trường, Social - xã hội và Governance - quản trị) của doanh nghiệp tại Việt Nam.
Lãi suất theo quy định pháp luật Việt Nam và sự cân nhắc về “mức giới hạn trần” trong hoạt động cho vay của các công ty tài chính.
Lãi suất theo quy định pháp luật Việt Nam và sự cân nhắc về “mức giới hạn trần” trong hoạt động cho vay của các công ty tài chính.
16/07/2024 443 lượt xem
“Lãi suất là công cụ tích cực trong phát triển kinh tế và đồng thời cũng là một công cụ kìm hãm của chính sự phát triển ấy, tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại trong việc sử dụng chúng” - đây là phát biểu của nhà kinh tế học người Pháp A. Poial.
Giải pháp và lộ trình áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế đối với hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam
Giải pháp và lộ trình áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế đối với hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam
15/07/2024 326 lượt xem
Với xu hướng hội nhập tài chính quốc tế, để đảm bảo cung cấp thông tin chính xác, minh bạch, việc áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) là một trong những điều kiện cần thiết để đẩy mạnh xu hướng này, góp phần hoàn thiện các giải pháp đồng bộ thúc đẩy lĩnh vực kế toán - kiểm toán phát triển; đảm bảo việc ghi nhận sổ sách theo cơ chế thị trường vận hành và thông lệ quốc tế.
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
11/07/2024 425 lượt xem
Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế đất nước (1986 - 2024), khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn luôn đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, mặc dù đạt được những kết quả quan trọng, nhưng hoạt động và đóng góp của khối doanh nghiệp nhà nước vào nền kinh tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng.
Đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023
Đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023
01/07/2024 667 lượt xem
Mục tiêu của bài viết này là phân tích và đánh giá thực trạng an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023 trên các khía cạnh gồm an toàn vốn, thanh khoản và chất lượng tài sản. Qua đó, bài viết đưa ra một số giải pháp đối với các NHTM Việt Nam và kiến nghị đối với các cơ quan quản lí nhà nước nhằm đảm bảo sự an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Tác động truyền thông chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tới người tiêu dùng
Tác động truyền thông chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tới người tiêu dùng
27/06/2024 558 lượt xem
Bài viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính truyền thống và nghiên cứu định lượng qua việc chạy mô hình hồi quy Logistic nhị phân (Binary Logistic Regression) để đánh giá tác động từ truyền thông chính sách tiền tệ (CSTT) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tới người tiêu dùng.
Mô hình tập trung trong thanh toán quốc tế của một số ngân hàng trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
Mô hình tập trung trong thanh toán quốc tế của một số ngân hàng trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
25/06/2024 623 lượt xem
Có nhiều mô hình thanh toán quốc tế đang được áp dụng tại các ngân hàng trên thế giới, bao gồm mô hình tập trung, phân tán, thuê ngoài và các mô hình thanh toán khác.
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay
19/06/2024 670 lượt xem
Phát huy vai trò báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thời gian qua đã được Đảng, Nhà nước, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt Nam, các cơ quan báo chí trong cả nước và đội ngũ những người làm báo quan tâm, chăm lo, thực hiện; từng bước đề ra nhiều nội dung, giải pháp, phương thức, phát huy hiệu quả vai trò của báo chí cách mạng.
Ứng dụng ESG trong xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Việt Nam
Ứng dụng ESG trong xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Việt Nam
19/06/2024 654 lượt xem
Kinh doanh bền vững gắn với bảo vệ môi trường, đề cao trách nhiệm xã hội đang là xu thế tất yếu tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Vai trò điều tiết của đa dạng hóa thu nhập đến mối quan hệ giữa các yếu tố đặc thù với khả năng sinh lời của ngân hàng
Vai trò điều tiết của đa dạng hóa thu nhập đến mối quan hệ giữa các yếu tố đặc thù với khả năng sinh lời của ngân hàng
17/06/2024 478 lượt xem
Là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống tài chính, các ngân hàng đóng vai trò trung gian trong việc chuyển vốn từ bên thừa sang bên thiếu vốn.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

Vàng SJC 5c

77.500

79.520

Vàng nhẫn 9999

75.600

77.000

Vàng nữ trang 9999

75.500

76.600


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,127 25,477 26,885 28,360 31,917 33,274 156.80 165.96
BIDV 25,157 25,477 27,090 28,390 32,186 33,429 157.71 166.56
VietinBank 25,157 25,477 27,180 28,380 32,396 33,406 158.36 166.11
Agribank 25,160 25,477 27,065 28,310 32,089 33,255 157.73 165.80
Eximbank 25,130 25,476 27,140 27,981 32,273 33,175 158.91 163.85
ACB 25,140 25,477 27,136 28,068 32,329 33,306 158.59 164.86
Sacombank 25,190 25,477 27,338 28,340 32,507 33,217 159.66 164.69
Techcombank 25,132 25,477 27,000 28,353 31,994 33,324 155.51 167.92
LPBank 24,937 25,477 26,998 28,670 32,415 33,421 157.95 169.10
DongA Bank 25,180 25,477 27,140 28,010 32,200 33,300 156.60 164.60
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,30
3,60
4,30
4,40
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,60
2,60
2,90
3,80
3,80
4,50
4,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
2,00
2,00
2,30
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
2,90
3,10
3,20
4,00
4,00
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?