Cải thiện bất bình đẳng thu nhập thông qua phát triển tài chính và kiểm soát tham nhũng địa phương tại một số tỉnh, thành Việt Nam

Bài viết khoa học chuyên sâu
hông qua các phương pháp nghiên cứu định tính và tổng hợp so sánh, nghiên cứu đã chỉ ra sự thay đổi của phát triển tài chính, tham nhũng địa phương và bất bình đẳng thu nhập, đồng thời, ghi nhận tác động cùng chiều của phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập và ảnh hưởng của tham nhũng địa phương đến mối quan hệ này.
aa

Tóm tắt: Bài nghiên cứu được thực hiện nhằm phân tích, đánh giá về thực trạng của phát triển tài chính, tham nhũng địa phương và bất bình đẳng thu nhập tại 53 tỉnh, thành Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của các tỉnh, thành từ các nguồn thứ cấp trong 7 năm không liên tục, từ năm 2014 đến năm 2022. Thông qua các phương pháp nghiên cứu định tính và tổng hợp so sánh, nghiên cứu đã chỉ ra sự thay đổi của phát triển tài chính, tham nhũng địa phương và bất bình đẳng thu nhập, đồng thời, ghi nhận tác động cùng chiều của phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập và ảnh hưởng của tham nhũng địa phương đến mối quan hệ này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm cải thiện bất bình đẳng thu nhập thông qua phát triển tài chính và kiểm soát tham nhũng địa phương trong tương lai cho các tỉnh, thành nói riêng và Việt Nam nói chung.

Từ khóa: Bất bình đẳng thu nhập, phát triển tài chính, tham nhũng địa phương, Việt Nam.

REDUCING INCOME INEQUALITY THROUGH FINANCIAL DEVELOPMENT
AND LOCAL CORRUPTION CONTROL IN PROVINCES OF VIETNAM


Abstract: This study aims to analyse and evaluate the current state of financial development, local corruption, and income inequality across 53 provinces and cities of Vietnam. The research utilises secondary data collected from these provinces over a period of seven non-consecutive years, from 2014 to 2022. Employing qualitative research methods and comparative synthesis, the study highlights changes in financial development, local corruption, and income inequality. Moreover, the findings indicate a positive correlation between financial development and income inequality, as well as the impact of local corruption on this relationship. Based on these insights, the study proposes several policy recommendations aimed at reducing income inequality through financial development and local corruption control, applicable to both inpidual provinces and Vietnam as a whole.

Keywords: Income inequality, financial development, local corruption, Vietnam.

1. Giới thiệu

Cải thiện tình trạng bất bình đẳng thu nhập là một trong 17 mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc (2015), có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh mức độ bất bình đẳng thu nhập tại một số quốc gia có xu hướng tăng cao trong giai đoạn 2014 - 2022, đạt xấp xỉ mức bất bình đẳng thu nhập cao nhất trong lịch sử là 16% (World Inequality Report, 2022). Nhiều nghiên cứu trước đây đã chỉ ra các nguyên nhân ảnh hưởng đến mức độ bất bình đẳng thu nhập, trong đó có yếu tố phát triển tài chính, đặc biệt trong bối cảnh công nghệ hóa, toàn cầu hóa, khả năng tiếp cận thông tin của con người ngày càng nâng cao (Chletsos và Sintos, 2023; Liang, 2006; Bittencourt, 2010; Hoi và Hoi, 2012...). Cùng với đó, yếu tố tham nhũng cũng được chỉ ra là có ảnh hưởng tới mục tiêu cải thiện bất bình đẳng thu nhập tại các quốc gia đang phát triển (Song và cộng sự, 2021).

Tại Việt Nam, mức độ bất bình đẳng thu nhập tăng 12,8% trong giai đoạn 2014 - 2019, nhưng có xu hướng cải thiện trong giai đoạn 2019 - 2022 và đạt mức 6,58% vào năm 2022 (Tổng cục Thống kê, 2024). Trong khi mức độ bất bình đẳng thu nhập có xu hướng được cải thiện, phát triển tài chính cũng chuyển biến tích cực, bao gồm các hoạt động nổi bật như mở rộng quy mô thị trường tài chính, lành mạnh hóa thị trường tài chính, áp dụng các tiến bộ của quá trình chuyển đổi số... (Báo Chính phủ, 2022). Vấn đề tham nhũng cũng chứng kiến thay đổi tích cực khi đa số các tỉnh, thành Việt Nam ghi nhận sự tăng trưởng trong mức độ kiểm soát tham nhũng, tăng từ 5,05% (năm 2014) lên mức 7,0% (năm 2022) (Báo Chính phủ, 2024).

Mức độ bất bình đẳng thu nhập biến động theo chiều hướng tích cực, sự phát triển tài chính tăng dần, cùng với đó là mức độ kiểm soát tham nhũng ngày càng chặt chẽ và sự phân hóa ngày càng rõ rệt giữa các tỉnh, thành đòi hỏi các nhà nghiên cứu, cơ quan hoạch định chính sách quan tâm tới tác động của phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập và vai trò của tham nhũng trong mối quan hệ này. Với không gian nghiên cứu tại các quốc gia và các tỉnh, thành Việt Nam, các nghiên cứu gần đây chỉ tập trung xem xét tác động của phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập mà bỏ qua các kênh điều tiết tới tương quan của hai yếu tố, điển hình là vai trò điều tiết của yếu tố tham nhũng. Hơn nữa, với không gian nghiên cứu tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào xét đến vai trò điều tiết của tham nhũng trong tương quan giữa phát triển tài chính và bất bình đẳng thu nhập trong khi vấn đề tham nhũng ngày càng trở nên quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập. Nhằm xem xét tương tác giữa ba yếu tố trên, nghiên cứu này phân tích thực trạng tại 53 tỉnh, thành Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2022 thông qua phương pháp nghiên cứu định tính, tổng hợp, so sánh, từ đó đề xuất chính sách cho các tỉnh, thành tại Việt Nam.

2. Thực trạng bất bình đẳng thu nhập, phát triển tài chính và tham nhũng địa phương

2.1. Đối với bất bình đẳng thu nhập

Hiện tại, với bối cảnh kinh tế toàn cầu, các yếu tố bên ngoài như chính sách thương mại và động lực thị trường đã ảnh hưởng không nhỏ tới bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam. Trở lại với giai đoạn từ năm 2014 - 2022, tại Việt Nam, bất bình đẳng thu nhập có chiều hướng phát triển khá tích cực khi chỉ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập (Gini) giảm mạnh từ 8,01 năm 2019 xuống mức 6,58 năm 2022 (giảm 17,8%), mặc dù chỉ số này tăng 12,8% trong giai đoạn trước đó (2014 - 2019) (Tổng cục Thống kê, 2024). (Hình 1)

Hình 1: Số lần chênh lệch thu nhập bình quân đầu người một tháng giữa nhóm thu nhập cao nhất

so với nhóm thu nhập thấp nhất trung bình của 53 tỉnh, thành Việt Nam, giai đoạn 2014 - 2022

Nguồn: Nhóm nghiên cứu tổng hợp


2.2. Đối với phát triển tài chính

Giai đoạn 2014 - 2022 chứng kiến nhiều nét tích cực của phát triển tài chính tại các tỉnh, thành ở Việt Nam. Dư nợ tín dụng và số dư huy động vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam tăng đều qua các năm, từ khoảng 3,5 nghìn tỉ đồng dư nợ tín dụng và 3,9 nghìn tỉ đồng số dư huy động vốn năm 2014, lên con số gấp gần 3 lần vào năm 2022, đạt lần lượt là 10,9 nghìn tỉ đồng và 12,4 nghìn tỉ đồng. Tính đến tháng 3/2024, dư nợ tín dụng và số dư huy động vốn của các TCTD tại Việt Nam đạt lần lượt khoảng 13,8 nghìn tỉ đồng và 15,6 nghìn tỉ đồng. Hai chỉ số này cho thấy hệ thống tài chính của Việt Nam có xu hướng phát triển nhanh, trong đó, theo số liệu của Tạp chí Cộng sản (năm 2023), các trung gian tài chính tại Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 10%/năm, tín dụng tăng trung bình 12 - 14%/năm. (Hình 2)

Hình 2: Dư nợ tín dụng và số dư huy động vốn của các TCTD

tại Việt Nam giai đoạn 2014 - 2022 (tỉ đồng)

Nguồn: Nhóm nghiên cứu tổng hợp


Xem xét tốc độ phát triển tài chính theo ba khu vực địa lý tại Việt Nam, số liệu cho thấy cả Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ có sự tăng trưởng đều về dư nợ tín dụng và số dư huy động vốn của các TCTD. Tuy nhiên, dư nợ tín dụng của các TCTD khu vực Nam Bộ lớn nhất cả nước ở hầu hết các năm trong giai đoạn 2014 - 2022 và luôn gấp gần 3 lần khu vực Trung Bộ. Miền Trung có dư nợ tín dụng và số dư huy động vốn thấp nhất cả nước, cho thấy sự chênh lệch rõ rệt trong phát triển tài chính so với hai khu vực miền Bắc và miền Nam. (Hình 3)

Hình 3: Dư nợ tín dụng và số dư huy động vốn của các TCTD

tại khu vực Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, giai đoạn 2014 - 2022

Nguồn: Nhóm nghiên cứu tổng hợp


2.3. Đối với tham nhũng địa phương

Chi phí không chính thức (trong bộ chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh - PCI) có giá trị từ 0 đến 10, cho biết mức độ kiểm soát tham nhũng tại địa phương, chỉ số càng lớn thể hiện bộ máy chính quyền càng ít các biểu hiện tham nhũng. Xét trong giai đoạn từ năm 2014 - 2022, cả ba khu vực miền Bắc, miền Trung và miền Nam đều chứng kiến mức độ kiểm soát tham nhũng tăng đều qua các năm, thể hiện qua chỉ số Chi phí không chính thức đạt trung bình 5,05 năm 2014 và 7,00 năm 2022. Trong đó, chỉ số này tại các tỉnh miền Bắc năm 2014 chỉ đạt 4,59, thấp hơn đáng kể các tỉnh khu vực miền Nam và miền Trung. Tuy nhiên, sau 8 năm, đến năm 2022, chỉ số này đã đạt gần 7,00, tương đương với hai khu vực còn lại và xấp xỉ giá trị trung bình cả nước. Thay đổi tích cực này cho thấy chính sách quản lý tham nhũng của chính quyền địa phương các tỉnh, thành miền Bắc đã phát huy hiệu quả và thu được kết quả tích cực. (Hình 4)


Hình 4: Mức độ kiểm soát tham nhũng trung bình

tại các tỉnh, thành Việt Nam giai đoạn 2014 - 2022

Nguồn: Nhóm nghiên cứu tổng hợp


3. Một số hàm ý chính sách


3.1. Hàm ý chính sách nhằm cải thiện bất bình đẳng thu nhập thông qua phát triển tài chính

Thứ nhất, các chính sách cần hướng tới việc cung cấp cơ hội tài chính bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt là các nhóm đối tượng kinh tế khó khăn như doanh nghiệp nhỏ, cư dân trong các khu vực có điều kiện kinh tế kém phát triển và cộng đồng có thu nhập thấp. Việc tiếp cận vốn từ các tổ chức tài chính cần nới lỏng về các điều kiện vay trong giới hạn cho phép, mở rộng đối tượng vay vốn để từ đó kích thích người dân thực hiện các dự án sản xuất, kinh doanh, tạo ra cơ hội việc làm bổ sung cho những người lao động có trình độ thấp hoặc không có trình độ và thất nghiệp. Các quy trình, thủ tục cấp tín dụng cũng như quá trình huy động nguồn vốn cần đơn giản hóa và chi phí giao dịch cũng cần được giảm thiểu.

Thứ hai, việc xây dựng cơ sở pháp lý đi kèm với các quy định và nguyên tắc trong hoạt động tài chính - ngân hàng cần phù hợp với các chuẩn mực quốc tế cùng với những biện pháp trừng phạt mạnh mẽ khác nhằm kiểm soát nguy cơ gia tăng về các hành vi độc quyền, gian lận và tội phạm. Các quy định quốc tế như Hiệp ước Basel II, Basel III và đặc biệt là Ủy ban Ngân hàng thuộc Chương trình Môi trường Liên hợp quốc cần được áp dụng trên quy mô rộng rãi, từ Hội sở ngân hàng đến các chi nhánh, phòng giao dịch tại các địa phương. Từ đó, hệ thống tài chính sẽ hoạt động một cách hiệu quả trong quá trình huy động vốn và phân phối nguồn lực, ngăn chặn các nhóm lợi ích, qua đó tạo ra nhiều cơ hội bình đẳng hơn cho các nhà kinh doanh trong việc tiếp cận tài chính.

Thứ ba, Chính phủ cần mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển các chính sách phát triển nông thôn, bao gồm cả dịch vụ tài chính và chính sách thuế thu nhập. Công nghệ cao cần được áp dụng trên quy mô lớn, đồng thời các doanh nghiệp tại vùng nông thôn cần tăng cường sử dụng lao động. Các chính sách hỗ trợ lãi suất, miễn, giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp… cần được đưa vào nhằm tăng quy mô của bộ phận lao động chính thức, thông qua đó người dân các vùng nông thôn tăng khả năng tiếp cận các khoản vay, nâng cao mức sống tiêu chuẩn. Tương tự, Chính phủ cần tài trợ các loại thực phẩm thiết yếu đặc biệt cho người nghèo để giảm gánh nặng cho họ.

Thứ tư, các thành phần của thị trường tài chính cần xác định chiến lược thúc đẩy hòa nhập tài chính. Đây là một chiến lược phát triển kinh tế bền vững, hướng tới nhiều mục tiêu, nổi bật là giảm nghèo đói và giảm mức độ bất bình đẳng thu nhập. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kết hợp với ngân hàng thương mại xây dựng hệ thống thông tin minh bạch, đầy đủ và thông suốt cho tất cả các đối tượng, tránh các trường hợp thiếu hoặc sai lệch thông tin. Ngoài ra, cơ quan chính quyền cấp tỉnh cần phối hợp với chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại các địa phương tổ chức các sự kiện nhằm truyền thông về cách thức làm giảm bất bình đẳng thu nhập thông qua thị trường tài chính.

3.2. Hàm ý chính sách nhằm cải thiện bất bình đẳng thu nhập thông qua kiểm soát tham nhũng địa phương

Thứ nhất, cần tiếp tục đưa ra các chính sách, biện pháp cụ thể đối với từng tỉnh, thành Việt Nam, quán triệt việc triển khai và thực hiện; hoàn thiện hệ thống pháp luật còn tiềm ẩn lỗ hổng dẫn tới phát sinh các hành vi tham nhũng, tiêu cực như pháp luật về quản lý tài sản công, pháp luật về đấu thầu, đất đai… theo hướng minh bạch, công khai, chặt chẽ và đồng bộ. Trên cơ sở đó, dần khắc phục những hạn chế, tiến tới triệt tiêu khả năng phát sinh tham nhũng, tiêu cực trong việc thực hiện thủ tục hành chính ở các cấp. Các cơ quan có thẩm quyền cũng cần nghiên cứu, sửa đổi và bổ sung thêm pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án dân sự.

Thứ hai, cùng với việc hoàn thiện các chính sách và thể chế về phòng, chống tham nhũng, việc nâng cao nhận thức về tham nhũng cho nhân dân, cán bộ địa phương cũng rất quan trọng. Tăng cường công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức và nhiều kênh thông tin để tiếp cận đến người dân và cán bộ, đặc biệt là hướng dẫn, giải thích để người dân hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình trong công tác kiểm soát. Việc này có thể giúp tăng mức độ nhận diện của người dân về các hành vi thao túng, tham nhũng, góp phần phát huy vai trò, sức mạnh tổng hợp của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng,

tiêu cực.

Thứ ba, đề cao ý thức, trách nhiệm, nâng cao phẩm chất đạo đức của người đứng đầu, đảm bảo họ sẽ là lá cờ đầu, là tấm gương liêm chính, chính trực; bắt nguồn từ việc lựa chọn, bố trí những người phù hợp vào vị trí bộ máy từ trung ương đến địa phương đúng tiêu chuẩn, quy trình, quy định. Cần quán triệt, đảm bảo công bằng trong công tác bầu cử và pháp luật bầu cử, quy định rõ các yếu tố, điều kiện của vị trí nhân sự sẽ được bổ nhiệm. Sau khi được tuyển chọn, cán bộ vẫn phải không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức và kiến thức chuyên môn. Đặc biệt, cần có những biện pháp kiên quyết loại trừ khỏi bộ máy những trường hợp thoái hóa, biến chất.

Thứ tư, cần đẩy nhanh tiến độ cải cách chế độ tiền lương cho cán bộ, công chức, viên chức bởi cải thiện thu nhập trong khu vực công sẽ góp phần làm cải thiện tham nhũng. Cán bộ, công chức, viên chức là nhóm đối tượng thuộc hệ thống các cơ quan nhà nước, đảm nhiệm vị trí quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, việc trả lương cho cán bộ, công chức, viên chức đúng với chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu công việc là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng lãnh đạo, quản lý, thực thi công vụ, cung cấp dịch vụ công, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức cần được đặt trong mối tương quan với mặt bằng tiền lương khu vực thị trường, điều này sẽ giúp nâng cao đời sống cán bộ, công chức, viên chức, tạo động lực thúc đẩy tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

4. Kết luận

Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, vấn đề bất bình đẳng thu nhập cần nhận được sự quan tâm trong bối cảnh hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Về mặt học thuật, nghiên cứu đã nêu lên một số nguyên nhân gây ra bất bình đẳng thu nhập quy mô cấp tỉnh ở Việt Nam. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm về vấn đề phát triển tài chính, tham nhũng địa phương và bất bình đẳng thu nhập. Từ kết quả đánh giá, bài nghiên cứu gợi ý các hàm ý chính sách liên quan đến việc kiểm soát tham nhũng và phát triển khu vực tài chính cho 53 tỉnh, thành địa phương nói riêng và Việt Nam nói chung nhằm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng thu nhập. Cụ thể, các nhóm chính sách nhằm mục đích: (i) Giảm thiểu tối đa và kiểm soát chặt chẽ tình trạng tham nhũng; (ii) Thay đổi chiến lược và định hướng tổ chức tài chính; (iii) Xây dựng cơ sở pháp lý chặt chẽ. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng còn một số hạn chế, trong đó, chỉ số phát triển tài chính mới chỉ được đánh giá ở hai chỉ tiêu: Dư nợ tín dụng và số dư huy động vốn do các khía cạnh khác như tiếp cận tài chính, hiệu quả tài chính hay ổn định tài chính chưa sẵn có về mặt dữ liệu. Bên cạnh đó, các nghiên cứu trong tương lai có thể đánh giá mức độ tham nhũng của địa phương thông qua nhiều thang đo khác để tăng mức độ tin cậy của nghiên cứu.

Tài liệu tham khảo:

1. Báo Chính phủ (2022), “10 sự kiện nổi bật của ngành Tài chính năm 2022”, https://baochinhphu.vn/10-su-kien-noi-bat-cua-nganh-tai-chinh-nam-2022-102221220181802451.htm, truy cập ngày 01/4/2024.

2. Báo Chính phủ (2024), “PAPI 2023: Người dân đánh giá cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng và quản trị điện tử”, https://baochinhphu.vn/papi-2023-nguoi-dan-danh-gia-cao-hieu-qua-phong-chong-tham-nhung-va-quan-tri-dien-tu-102240402170408706.htm, truy cập ngày 21/3/2024.

3. Cổng Thông tin điện tử Bộ Tài chính (2024), “Nền tài chính Việt Nam sau 10 năm thực hiện Chiến lược tài chính đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030”, https://mof.gov.vn/webcenter/portal/tttc/pages_r/l/chi-tiet-tin-tin-tuc-tai-chinh?dDocName=MOFUCM196943, truy cập ngày 20/3/2024.

4. Tạp chí Cộng sản (2023), “Kinh tế Việt Nam năm 2022 và triển vọng năm 2023”, https://tapchicongsan.org.vn/kinh-te/-/2018/827154/kinh-te-viet-nam-nam-2022-va-trien-vong-nam%202023.aspx, truy cập ngày 21/3/2024.

5. Bittencourt, M. (2010), Financial development and inequality: Brazil 1985-1994. Economic Change and Restructuring, 43(2), 113-130. https://doi.org/10.1007/s10644-009-9080-x

6. Chletsos, M., & Sintos, A. (2023), Financial development and income inequality: A meta-analysis. Journal of Economic Surveys, 37(4), 1090-1119. https://doi.org/10.1111/joes.12528

7. Chu Minh, H., & Le Quoc, H. (2012), Financial Development and Income Inequality in Vietnam: An Empirical Analysis. Journal of Economics and Development, 5-25. https://doi.org/10.33301/2012.14.02.01

8. Liang, Z. (2006), Financial development and income distribution: A system GMM panel analysis with application to urban China. Journal of economic development, 31, 1-21.

9. Song, C.-Q., Chang, C.-P., & Gong, Q. (2021), Economic growth, corruption, and financial development: Global evidence. Economic Modelling, 94, 822-830. https://doi.org/10.1016/j.econmod.2020.02.022

10. UNDP (2024), “What are the Sustainable Development Goals?” https://www.undp.org/sustainable-development-goals, truy cập ngày 01/4/2024.

11. Website Tổng cục Thống kê, https://www.gso.gov.vn/, truy cập ngày 22/3/2024.

12. World Inequality Lab (2023), "World Inequality Report", https://wir2022.wid.world/www-site/uploads/2021/12/WorldInequalityReport2022_Full_Report.pdf, truy cập ngày 21/3/2024.


PGS., TS. Kim Hương Trang, Từ Lê Mai, Phan Thị Huyền Anh,
Nguyễn Văn Hiệp, Đoàn Thị Phương Ly, Mạc Thị Thanh Vân

Trường Đại học Ngoại thương

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam và một số hàm ý chính sách

Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam và một số hàm ý chính sách

Bài viết thông qua phân tích nhanh các cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam giai đoạn 2020 - 2023 và trên cơ sở số liệu nghiên cứu kinh tế vĩ mô, nhận diện những hạn chế, bất cập, từ đó đề xuất một số hàm ý về chính sách cho mục tiêu tăng trưởng ổn định và bền vững...
Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, hỗ trợ vốn tín dụng cho nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh

Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, hỗ trợ vốn tín dụng cho nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh

Ở Việt Nam, đầu tư vốn, hỗ trợ tín dụng cho nông nghiệp, nông dân được triển khai theo nhiều hình thức và có sự chuyển đổi theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường.
Nhân tố ảnh hưởng đến động lực làm việc của cán bộ, viên chức và người lao động tại các ngân hàng có vốn sở hữu nhà nước

Nhân tố ảnh hưởng đến động lực làm việc của cán bộ, viên chức và người lao động tại các ngân hàng có vốn sở hữu nhà nước

Nguồn nhân lực xã hội là tài sản quan trọng nhất của mỗi quốc gia, quyết định sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khẳng định vị thế dân tộc trên trường quốc tế.
Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản tại ngân hàng thương mại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản tại ngân hàng thương mại Việt Nam

Các NHTM hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và có nhiều rủi ro, trong đó có RRTK. RRTK là khả năng ngân hàng không đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, chi trả đối với khách hàng, ảnh hưởng đến danh tiếng và lợi nhuận của ngân hàng (Casu, 2015).
Đào tạo cá nhân hóa tại ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số

Đào tạo cá nhân hóa tại ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số

Sự chuyển dịch của cấu trúc lao động trong ngành Ngân hàng do tác động của chuyển đổi số dẫn đến sự xuất hiện nhiều vị trí công việc liên quan tới công nghệ.
Mối quan hệ giữa quy định vốn theo Basel III với một số giải pháp chính và khuyến nghị

Mối quan hệ giữa quy định vốn theo Basel III với một số giải pháp chính và khuyến nghị

Quy định về vốn ngân hàng theo Basel III giúp cho các ngân hàng có một lượng vốn kinh tế dự phòng đủ lớn về chất và lượng (gồm vốn cổ phần chung cấp 1 - CET1, vốn cấp 1, cấp 2; khấu trừ từ CET1 các khoản không còn phù hợp theo hướng dẫn của Basel III...
Nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản lý tài chính của sinh viên trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản lý tài chính của sinh viên trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Quản lý tài chính cá nhân là một trong những yếu tố quan trọng để xác định phúc lợi tài chính của mỗi cá nhân (Xiao và cộng sự, 2009). Theo đó, quản lý tài chính cá nhân liên quan đến việc áp dụng các hoạt động khác nhau để lập kế hoạch, quản lý và kiểm soát chi tiêu của một người.
Giải pháp hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư cá nhân hướng đến phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp bền vững tại Việt Nam

Giải pháp hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư cá nhân hướng đến phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp bền vững tại Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu và trong nước có nhiều biến động, việc huy động vốn thông qua thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn nhưng cũng không kém phần rủi ro đối với nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam.
Xem thêm
Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Tín dụng xanh là một công cụ tài chính được thiết kế để hỗ trợ các dự án và hoạt động có lợi cho môi trường. Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp là quá trình mà các công ty áp dụng những phương pháp và chiến lược bền vững nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

Những tháng cuối năm, doanh nghiệp tập trung tăng cường sản xuất, kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng nên nhu cầu tín dụng cũng sẽ tăng theo.
Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Trong những tháng đầu năm 2024, dù kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều biến động khó lường như xung đột địa chính trị kéo dài, lạm phát duy trì ở mức cao, cùng những thách thức nội tại của nền kinh tế trong nước và ảnh hưởng nặng nề của thiên tai...
Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tầm quan trọng của hệ thống tiền gửi tại Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua sự an toàn và ổn định; từ đó, mang lại niềm tin đối với người gửi tiền.
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Để góp phần ổn định hệ thống tài chính, ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội đất nước, trong bài viết này, tác giả làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và định hướng sửa đổi, bổ sung Luật BHTG.
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Lạm phát gia tăng toàn cầu sau đại dịch Covid-19, vốn đã ảnh hưởng đến cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, nhưng dường như đã “bỏ qua” châu Á. Một trong những lý do chính là sự phục hồi chậm của các nền kinh tế châu Á do các đợt “đóng cửa”, “phong tỏa”, “cách ly”, “giãn cách” kéo dài và lặp đi lặp lại.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).
Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Phát triển khu vực kinh tế tư nhân là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Tại Việt Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế”.

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Thông tư số 54/2024/TT-NHNN ngày 17/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 26/2021/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn giao dịch ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối

Thông tư số 53/2024/TT-NHNN ngày 04/12/2024 Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3

Thông tư số 52/2024/TT-NHNN ngày 29/11/2024 Quy định việc ngân hàng thương mại có cổ đông, cổ đồng và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ quy định tại Điều 55 của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 17/2017/QH14 xây dựng và thực hiện lộ trình để bảo đảm tuân thủ các quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15

Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 06/11/2024 Về tăng cường quản lý rủi ro rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng giai đoạn 2024 - 2028

Thông tư số 50/2024/TT-NHNN ngày 31/10/2024 Quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 49/2024/TT-NHNN ngày 25/10/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 46/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 48/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đông Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 47/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Sửa đổi khoản 3 Điều 3 Thông tư số 04/2022/TT-NHNN ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc áp dụng lãi suất rút trước hạn tiền gửi tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài