Ảnh hưởng của kiến thức và sự tự tin đến hành vi ra quyết định của khách hàng trong sử dụng dịch vụ tài chính
06/04/2023 2.309 lượt xem
Tóm tắt: Kiến thức tài chính của khách hàng là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hành vi của khách hàng trong sử dụng dịch vụ tài chính. Kiến thức này bao gồm hai loại: Kiến thức chủ quan và kiến thức khách quan. Hai loại kiến thức này hình thành nên sự tự tin thái quá hoặc kém tự tin của khách hàng. Khi khách hàng quá tự tin hay kém tự tin sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả ra quyết định của khách hàng. Bài viết làm rõ khái niệm kiến thức và sự tự tin của khách hàng; đồng thời, phân tích những ảnh hưởng về kiến thức của khách hàng đến quá trình ra quyết định. Bên cạnh đó, phân tích hiệu quả việc ra quyết định của khách hàng trong trường hợp họ quá tự tin hoặc thiếu tự tin. Bài viết cũng đưa ra các kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới trong việc nâng cao kiến thức tài chính của khách hàng nhằm khuyến nghị thúc đẩy hành vi sử dụng dịch vụ tài chính, nâng cao hiệu quả ra quyết định của khách hàng.
 
Từ khóa: Tự tin thái quá, kém tự tin, hành vi khách hàng, dịch vụ ngân hàng, dịch vụ tài chính.
 
THE INFLUENCE OF CUSTOMERS' FINANCIAL KNOWLEDGE AND SELF-CONFIDENCE ON MAKING DECISIONS TO USE FINANCIAL SERVICES
 
Abstract: Customer financial knowledge is one of the factors that greatly influence the customer decision making in using financial services. The knowledge includes two types of subjective knowledge and objective knowledge. These two types of knowledge form customer’s overconfidence or underconfidence. When customers are overconfident or underconfident, it will affect the customer’s decision-making results. This article focuses on clarifying the concept of customer financial knowledge and self-confidence; analyzing the influence of the customer’s knowledge on the decision-making process. Besides, the article also analyzes the effectiveness of customers’ decision-making in case they are overconfident or underconfident. The article also describes the experiences of countries around the world in improving the financial knowledge of customers and proposes recommendations to promote the behavior of using financial services, and at the same time improve the efficiency of customer decision-making in using financial services.
 
Keywords: Overconfidence, underconfidence, customer behavio, banking services, financial services.
 
1. Đặt vấn đề
 
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 2 tỉ người chưa được tiếp cận các dịch vụ tài chính, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Nhìn từ phía cung, có rất nhiều yếu tố cản trở sự tiếp cận tài chính như những quy định, sự đa dạng của các tổ chức tài chính, khoảng cách địa lí, sự lạc hậu của kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển tài chính (Demirguc-Kunt và cộng sự, 2015). Nhìn từ phía cầu, các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận tài chính gồm các nhân tố như kiến thức tài chính của khách hàng, sự tự tin, rào cản về tâm lí, văn hóa (Atkinson, A. và F. Messy, 2013). Trong đó, kiến thức và sự tự tin của khách hàng được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu để thúc đẩy sử dụng các dịch vụ tài chính.


Kiến thức tài chính của khách hàng là một trong những yếu tố quan trọng 
quyết định việc sử dụng dịch vụ tài chính
 
Dịch vụ tài chính là dịch vụ phức tạp so với các dịch vụ khác, để ra các quyết định tài chính khách hàng cần có kiến thức và sự tự tin nhất định. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, có hai loại kiến thức là kiến thức chủ quan và kiến thức khách quan. Tuy nhiên, nhiều tổ chức tài chính chưa hiểu đầy đủ về kiến thức tài chính của khách hàng và ảnh hưởng của nó, do đó có thể không có những giải pháp phù hợp để thúc đẩy khách hàng sử dụng dịch vụ tài chính. 
 
Các loại kiến thức có tác động mạnh mẽ đến việc ra quyết định của khách hàng. Các loại kiến thức cũng hình thành nên sự tự tin của khách hàng. Đồng thời sự tự tin của khách hàng cũng tác động đến việc ra quyết định và hiệu quả trong các quyết định của khách hàng. Việc hiểu đúng những yếu tố tạo nên kiến thức và sự tự tin của khách hàng là cơ sở quan trọng để các nhà quản lí có thể hiểu những nhân tố tác động đến quá trình ra quyết định của khách hàng. Từ đó, có thể có những giải pháp phù hợp để thúc đẩy khách hàng sử dụng dịch vụ tài chính, đồng thời, góp phần nâng cao hiệu quả các quyết định của khách hàng. 
 
2. Kiến thức và sự tự tin về kiến thức tài chính của khách hàng
 
2.1. Kiến thức về tài chính của khách hàng
 
Khách hàng đưa ra quyết định mua hàng hoặc sử dụng dịch vụ bằng cách sử dụng các chiến lược khác nhau, trong đó sử dụng kiến ​​thức của mình là một trong những chiến lược phổ biến nhất để ra quyết định (Brucks, 1985). Kiến thức của khách hàng ảnh hưởng đến tất cả các giai đoạn của quá trình ra quyết định (Raju và cộng sự, 1995). Để đưa ra quyết định mua một sản phẩm, khách hàng bắt buộc phải có một mức độ hiểu biết nhất định. Ví dụ, khách hàng cần phải có kiến ​​thức tốt trong việc đưa ra quyết định mua các sản phẩm đắt tiền (Vigneron và Johnson, 1999). Tương tự, khi mua cổ phiếu hay sử dụng các khoản vay của ngân hàng, khách hàng cũng cần phải có kiến thức liên quan đến các sản phẩm, dịch vụ đó. Tuy nhiên, kiến​​ thức của khách hàng không chỉ bao gồm một khối kiến thức nhất định mà được chia thành hai loại, bao gồm kiến ​​thức chủ quan và kiến ​​thức khách quan. 
 
Kiến thức chủ quan là kiến ​​thức có được từ tự nhận thức của khách hàng (nghĩa là nhận thức chủ quan của khách hàng về những gì họ biết hoặc mức độ họ biết về sản phẩm). Để đo lường kiến ​​thức chủ quan của khách hàng, các tổ chức sẽ phát bảng hỏi, trong đó khách hàng được yêu cầu tự nhận định kiến ​​thức của mình về lĩnh vực hoặc sản phẩm nào đó (Cordell, 1997). Chẳng hạn, khách hàng sẽ được hỏi các câu hỏi về nhận định của khách hàng, sự hiểu biết của họ đối với dịch vụ tài chính. Nếu khách hàng tự nhận định là họ có kiến thức tốt về dịch vụ hay sản phẩm tài chính, điều đó đồng nghĩa với việc họ có kiến thức chủ quan cao về lĩnh vực tài chính hoặc dịch vụ tài chính.
 
Kiến ​​thức khách quan là kiến ​​thức mà khách hàng thực sự sở hữu (nghĩa là thông tin chính xác về sản phẩm, dịch vụ mà khách hàng lưu trữ trong bộ nhớ dài hạn). Để đánh giá kiến ​​thức khách quan của khách hàng về sản phẩm hoặc lĩnh vực nào đó, khách hàng sẽ được hỏi các câu hỏi liên quan đến thông tin thực tế về sản phẩm hoặc lĩnh vực nào đó (Brucks, 1985; Raju và Reilly, 1980; Rao và Monroe, 1988). Chẳng hạn, khách hàng sẽ được hỏi câu hỏi về mức lãi suất hiện nay đang được các ngân hàng thương mại áp dụng, đồng thời đưa ra một số đáp án để khách hàng chọn, mức độ kiến ​​thức khách quan sẽ được xác định dựa trên số câu hỏi mà khách hàng đã trả lời đúng (Johnson và Russo, 1984). Trong trường hợp này kiến thức được đo bằng kiến thức thực tế của khách hàng, tức là kiến thức khách quan của khách hàng.
 
2.2. Sự tự tin của khách hàng về kiến thức tài chính
 
Xia và cộng sự (2014) xác định sự tự tin về kiến thức tài chính của khách hàng bằng cách so sánh giữa kiến thức chủ quan và kiến thức khách quan. Tình trạng tự tin quá mức (overconfidence) xuất hiện khi kiến thức chủ quan của khách hàng lớn hơn kiến thức khách quan. Tức là khách hàng tự cảm nhận họ biết nhiều hơn kiến thức thực sự mà họ biết. Ngược lại, nếu kiến thức chủ quan thấp hơn kiến thức khách quan, khi đó khách hàng được coi là kém tự tin (underconfidence) về kiến thức tài chính. Tức là những khách hàng này mặc dù thực tế họ hiểu biết thực sự về kiến thức tài chính, nhưng họ lại nghĩ rằng kiến thức tài chính của họ không tốt. Chẳng hạn, khi trả lời các câu trắc nghiệm về các điều kiện vay vốn, về lãi suất ngân hàng thì một khách hàng trả lời đa số là đúng. Nhưng khi được hỏi rằng, khách hàng có nghĩ họ là người thành thạo về dịch vụ cho vay của ngân hàng không thì họ lại đánh giá thấp về hiểu biết của mình đối với dịch vụ cho vay của ngân hàng.
 
3. Tác động của sự tự tin về kiến thức tài chính đến hành vi khách hàng
 
3.1. Tác động của kiến thức tài chính tới hành vi ra quyết định của khách hàng
 
Cả hai kiến ​​thức chủ quan và khách quan đều ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định. 
 
Kiến ​​thức khách quan tác động đến khả năng và động cơ tìm kiếm thông tin (Brucks, 1985), xử lí thông tin (Cowley và Mitchell, 2003; Hong và Sternthal, 2010; Lee và Lee, 2011) và đánh giá thông tin liên quan (De Bont và Schoormans, 1995; Herr, 1989; Roy và Cornwell, 2004). Cụ thể, khi khách hàng có kiến thức khách quan tốt họ sẽ xử lí và đánh giá các thông tin một cách hiệu quả hơn, từ đó có thể nâng cao hiệu quả quyết định của họ. Rao và Monroe (1988) cho rằng, kiến ​​thức khách quan có ảnh hưởng đến lựa chọn của khách hàng đối với các thuộc tính bên ngoài như giá cả, bảo hành… trong quyết định mua hàng. Chẳng hạn, khách hàng sẽ có khả năng ra quyết định nhanh hơn khi họ có các thông tin về giá cả và các điều kiện bảo hành của sản phẩm. Rudell (1979) phát hiện ra rằng, kiến ​​thức khách quan giúp khách hàng tìm kiếm được thông tin mới một cách dễ dàng. Bên cạnh đó, khi khách hàng có kiến thức khách quan tốt về sản phẩm, họ sẽ tìm kiếm thông tin liên quan đến sản phẩm hiệu quả hơn và tự tin hơn trong việc đưa ra lựa chọn đúng đắn (Johnson và Russo, 1984; Brucks, 1985; Carlson và cộng sự, 2009). Ngoài ra, Hadar và cộng sự (2013) cho thấy, khi kiến ​​thức khách quan về dịch vụ tài chính của khách hàng tăng sẽ làm tăng hiệu quả lựa chọn của họ. 
 
Kiến thức chủ quan đóng một vai trò quan trọng trong giải quyết vấn đề (Metcalfe, 1986). Kiến ​​thức chủ quan cao sẽ góp phần làm tăng sự tin cậy vào thông tin trước đó được lưu trữ trong bộ nhớ của khách hàng. Khi có kiến thức chủ quan cao, khách hàng sẽ tìm kiếm thông tin ít hơn vì họ nghĩ rằng đã có đủ thông tin cần thiết. Có thể thấy, kiến thức chủ quan ảnh hưởng đến sự tự tin lựa chọn (Park và ​​Lessig, 2003), thời gian ra quyết định (Park và ​​Lessing, 2003), đánh giá chất lượng dịch vụ (Andaleeb và Basu, 1994), chiến lược tìm kiếm sản phẩm (Moorman, Diehl, Brinberg và Kidwell, 2004), giá trị cảm nhận (Barrutia và Gilsanz, 2012). 
 
Như vậy, các loại kiến ​​thức có những tác động khác nhau đối với việc ra quyết định. Quá trình ra quyết định của người tiêu dùng từ lựa chọn thuộc tính sản phẩm thông qua tìm kiếm thông tin đến kết quả quyết định cuối cùng, chẳng hạn như nhận thức được sự nhầm lẫn trong quá trình thực hiện có thể là kết quả của các loại kiến ​​thức khác nhau (Brucks, 1985). Rõ ràng là việc ra quyết định của khách hàng phụ thuộc vào mức độ hiểu biết của họ. Do đó, việc nhận thức được tác động của kiến ​​thức khách hàng đối với hành vi trong sử dụng dịch vụ tài chính là hết sức quan trọng đối với các nhà quản lí các tổ chức tài chính.
 
3.2. Ảnh hưởng của sự tự tin đến quyết định của khách hàng
 
Sự tự tin của khách hàng có ảnh hưởng đến việc ra quyết định. Khách hàng ở các trạng thái tự tin khác nhau sẽ có những quyết định khác nhau. Đồng thời hiệu quả của các quyết định này cũng bị ảnh hưởng bởi sự tự tin của khách hàng. Tự tin quá mức hay kém tự tin đều dẫn đến những hệ quả như phân bổ các nguồn lực cho việc ra quyết định, kém hiệu quả trong các quyết định.
 
(i) Ảnh hưởng của tự tin quá mức
 
Tự tin quá mức làm cho khách hàng không sử dụng tối ưu các nguồn lực trong quá trình ra quyết định mua hàng. Chẳng hạn, khi khách hàng quá tự tin dẫn đến ít nỗ lực trong tìm kiếm thông tin (Alba và Hutchinson, 2000), những khách hàng quá tự tin nghĩ rằng, họ đã có đủ thông tin và không có động cơ tìm kiếm thêm thông tin (Radecki và Jaccard, 1995). Vì vậy, trong nhiều trường hợp, các quyết định của khách hàng không hiệu quả, họ có thể mua một loại cổ phiếu mà không tăng trưởng trong tương lai hoặc sử dụng các món vay mà họ khó có khả năng trả nợ trong thời gian đã cam kết. 
 
Khách hàng quá tự tin thường thực hiện những “hành động một cách tự phụ”, tức là ra quyết định đối với những hành động rất khó thực hiện (Pillai và Hofacker, 2007), vì họ nghĩ rằng họ có đủ kiến thức để xử lí các hành động này. Hành động tự phụ có thể dẫn đến các quyết định mua hàng không phù hợp (Alba và Hutchinson, 2000; Hansen và Thomsen, 2013; Kidwell, Hardesty và Childers, 2008). Chẳng hạn, khách hàng có thể mua những sản phẩm hoặc sử dụng các dịch vụ mà không thực sự cần thiết hoặc không phù hợp với nhu cầu. Một số khách hàng vì quá tự tin nên có thể mua nhiều gói bảo hiểm không thực sự cần thiết. Bên cạnh đó, một số khách hàng có thể có những quyết định đầu tư mạo hiểm không hiệu quả (Hadar, Sood và Fox, 2013). Các hành động này thường mang lại sự thất vọng hoặc không hài lòng khi khách hàng không đạt được kết quả như mong muốn (Pillai và Hofacker, 2007). Khi khách hàng quá tự tin họ thường đặt kì vọng cao. Lí do là họ nhận thức không chính xác rằng có đủ kiến thức khách quan để đạt kết quả cao. Vì vậy, khi kết quả đầu tư không như kì vọng họ sẽ cảm thấy thất vọng. 
 
(ii) Ảnh hưởng của kém tự tin
 
Khách hàng thiếu tự tin nghĩ rằng, kiến thức của họ không đủ để thực hiện việc ra quyết định, vì vậy, họ nỗ lực nhiều hơn để khắc phục tình trạng kém tự tin. Họ có thể dành nhiều thời gian để tìm kiếm thông tin. Việc tìm kiếm quá nhiều thông tin dẫn đến việc ra quyết định chậm chạp. Ngoài ra, việc sử dụng quá mức thời gian để tìm kiếm thông tin có thể dẫn đến những hậu quả tiêu cực như sự thất vọng (Pillai và Hofacker, 2007). Sự thất vọng này thể hiện ở việc khi có quá nhiều thông tin họ không biết nên ra quyết định như thế nào cho đúng. Một số người sau khi ra quyết định lại cảm thấy hối tiếc vì các quyết định của mình.
 
Khách hàng kém tự tin sẽ hành động một cách rụt rè (tức là tham gia vào các hành động quá dễ thực hiện) do thực tế họ nghĩ rằng họ không có đủ kiến thức để tham gia vào các quyết định khó hơn (Pillai và Hofacker, 2007). Khi tham gia vào các quyết định dễ dàng, kết quả của quyết định thường là những kết quả khiêm tốn. Chính vì vậy, khi thu nhận kết quả, họ có thể cảm thấy không hài lòng (Puligadda và cộng sự, 2010). 
 
4. Khuyến nghị đối với các tổ chức tài chính
 
Kiến thức và sự tự tin có ảnh hưởng rõ ràng tới hành vi ra quyết định và hiệu quả ra quyết định của khách hàng, vì vậy, các tổ chức tài chính cần có những biện pháp phù hợp để nâng cao kiến thức, đồng thời cân bằng mức độ tự tin của khách hàng. Cụ thể, các tổ chức tài chính cần thực hiện đồng bộ ba biện pháp sau:
 
Thứ nhất, nâng cao kiến thức chủ quan của khách hàng
 
Khi có kiến thức chủ quan cao, khách hàng có thể nhanh chóng thực hiện các quyết định sử dụng dịch vụ tài chính. Vì vậy, để có thể thu hút khách hàng sử dụng các dịch vụ cần nâng cao kiến thức chủ quan của khách hàng. Điều này có thể đạt được bằng việc các tổ chức tài chính cung cấp nhiều trải nghiệm tích cực hơn cho khách hàng. Từ những trải nghiệm này, khách hàng sẽ có cảm giác tự tin hơn đối với các dịch vụ tài chính, từ đó, nâng cao kiến thức chủ quan và thúc đẩy họ ra các quyết định sử dụng dịch vụ.
 
Trải nghiệm khách hàng được hình thành từ tất cả các tương tác của khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ tài chính. Chẳng hạn, đối với dịch vụ ngân hàng, trải nghiệm của khách hàng chính là những cảm nhận qua các tương tác với quá trình cung cấp dịch vụ, đồng thời là kết quả của tất cả các quá trình tiếp cận, tìm hiểu, thực hiện giao dịch với cán bộ ngân hàng ở các bộ phận, các kênh khác nhau, bao gồm cả kênh giao dịch trực tiếp lẫn kênh giao dịch trực tuyến như POS, ATM… Có thể thấy, bất kì một tương tác nào giữa khách hàng với ngân hàng đều hình thành nên những trải nghiệm của khách hàng đối với ngân hàng. Chẳng hạn khi cán bộ ngân hàng hướng dẫn khách hàng đăng kí hay thực hiện giao dịch trên giao diện ngân hàng điện tử; cán bộ ngân hàng tư vấn khách hàng lựa chọn dịch vụ tiền gửi với kì hạn và lãi suất tối ưu; nhân viên giao dịch tổng đài khi trả lời khách hàng… mỗi tương tác như vậy đều tạo ra những cảm nhận trải nghiệm của khách hàng. Nếu khách hàng gọi đến tổng đài của ngân hàng nhưng nhân viên trả lời với giọng điệu tẻ nhạt, không cảm xúc hay trong trường hợp khách hàng tìm kiếm mạng lưới phòng giao dịch trên website của ngân hàng nhưng không thấy phòng giao dịch tại nơi mình cần tìm do website không được cập nhật thường xuyên có thể tạo ra những trải nghiệm tiêu cực đối với khách hàng. Những tương tác của khách hàng với ngân hàng rất đa dạng, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là ngân hàng không quản lí được các trải nghiệm này. Khách hàng khi có những trải nghiệm tích cực đối với ngân hàng thì sẽ tự tin hơn trong các lần giao dịch tiếp theo, từ đó thúc đẩy họ sử dụng dịch vụ. Các ngân hàng nếu ý thức được tổng thể các tương tác này thì có thể có cách quản lí phù hợp, nâng cao trải nghiệm tích cực cho khách hàng. 
 
Thứ hai, nâng cao kiến thức khách quan của khách hàng
 
Nâng cao kiến thức khách quan của khách hàng đồng nghĩa với nâng cao hiểu biết về tài chính của khách hàng. Hiểu biết về tài chính đã nhận được sự quan tâm ngày càng tăng trên khắp thế giới ở cả các nước phát triển và đang phát triển. Từ năm 2007 đến năm 2011, Chính phủ Indonesia đã triển khai một loạt chương trình nâng cao hiểu biết về tài chính với mục tiêu là cải thiện khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính. Vào tháng 01/2010, Chính phủ Hoa Kì đã thành lập hội đồng cố vấn của Tổng thống về kiến thức tài chính, chịu trách nhiệm thúc đẩy các chương trình nhằm tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính và thúc đẩy giáo dục tài chính ở tất cả các cấp của nền kinh tế. Tương tự, ở Úc, các chương trình hiểu biết về tài chính đã được thực hiện bởi cả Chính phủ và các tổ chức tài chính. Chiến lược Kiến thức tài chính quốc gia 2014 - 2017 do Ủy ban Đầu tư và Chứng khoán Úc đứng đầu, vạch ra một kế hoạch quốc gia về kiến ​​thức tài chính và đề xuất một khuôn khổ hành động thiết thực cho các lĩnh vực cộng đồng và giáo dục, doanh nghiệp và Chính phủ. Mục tiêu tổng thể của Chiến lược là cải thiện kiến ​​thức về tài chính của người Úc. Các tổ chức tài chính Úc cũng cung cấp các chương trình giáo dục tài chính. Từ năm 2004 đến năm 2008, hơn 1,75 triệu AUD đã được Ngân hàng Commonwealth đầu tư vào để nâng cao kiến ​​thức tài chính cho các trường trung học ở Úc, phân phối miễn phí một bộ tài liệu giáo dục hỗ trợ giáo viên cải thiện khả năng quản lí tài chính của học sinh. New Zealand xây dựng Chiến lược quốc gia về kiến thức tài chính (2008).
 
Tại Việt Nam, Chính phủ đã có những nỗ lực thúc đẩy giáo dục tài chính toàn diện cho người dân thông qua Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh chính sách của Chính phủ, các tổ chức tài chính cần tăng cường những hoạt động cung cấp kiến thức tài chính cho khách hàng. Cụ thể, các tổ chức tài chính có thể chủ động phối hợp với các trường học để cung cấp những khóa học về tài chính cho học sinh ở tất cả các cấp, đặc biệt là cấp học phổ thông. Với những kiến thức tốt về tài chính, học sinh sẽ tự tin khi tham gia các giao dịch, từ đó thúc đẩy hành vi sử dụng dịch vụ tài chính.
 
Thứ ba, nâng cao hiệu quả ra quyết định của khách hàng
 
Có thể thấy, việc khách hàng quá tự tin hay kém tự tin có thể ảnh hưởng việc ra quyết định của họ. Do vậy, các tổ chức tài chính cần cân bằng được sự tự tin của khách hàng bằng cách đồng thời thực hiện hai chiến lược nâng cao trải nghiệm cho khách hàng và cung cấp kiến thức tài chính cho khách hàng. Bởi vì, nếu chỉ tập trung cung cấp một trong hai nội dung trên sẽ dẫn đến tình trạng khách hàng tự tin thái quá (trường hợp chỉ cung cấp trải nghiệm mà ít cung cấp kiến thức/thông tin) hoặc kém tự tin (trường hợp chỉ cung cấp kiến thức mà không cung cấp các trải nghiệm). Việc cân bằng được sự tự tin sẽ làm giảm thiểu những sai sót trong quyết định, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng các dịch vụ tài chính của khách hàng.
 
5. Kết luận
 
Kiến thức và sự tự tin có ảnh hưởng lớn đến quyết định của khách hàng. Để nâng cao kiến thức và sự tự tin của khách hàng, các tổ chức tài chính trước hết cần hiểu được tác động của các yếu tố này đến hành vi ra quyết định. Trên cơ sở đó, có thể đưa ra những chiến lược phù hợp để nâng cao kiến thức và sự tự tin nhằm thúc đẩy ra quyết định, đồng thời nâng cao hiệu quả ra quyết định của khách hàng. Điều đó cũng đồng nghĩa nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tài chính.
 
Tài liệu tham khảo:
 
1. A. Demirgüç-Kunt, L. Klapper, D. Singer, P. Van Oudheusden (2015), Measuring Financial Inclusion Around the World (Policy Research Working Paper No. 7255) The World Bank, Washington, DC. 
2. Alba, J. W. & Hutchinson, J. W. (2000). Knowledge calibration: What consumers know and what they think they know. Journal of Consumer Research, 27,  pages 123-156.
3. Alba, J. W., & Hutchinson, J. W. (2000). Knowledge calibration: What consumers know and what they think they know. Journal of Consumer Research, 27, pages 123-156.
4. Andaleeb, S. S., & Basu, A. K. (1994). Technical complexity and consumer knowledge as moderators of service quality evaluation in the automobile service industry. Journal of Retailing, 70, pages 367-381.
5. Atkinson, A. and F. Messy (2013), “Promoting Financial Inclusion through Financial Education: OECD/INFE Evidence, Policies and Practice”, OECD Working paper.
6. Barrutia, J. M., & Gilsanz, A. (2012). Electronic service quality and value: Do consumer knowledge-related resources matter? Journal of Service Research, 16, pages 231-246.
7. Brucks, M. (1985). The effects of product class knowledge on information search behavior. Journal of Consumer Research, 12, pages 1-16.
8. Carlson, J. P., Vincent, L. H., Hardesty, D. M. & Bearden, W. O. (2009). Objective and subjective knowledge relationships: a quantitative analysis of consumer research findings. Journal of Consumer Research, 35, pages 864-876.
9. Cordell, V.V. (1997). Consumer knowledge measures as predictors in product evaluation. Psychology & Marketing, 14(3), pages 241-260. 
10. Cowley, E., & Mitchell, A. A. (2003). The moderating effect of product knowledge on the learning and organization of product information. Journal of Consumer Research, 30, pages 443-454.
11. De Bont, C. J. P. M., & Schoormans, J. P. L. (1995). The effects of product expertise on consumer evaluations of newproduct concepts. Journal of Economic Psychology, 16, pages 599-615.
12. Hadar, L., Sood, S. & Fox, C. R. (2013). Subjective Knowledge in Consumer Financial Decisions. Journal of Marketing Research, 50, pages 303-316.
13. Hansen, T., & Thomsen, T. U. (2013). I know what I know, but I will probably fail anyway: How learned helplessness moderates the knowledge calibration-dietary choice quality relationship. Psychology & Marketing, 30, pages 1008-1028.
14. Herr, P. M. (1989). Prior knowledge and context effects. Journal of Consumer Research, 16, pages 67-75
15. Hong, J., & Sternthal, B. (2010). The effects of consumer prior knowledge and processing strategies on judgments. Journal of Marketing Research, 47, pages 301-311.
16. Johnson, E. J. & Russo, J. E. (1984). Product familiarity and learning new information. Journal of Consumer Research, 11, pages 542-550.
17. Kidwell, B., Hardesty, D. M., & Childers, T. L. (2008). Emotional calibration effects on consumer choice. Journal of Consumer Research, 35, pages 611-621.
18. Lee, B. K., & Lee, W. N. (2011). Competitive ad context: The item-specific-relational perspective. Psychology & Marketing, 28, pages 360-387.
19. Metcalfe, J. (1986). Feeling of knowing in memory and problem solving. Journal of Experimental Psychology: Learning, Memory, and Cognition, 12, 288.
20. Moorman, C., Diehl, K., Brinberg, D., & Kidwell, B. (2004). Subjective knowledge, search locations, and consumer choice. Journal of Consumer Research, 31, pages 673-680.
21. Park, C. W., & Lessig, V. P. (2003). Familiarity and its impact on consumer decision biases and heuristics. Journal of Consumer Research, 8, pages 223-231.
22. Pillai, K. G., & Hofacker, C. (2007). Calibration of consumer knowledge of the web. Journal of Research in Marketing, 24, pages 254-267.
23. Puligadda, S., Grewal, R., Rangaswamy, A., & Kardes, F. R. (2010). The role of idiosyncratic attribute evaluation in mass customization. Journal of Consumer Psychology, 20, pages 369-380.
24. Radecki, C. M., & Jaccard, J. (1995). Perceptions of knowledge, actual knowledge, and information search behavior. Journal of Experimental Social Psychology, 31, pages 107-138.
25. Raju, P. S. & Reilly, M. D. (1980). Product familiarity and information processing strategies: An exploratory investigation. Journal of Business Research, 8, pages 187-212.
26. Raju, P. S., Lonial, S. C. & Glynn Mangold, W (1995). Differential effects of subjective knowledge, objective knowledge, and usage experience on 
decision making: An exploratory investigation. Journal of Consumer Psychology, 4, pages 153-180.
27. Rao, A. R. & Monroe, K. B. (1988). The moderating effect of prior knowledge on cue utilization in product evaluations. Journal of Consumer 
Research, 15, pages 253-264.
28. Roy, D. P., & Cornwell, T. B. (2004). The effects of consumer knowledge on responses to event sponsorships. Psychology & Marketing, 21, pages 185-207.
29. Rudell, F. 1979. Consumer food selection and nutrition information, Praeger New York.
30. Vigneron, F. and Johnson, L.W. (1999) A Review and Conceptual Framework of Prestige Seeking Consumer Behavior. Academy of Marketing Science Review, 1, pages 1-15.
31. Xia, T., Wang, Z., and Li, K. (2014). Financial literacy overconfidence and stock market participation. Social Indicators Research, 119(3): pages 1-13.

TS. Nguyễn Hoài Nam 
Học viện Ngân hàng
 
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024 và triển vọng
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024 và triển vọng
26/07/2024 84 lượt xem
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được xem là một trong năm mũi đột phá của Việt Nam cần được tập trung để thúc đẩy tăng trưởng phát triển và hội nhập.
Sự phát triển của Fintech và thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
Sự phát triển của Fintech và thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
24/07/2024 247 lượt xem
Sự xuất hiện của các công ty công nghệ tài chính (Fintech) trên thị trường đã làm thay đổi toàn bộ ngành dịch vụ tài chính, thúc đẩy phát triển các kênh phân phối sản phẩm, dịch vụ ngân hàng truyền thống...
Một số rủi ro khi sử dụng thẻ tín dụng - Kinh nghiệm và bài học cho giới trẻ
Một số rủi ro khi sử dụng thẻ tín dụng - Kinh nghiệm và bài học cho giới trẻ
22/07/2024 241 lượt xem
Ở thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), thẻ tín dụng dần trở thành một phương tiện thanh toán khá phổ biến đối với bất kì khách hàng nào bởi tính tiện dụng trong chi tiêu và thanh toán.
Chủ động sử dụng và ứng phó với phòng vệ thương mại
Chủ động sử dụng và ứng phó với phòng vệ thương mại
22/07/2024 186 lượt xem
Ngày nay, toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại đang trở thành xu hướng tất yếu, phát triển ngày càng sâu rộng trên thế giới, ngày càng có nhiều nước tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và nhiều Hiệp định Thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương đã được ký kết.
Nghiên cứu xây dựng mô hình học sâu phát hiện tin nhắn rác dựa trên bộ dữ liệu phức hợp được cập nhật
Nghiên cứu xây dựng mô hình học sâu phát hiện tin nhắn rác dựa trên bộ dữ liệu phức hợp được cập nhật
19/07/2024 234 lượt xem
Dựa trên bộ dữ liệu phức hợp mới được cập nhật, bài viết này đề xuất mô hình học máy nhằm phát hiện tin nhắn rác giúp giảm thiểu tối đa những rủi ro mà người dùng thiết bị di động đang phải đối mặt, đặc biệt là rủi ro liên quan đến vấn đề tài chính.
Đánh giá tác động của tham nhũng địa phương đến hoạt động ESG của doanh nghiệp Việt Nam
Đánh giá tác động của tham nhũng địa phương đến hoạt động ESG của doanh nghiệp Việt Nam
18/07/2024 262 lượt xem
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của tham nhũng địa phương (tham nhũng cấp tỉnh/thành phố) đến hoạt động ESG (Environmental - môi trường, Social - xã hội và Governance - quản trị) của doanh nghiệp tại Việt Nam.
Lãi suất theo quy định pháp luật Việt Nam và sự cân nhắc về “mức giới hạn trần” trong hoạt động cho vay của các công ty tài chính.
Lãi suất theo quy định pháp luật Việt Nam và sự cân nhắc về “mức giới hạn trần” trong hoạt động cho vay của các công ty tài chính.
16/07/2024 444 lượt xem
“Lãi suất là công cụ tích cực trong phát triển kinh tế và đồng thời cũng là một công cụ kìm hãm của chính sự phát triển ấy, tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại trong việc sử dụng chúng” - đây là phát biểu của nhà kinh tế học người Pháp A. Poial.
Giải pháp và lộ trình áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế đối với hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam
Giải pháp và lộ trình áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế đối với hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam
15/07/2024 327 lượt xem
Với xu hướng hội nhập tài chính quốc tế, để đảm bảo cung cấp thông tin chính xác, minh bạch, việc áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) là một trong những điều kiện cần thiết để đẩy mạnh xu hướng này, góp phần hoàn thiện các giải pháp đồng bộ thúc đẩy lĩnh vực kế toán - kiểm toán phát triển; đảm bảo việc ghi nhận sổ sách theo cơ chế thị trường vận hành và thông lệ quốc tế.
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
11/07/2024 426 lượt xem
Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế đất nước (1986 - 2024), khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn luôn đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, mặc dù đạt được những kết quả quan trọng, nhưng hoạt động và đóng góp của khối doanh nghiệp nhà nước vào nền kinh tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng.
Đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023
Đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023
01/07/2024 671 lượt xem
Mục tiêu của bài viết này là phân tích và đánh giá thực trạng an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023 trên các khía cạnh gồm an toàn vốn, thanh khoản và chất lượng tài sản. Qua đó, bài viết đưa ra một số giải pháp đối với các NHTM Việt Nam và kiến nghị đối với các cơ quan quản lí nhà nước nhằm đảm bảo sự an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Tác động truyền thông chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tới người tiêu dùng
Tác động truyền thông chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tới người tiêu dùng
27/06/2024 558 lượt xem
Bài viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính truyền thống và nghiên cứu định lượng qua việc chạy mô hình hồi quy Logistic nhị phân (Binary Logistic Regression) để đánh giá tác động từ truyền thông chính sách tiền tệ (CSTT) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tới người tiêu dùng.
Mô hình tập trung trong thanh toán quốc tế của một số ngân hàng trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
Mô hình tập trung trong thanh toán quốc tế của một số ngân hàng trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
25/06/2024 623 lượt xem
Có nhiều mô hình thanh toán quốc tế đang được áp dụng tại các ngân hàng trên thế giới, bao gồm mô hình tập trung, phân tán, thuê ngoài và các mô hình thanh toán khác.
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay
19/06/2024 671 lượt xem
Phát huy vai trò báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thời gian qua đã được Đảng, Nhà nước, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt Nam, các cơ quan báo chí trong cả nước và đội ngũ những người làm báo quan tâm, chăm lo, thực hiện; từng bước đề ra nhiều nội dung, giải pháp, phương thức, phát huy hiệu quả vai trò của báo chí cách mạng.
Ứng dụng ESG trong xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Việt Nam
Ứng dụng ESG trong xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Việt Nam
19/06/2024 654 lượt xem
Kinh doanh bền vững gắn với bảo vệ môi trường, đề cao trách nhiệm xã hội đang là xu thế tất yếu tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Vai trò điều tiết của đa dạng hóa thu nhập đến mối quan hệ giữa các yếu tố đặc thù với khả năng sinh lời của ngân hàng
Vai trò điều tiết của đa dạng hóa thu nhập đến mối quan hệ giữa các yếu tố đặc thù với khả năng sinh lời của ngân hàng
17/06/2024 479 lượt xem
Là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống tài chính, các ngân hàng đóng vai trò trung gian trong việc chuyển vốn từ bên thừa sang bên thiếu vốn.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

Vàng SJC 5c

77.500

79.520

Vàng nhẫn 9999

75.600

77.000

Vàng nữ trang 9999

75.500

76.600


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,127 25,477 26,885 28,360 31,917 33,274 156.80 165.96
BIDV 25,157 25,477 27,090 28,390 32,186 33,429 157.71 166.56
VietinBank 25,157 25,477 27,180 28,380 32,396 33,406 158.36 166.11
Agribank 25,160 25,477 27,065 28,310 32,089 33,255 157.73 165.80
Eximbank 25,130 25,476 27,140 27,981 32,273 33,175 158.91 163.85
ACB 25,140 25,477 27,136 28,068 32,329 33,306 158.59 164.86
Sacombank 25,190 25,477 27,338 28,340 32,507 33,217 159.66 164.69
Techcombank 25,132 25,477 27,000 28,353 31,994 33,324 155.51 167.92
LPBank 24,937 25,477 26,998 28,670 32,415 33,421 157.95 169.10
DongA Bank 25,180 25,477 27,140 28,010 32,200 33,300 156.60 164.60
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,30
3,60
4,30
4,40
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,60
2,60
2,90
3,80
3,80
4,50
4,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
2,00
2,00
2,30
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
2,90
3,10
3,20
4,00
4,00
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?