Hoàn thiện pháp lý và chuẩn hóa hạ tầng kỹ thuật: Tạo nền tảng thúc đẩy số hóa ngân hàng

Công nghệ & ngân hàng số
Với những giải pháp và nỗ lực của cả hệ thống, chuyển đổi số ngân hàng đã gặt hái nhiều “trái ngọt”. Tuy nhiên, còn nhiều thách thức cản trở quá trình số hóa ngân hàng.
aa

Với những giải pháp và nỗ lực của cả hệ thống, chuyển đổi số ngân hàng đã gặt hái nhiều “trái ngọt”. Tuy nhiên, còn nhiều thách thức cản trở quá trình số hóa ngân hàng. Thời gian tới, để đạt các mục tiêu của chuyển đổi số, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục phối hợp các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý bảo đảm sự đồng bộ, phù hợp của các quy định pháp lý hiện hành cũng như bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người sử dụng dịch vụ ngân hàng. Bên cạnh đó, ở tầm vĩ mô, Việt Nam cần tiến tới xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật chuẩn hóa tạo thuận lợi cho kết nối liên thông, tích hợp liền mạch giữa ngành Ngân hàng với các ngành, lĩnh vực khác để hình thành hệ sinh thái số.



Ảnh minh họa, nguồn Internet


Tại Việt Nam, chuyển đổi số được xem là một trong những trụ cột chính trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 của Đại hội Đảng lần thứ XIII. Trong đó, chuyển đổi số ngành tài chính, ngân hàng và chuyển đổi số ngành nông nghiệp được xác định là hai trong tám lĩnh vực cần ưu tiên theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Triển khai Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, NHNN đã ban hành Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021). Sau 3 năm triển khai Quyết định số 810/QĐ-NHNN, hoạt động chuyển số ngành Ngân hàng đã đạt được những thành quả đáng khích lệ, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế.

Chuyển đổi số ngân hàng góp phần thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia

Thời gian qua, về khuôn khổ pháp lý, NHNN đã nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung trình ban hành và ban hành các quy định nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển đổi số ngân hàng như: Xây dựng, tham mưu Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024; phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an... trong xây dựng Luật Giao dịch điện tử, Luật Căn cước...; trình Chính phủ ban hành Nghị định về Thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng và tham gia ý kiến xây dựng Nghị định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, Nghị định về định danh và xác thực điện tử... Đồng thời, NHNN đã ban hành các thông tư hướng dẫn: Hướng dẫn mở và sử dụng tài khoản (Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán), về hoạt động thẻ ngân hàng (Thông tư số 18/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024), hoạt động đại lý ngân hàng, quản lý, vận hành và sử dụng hệ thống thanh toán liên ngân hàng quốc gia, cung ứng dịch vụ TTKDTM, hoạt động trung gian thanh toán (TGTT), giám sát và thực hiện giám sát các hệ thống thanh toán quan trọng, hoạt động cung ứng dịch vụ TGTT. NHNN cũng ban hành quy định các giải pháp bảo đảm an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến và thanh toán thẻ ngân hàng (Quyết định số 2345/QĐ-NHNN ngày 18/12/2023); ban hành Chiến lược phát triển các hệ thống thanh toán Việt Nam đến năm 2030 góp phần định hướng phát triển thanh toán số tại Việt Nam.

Hạ tầng phục vụ chuyển đổi số ngành Ngân hàng luôn được chú trọng đầu tư, nâng cấp, phát triển. Theo NHNN, hệ thống Thanh toán điện tử liên ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn, bình quân xử lý giao dịch thanh toán nội tệ hơn 830 nghìn tỉ đồng/ngày. Hệ thống chuyển mạch tài chính, bù trừ điện tử có khả năng xử lý giao dịch thanh toán tức thời, vận hành liên tục 24 giờ x 7 ngày trong suốt năm, bình quân xử lý từ 20 - 25 triệu giao dịch/ngày. Đến hết quý III/2024, toàn thị trường có hơn 21.000 ATM và 671.000 POS; mạng lưới chấp nhận thanh toán (POS/QR Code) phủ đến hầu hết các địa phương trên toàn quốc. Việt Nam đã hoàn tất kết nối hệ thống thanh toán xuyên biên giới qua QR Code với Thái Lan, Campuchia, Lào (đang tiếp tục triển khai với Hàn Quốc, Nhật Bản), cho phép khách hàng thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ tại nước ngoài thông qua QR Code ngay trên ứng dụng di động (Mobile App) của ngân hàng Việt Nam và ngược lại.

Bên cạnh đó, NHNN quyết liệt trong triển khai thực hiện Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ việc chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06). Ngày 24/4/2023, NHNN đã phối hợp Bộ Công an ký kết Kế hoạch số 01/KHPH-BCA-NHNNVN (Kế hoạch 01) về triển khai thực hiện các nhiệm vụ tại Đề án 06. Từ đó đến nay, ngành Ngân hàng đã rất tích cực và nỗ lực để triển khai các nhiệm vụ đặt ra tại Kế hoạch 01, đặc biệt là đối với những nhiệm vụ liên quan đến việc kết nối, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGvDC) làm sạch dữ liệu khách hàng và các hoạt động nghiệp vụ của ngành Ngân hàng; ứng dụng thẻ căn cước công dân (CCCD) gắn chíp và ứng dụng tài khoản định danh và xác thực điện tử (VNeID) để xác minh khách hàng khi cung ứng dịch vụ, qua đó góp phần tăng cường an ninh, an toàn trong quá trình phổ cập thanh toán số.

NHNN đã liên tục chỉ đạo các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, TGTT nghiên cứu, ứng dụng dữ liệu về dân cư, CCCD gắn chíp, tài khoản định danh và xác thực điện tử (VNeID) để làm sạch dữ liệu, nhận biết, xác minh chính xác khách hàng nhằm phòng chống, ngăn ngừa việc tội phạm mạo danh, sử dụng giấy tờ tùy thân giả mạo đăng ký sử dụng dịch vụ ngân hàng cho mục đích bất hợp pháp; đồng thời nghiên cứu ứng dụng dữ liệu dân cư trong triển khai các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng thuận tiện, an toàn nhất đến với người dân, khách hàng. Đến nay, đã có: (i) 54 TCTD đã phối hợp với các doanh nghiệp được Bộ Công an cấp phép để triển khai thực tế ứng dụng thẻ CCCD gắn chíp qua thiết bị tại quầy; 47 TCTD và 31 TGTT đã phối hợp với các doanh nghiệp được Bộ Công an cấp phép để triển khai ứng dụng thẻ CCCD gắn chíp qua ứng dụng Mobile App; (ii) 29 TCTD và 13 TGTT đang triển khai ứng dụng VNeID cho 3 luồng quy trình nghiệp vụ chính, gồm: Mở tài khoản thanh toán; xác thực giao dịch thanh toán; đối chiếu, xác thực thông tin khách hàng. Bên cạnh đó, các TCTD cũng đang tích cực nghiên cứu, tích hợp kỹ thuật để triển khai các nội dung nhiệm vụ khác như chấm điểm tín dụng, kết nối luồng liên kết tài khoản an sinh xã hội với tài khoản ngân hàng phục vụ cho chi trả an sinh xã hội, trong đó nhiều đơn vị đã triển khai thực tế đem đến nhiều tiện ích cho người dân, doanh nghiệp, hỗ trợ công tác quản lý nhà nước, thúc đẩy chuyển đổi số ngành Ngân hàng.

Công tác bảo đảm an ninh, an toàn luôn được chú trọng. NHNN thường xuyên chỉ đạo toàn Ngành về việc bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống thanh toán, ban hành các văn bản chỉ đạo về bảo đảm an ninh an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời ban hành các văn bản thông báo, cảnh báo, phòng ngừa, phát hiện các hành vi, thủ đoạn gian lận trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán nói riêng. NHNN cũng thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, cơ quan triển khai các biện pháp trong bảo đảm an ninh an toàn hoạt động ngân hàng, tăng cường truyền thông, giáo dục tài chính nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng cho người dân trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính - ngân hàng trên nền tảng số.

Với những giải pháp và nỗ lực của cả hệ thống, chuyển đổi số ngân hàng đã gặt hái nhiều “trái ngọt”. Trong bảng xếp hạng Bộ chỉ số đánh giá chuyển đổi số (DTI) do Bộ Thông tin và Truyền thông công bố, NHNN liên tiếp được xếp thứ hạng cao, nằm trong tốp đầu về chỉ số DTI, chỉ số thể chế số, chỉ số an toàn thông tin mạng. Nhiều ngân hàng Việt Nam chuyển đổi số ở tốp đầu hiện đã đạt 90% giao dịch khách hàng thực hiện trên kênh số. Đến nay, hơn 87% người Việt Nam trưởng thành có tài khoản thanh toán tại TCTD, tốc độ tăng trưởng thanh toán qua di động hằng năm đạt trên 90% trong 6 năm gần đây.

Các TCTD, TGTT đã chủ động đầu tư nâng cấp hạ tầng công nghệ đáp ứng yêu cầu, sẵn sàng triển khai các hoạt động chuyển đổi số trong toàn đơn vị. Các TCTD tập trung chuyển đổi số các hoạt động kinh doanh truyền thống cùng với việc có thêm nhiều kênh tương tác đã đem lại các sản phẩm, dịch vụ mới, tiện ích và hoàn toàn khác biệt so với trước đây như: Phát triển tính năng nộp/rút tiền trên máy giao dịch tự động; nộp/rút tiền mặt bằng CCCD gắn chíp; giải ngân trực tuyến dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; thanh toán quốc tế trực tuyến ngay tại đầu khách hàng; mở thẻ tín dụng qua tương tác giao dịch với rô-bốt, thanh toán chạm bằng điện thoại thông minh (Tap to pay), thanh toán phi tiếp xúc, thanh toán bằng giọng nói, khuôn mặt... Nhiều sản phẩm, dịch vụ ngân hàng thân thiện, giàu tiện ích, đem lại giá trị thiết thực đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng của khách hàng. Nhiều nghiệp vụ cơ bản đã được số hóa hoàn toàn 100% (tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn, mở và sử dụng tài khoản thanh toán, mở thẻ ngân hàng, ví điện tử, chuyển tiền, cho vay...). Nhiều TCTD tại Việt Nam có tỉ lệ trên 90% giao dịch thực hiện trên kênh số.

Số liệu hoạt động thanh toán trong 8 tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ năm 2023 cho thấy: Giao dịch TTKDTM tăng 59,05% về số lượng và 33,64% về giá trị, qua kênh Internet tăng 50,85% về số lượng và 33,15% về giá trị, qua kênh điện thoại di động tăng 58,95% về số lượng và 36,60% về giá trị, qua QR Code tăng 109,03% về số lượng và 111,37% về giá trị. Giao dịch qua Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng 6,46% về số lượng và tăng 30,51% về giá trị; qua Hệ thống bù trừ, chuyển mạch giao dịch tài chính tăng 34,03% về số lượng và 18,49% về giá trị.

Hóa giải những thách thức để chuyển đổi số ngân hàng bứt tốc

Mặc dù đạt nhiều thành tựu, đưa lại nhiều tiện ích và gia tăng trải nghiệm cho khách hàng, đồng thời đóng góp quan trọng vào quá trình chuyển đổi số quốc gia, thúc đẩy kinh tế số, xã hội số nhưng ngành Ngân hàng cũng đối mặt nhiều khó khăn, thách thức.

Trước hết, về mặt pháp lý, đến nay, Việt Nam vẫn chưa bảo đảm sự đồng bộ và phù hợp của các quy định pháp lý hiện hành liên quan về giao dịch điện tử, chữ ký điện tử, định danh và xác thực điện tử, cơ chế kết nối chia sẻ dữ liệu gắn bảo vệ dữ liệu cá nhân... với thực tiễn ứng dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng. Nhiều quy định pháp luật còn chưa rõ, chưa đồng bộ gây khó khăn, bất cập cho quá trình chuyển đổi số.

Bên cạnh đó là thách thức về sự đồng bộ và chuẩn hóa các cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhằm tạo thuận lợi cho kết nối liên thông, tích hợp liền mạch giữa ngành Ngân hàng với các ngành, lĩnh vực khác để hình thành hệ sinh thái số, cung ứng dịch vụ đa tiện ích cho khách hàng. Chưa kể, công nghệ ứng dụng trong ngân hàng số thường có tốc độ phát triển nhanh và dễ dàng thay thế bằng các công nghệ mới. Chi phí đầu tư công nghệ lớn đến từ việc các ngân hàng thường xuyên cải tiến, bảo trì và nâng cấp hệ thống để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng của khách hàng đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh.

Ngoài ra là những hạn chế về cơ sở dữ liệu, chia sẻ thông tin. Cụ thể, để tạo ra một hệ sinh thái thì việc chia sẻ dữ liệu sẽ cần ở mức sâu, rộng hơn và số hóa. Với hoạt động ngân hàng mở (Open Banking) là giải pháp cho vấn đề này và là nền tảng để tạo ra các hệ sinh thái. Tuy nhiên, Việt Nam hiện chưa có quy định pháp luật đầy đủ về Open Banking như tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo mật, các loại dữ liệu được chia sẻ, các bên được quyền tiếp cận, quyền lợi và nghĩa vụ liên quan… Điều này khiến các ngân hàng Việt Nam chưa thể hình thành được một hệ sinh thái đúng nghĩa. Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở dữ liệu khách hàng là yêu cầu bắt buộc để tạo ra một hệ sinh thái. Tuy vậy, điều này vẫn là một hạn chế lớn đối với các ngân hàng tại Việt Nam, kể cả các ngân hàng lớn, khi mà dữ liệu còn rời rạc, chưa được cập nhật, chuẩn hóa và số hóa.

Đặc biệt, công nghệ càng phát triển thì tội phạm công nghệ cao lại gia tăng cùng với đó là việc bảo đảm an ninh, an toàn, bảo mật dữ liệu khách hàng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số một cách thuận tiện, an toàn. Bởi lẽ, rủi ro về bảo mật gia tăng làm ảnh hưởng đến lòng tin của khách hàng và được xem là một trong những nhân tố chính cản trở sự phát triển các phương tiện giao dịch điện tử tại Việt Nam.

Thêm nữa là hạn chế về nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyên gia công nghệ thông tin, chuyển đổi số, phân tích dữ liệu còn thiếu và yếu; nhiều nhân sự am hiểu về tài chính, ngân hàng thì chưa thực sự am hiểu về công nghệ và ngược lại.

Để quá trình số hóa ngân hàng đạt những mục tiêu đề ra, trong thời gian tới, NHNN cần tiếp tục triển khai một số nội dung:

Thứ nhất, tập trung hoàn thiện thể chế, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan đẩy nhanh việc rà soát, sửa đổi, ban hành các văn bản pháp luật thúc đẩy chuyển đổi số ngành Ngân hàng, trong đó bao gồm nội dung hoàn thiện, đề xuất Chính phủ ban hành Nghị định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng các giải pháp công nghệ, dữ liệu trong hoạt động ngân hàng.

Thứ hai, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an triển khai có hiệu quả Đề án 06 của Thủ tướng Chính phủ.

Thứ ba, đẩy mạnh nâng cấp, phát triển hạ tầng công nghệ, bảo đảm an ninh an toàn, bảo mật thông tin trong quá trình chuyển đổi số ngân hàng. Đồng thời nâng cao năng lực thanh tra giám sát, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ tài chính, đẩy mạnh nghiên cứu, áp dụng các tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế trong các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin bảo đảm an toàn, bảo mật. Cùng với đó đưa vào áp dụng khung đánh giá rủi ro công nghệ thông tin theo thông lệ quốc tế để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra tuân thủ các quy định về an toàn bảo mật tại các TCTD, tổ chức TGTT.

Thứ tư, tăng cường nguồn lực cho chuyển đổi số, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ đổi mới sáng tạo cung ứng đa dạng các sản phẩm, dịch vụ tiện ích, chi phí hợp lý cho người dân và doanh nghiệp.

Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục tài chính cho người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ ngân hàng trên kênh số một cách an toàn, hiệu quả.

Đối với các TCTD, cần tiếp tục tăng cường bảo đảm an ninh, an toàn và bảo mật hoạt động thanh toán, ngân hàng; triển khai các giải pháp an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến, thanh toán thẻ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng; sắp xếp, bố trí nguồn lực hợp lý cho hoạt động chuyển đổi số và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, phân tích dữ liệu để cung ứng sản phẩm, dịch vụ tiện ích tới người dân, doanh nghiệp; đa dạng hóa các hình thức truyền thông nhằm nâng cao kỹ năng cho khách hàng trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường mạng.

Theo đó, cần nghiên cứu, khảo sát hành vi, thói quen tiêu dùng, từ đó xây dựng các sản phẩm, dịch vụ phù hợp với đại đa số người dân; nâng cấp hạ tầng thanh toán khu vực nông thôn, bảo đảm thanh toán hiện đại và sẵn sàng kết nối liên thông với các hệ thống thanh toán khác; tăng cường truyền thông về tính ưu việt, tiện lợi khi sử dụng ứng dụng ngân hàng, tài chính số để người dân vùng nông thôn yên tâm sử dụng. Bên cạnh đó, tập trung triển khai các giải pháp để phát triển các đại lý thanh toán tại vùng sâu, vùng xa, hỗ trợ cho người dân không chỉ trong việc giao dịch điện tử hoàn toàn qua hệ thống công nghệ hiện đại mà vẫn có các điểm tiếp xúc trực tiếp để có thể thực hiện rút tiền hoặc cung ứng các dịch vụ khác.

Về phía các bộ, ngành: Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, sớm cho triển khai áp dụng hệ thống tài khoản quốc tế, kế toán theo tiêu chuẩn quốc tế… Đây cũng là nền tảng pháp lý quan trọng cho triển khai, áp dụng công nghệ ngân hàng số rộng rãi, hiệu quả, hội nhập quốc tế, nhất là tham gia thương mại quốc tế và thực hiện các hiệp định thương mại quốc tế mà Việt Nam đã ký với các quốc gia và tổ chức quốc tế.

Các bộ, ngành liên quan (Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, NHNN) phối hợp nghiên cứu sớm ban hành khung pháp lý quản lý tiền kỹ thuật số, tiền ảo, bởi đây là xu thế tất yếu trong kỷ nguyên số.

Bộ Công an tiếp tục phối hợp NHNN để phát hiện, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong triển khai các nhiệm vụ của Kế hoạch 01 và Đề án 06. Tăng cường phối hợp giữa lực lượng Công an và ngành Ngân hàng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, trọng tâm là phối hợp bảo đảm an ninh an toàn hệ thống thông tin ngân hàng và các TCTD, bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Tài liệu tham khảo:

1. Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của Thống đốc NHNN phê duyệt Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
2. Quyết định số 2345/QĐ-NHNN ngày 18/12/2023 của Thống đốc NHNN về triển khai giải pháp an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến và thanh toán thẻ ngân hàng.
3. Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06).


Hà Anh

NHNN
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Nhân tố quyết định chấp nhận liên tục ví điện tử ở Việt Nam

Nhân tố quyết định chấp nhận liên tục ví điện tử ở Việt Nam

Ví điện tử là một xu hướng công nghệ mới đang ngày càng phổ biến, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và các doanh nghiệp. Trong thị trường ngày càng cạnh tranh, việc xây dựng sự hài lòng khách hàng rất quan trọng để tạo và duy trì lợi thế cạnh tranh.
Công nghệ tự động hóa quy trình bằng robot trong lĩnh vực ngân hàng

Công nghệ tự động hóa quy trình bằng robot trong lĩnh vực ngân hàng

RPA có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một trong những định nghĩa phổ biến nhất về RPA là phần mềm mô phỏng hành động của con người trên máy tính để thực hiện các tác vụ có tính chất lặp đi, lặp lại dựa trên các quy tắc cụ thể (Abildtrup, 2024).
Gian lận kỹ thuật số trong lĩnh vực ngân hàng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam

Gian lận kỹ thuật số trong lĩnh vực ngân hàng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam

Quá trình số hóa nhanh chóng của lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam bên cạnh việc mang lại những lợi ích to lớn như tính phổ cập, tiện lợi thì cũng song hành những rủi ro, thách thức lớn, trong đó có gian lận kỹ thuật số.
Tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng: Tuân thủ các quy định về an toàn thông tin, bảo vệ dữ liệu

Tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng: Tuân thủ các quy định về an toàn thông tin, bảo vệ dữ liệu

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước công dân (CCCD) là nguồn tài nguyên mới và là nền tảng thực hiện chuyển đổi số hiệu quả đối với mỗi quốc gia.
ESG và lòng trung thành của khách hàng: Trường hợp nghiên cứu với dịch vụ ngân hàng số tại Việt Nam

ESG và lòng trung thành của khách hàng: Trường hợp nghiên cứu với dịch vụ ngân hàng số tại Việt Nam

ESG là cụm từ xuất hiện phía sau của khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) (Eliwa và cộng sự, 2021; Henisz và McGlinch, 2019). ESG đề cập đến trách nhiệm đầu tư bền vững, tức là phải quan tâm sâu sắc tới vấn đề thực thi ESG trong hoạt động đầu tư.
Đánh giá năng lực số của thanh thiếu niên Việt Nam

Đánh giá năng lực số của thanh thiếu niên Việt Nam

Nhóm nghiên cứu lập ra các câu hỏi đánh giá năng lực số cho thanh thiếu niên Việt Nam; một công cụ đánh giá với công cụ website digicom14.com để thanh thiếu niên biết mình ở đâu trong đại dương số này...
Cập nhật thông tin giấy tờ tùy thân và dữ liệu sinh trắc học: Bảo mật tài khoản và an toàn giao dịch trực tuyến

Cập nhật thông tin giấy tờ tùy thân và dữ liệu sinh trắc học: Bảo mật tài khoản và an toàn giao dịch trực tuyến

Ngày 28/6/2024, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 18/2024/TT-NHNN quy định về hoạt động thẻ ngân hàng (Thông tư 18), trong đó quy định về phát hành thẻ bằng phương tiện điện tử.
Trí tuệ nhân tạo tạo sinh: Triển vọng cho ngành Ngân hàng

Trí tuệ nhân tạo tạo sinh: Triển vọng cho ngành Ngân hàng

Ngành Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đang trải qua sự chuyển mình đáng kể nhờ sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI), đặc biệt là trí tuệ nhân tạo tạo sinh (Generative AI - GenAI).
Xem thêm
Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Tín dụng xanh là một công cụ tài chính được thiết kế để hỗ trợ các dự án và hoạt động có lợi cho môi trường. Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp là quá trình mà các công ty áp dụng những phương pháp và chiến lược bền vững nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

Những tháng cuối năm, doanh nghiệp tập trung tăng cường sản xuất, kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng nên nhu cầu tín dụng cũng sẽ tăng theo.
Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Trong những tháng đầu năm 2024, dù kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều biến động khó lường như xung đột địa chính trị kéo dài, lạm phát duy trì ở mức cao, cùng những thách thức nội tại của nền kinh tế trong nước và ảnh hưởng nặng nề của thiên tai...
Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tầm quan trọng của hệ thống tiền gửi tại Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua sự an toàn và ổn định; từ đó, mang lại niềm tin đối với người gửi tiền.
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Để góp phần ổn định hệ thống tài chính, ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội đất nước, trong bài viết này, tác giả làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và định hướng sửa đổi, bổ sung Luật BHTG.
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Lạm phát gia tăng toàn cầu sau đại dịch Covid-19, vốn đã ảnh hưởng đến cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, nhưng dường như đã “bỏ qua” châu Á. Một trong những lý do chính là sự phục hồi chậm của các nền kinh tế châu Á do các đợt “đóng cửa”, “phong tỏa”, “cách ly”, “giãn cách” kéo dài và lặp đi lặp lại.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).
Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Phát triển khu vực kinh tế tư nhân là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Tại Việt Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế”.

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Thông tư số 54/2024/TT-NHNN ngày 17/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 26/2021/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn giao dịch ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối

Thông tư số 53/2024/TT-NHNN ngày 04/12/2024 Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3

Thông tư số 52/2024/TT-NHNN ngày 29/11/2024 Quy định việc ngân hàng thương mại có cổ đông, cổ đồng và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ quy định tại Điều 55 của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 17/2017/QH14 xây dựng và thực hiện lộ trình để bảo đảm tuân thủ các quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15

Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 06/11/2024 Về tăng cường quản lý rủi ro rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng giai đoạn 2024 - 2028

Thông tư số 50/2024/TT-NHNN ngày 31/10/2024 Quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 49/2024/TT-NHNN ngày 25/10/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 46/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 48/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đông Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 47/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Sửa đổi khoản 3 Điều 3 Thông tư số 04/2022/TT-NHNN ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc áp dụng lãi suất rút trước hạn tiền gửi tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài