Dịch Covid-19: Tác động tới kinh tế và phản ứng của Việt Nam
Dịch Covid - 19 bùng phát tại Trung Quốc - nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, chiếm 17% GDP (khoảng 14.300 tỷ USD) và đóng góp 33% tổng mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu - đã tác động đa diện về kinh tế, không chỉ cho Trung Quốc mà cả thế giới. Là quốc gia láng giềng có quan hệ kinh tế - thương mại mật thiết với Trung Quốc, Việt Nam khó có thể tránh khỏi những tác động tiêu cực.
1. Tác động của dịch Covid-19 tới kinh tế Việt Nam
Covid -19 khởi nguồn từ Trung Quốc, đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế Trung Quốc. Do Trung Quốc có vai trò rất quan trọng đến nền kinh tế thế giới nên đã lan truyền ảnh hưởng xấu đến nhiều quốc gia. Việt Nam là một trong những nước chịu tác động nặng nề vì là nền kinh tế mở, có mức độ trung chuyển hàng hóa, dịch vụ, con người, đầu tư lớn với Trung Quốc, chịu ảnh hưởng lớn từ kinh tế Trung Quốc.
Một là, gián đoạn chuỗi cung ứng và lưu chuyển thương mại, sản xuất kinh doanh bị đình trệ: Hầu hết các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của Việt Nam đều phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu, vật tư, phụ tùng… nhập khẩu từ Trung Quốc nên khi dịch Covid 19 bùng nổ gây tê liệt nền kinh tế Trung Quốc đã trực tiếp làm suy yếu hoạt động sản xuất kinh doanh của Việt Nam. Trong đó, ngành công nghiệp điện - điện tử là ngành có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc (máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; điện thoại và linh kiện). Covid -19 sẽ gây ảnh hưởng đến nguồn cung ứng đầu vào phục vụ sản xuất cũng như thị trường tiêu thụ của ngành điện tử Việt Nam, đặc biệt là ảnh hưởng đến nguồn linh phụ kiện đầu vào cho sản xuất trong nước, dẫn đến tăng chi phí sản xuất, lợi nhuận giảm. Các ngành sản xuất khác có nguyên liệu đầu vào nhập khẩu từ Trung Quốc như da giày, dệt may... cũng gặp khó khăn “kép”, cả về nguồn cung đầu vào sản xuất và sức mua của thị trường sụt giảm. Doanh nghiệp mới thành lập cũng giảm ở hầu hết các lĩnh vực, mức giảm mạnh nhất trong lĩnh vực nghệ thuật, vui chơi, giải trí (giảm 23%), lĩnh vực bán buôn, bán lẻ (giảm 11,8%), dịch vụ vận tải kho bãi (giảm 37,9%).
Trung Quốc dừng thông quan tại các cửa khẩu với Việt Nam và tăng cường quản lý, siết chặt các cửa khẩu nhằm ngăn chặn sự lan rộng của dịch khiến hoạt động xuất khẩu sang Trung Quốc, đặc biệt là hàng nông - lâm - thủy sản… gặp nhiều khó khăn. Chín (9) ngành chịu tác động tiêu cực lớn nhất từ dịch Covid 19, bao gồm: may mặc, bán lẻ, thủy sản, bia, dầu khí, chứng khoán, cảng biển và vận chuyển, dịch vụ sân bay, hàng không. Đặc biệt, những ngành sản xuất, xuất khẩu chủ lực của Việt Nam phụ thuộc nguồn nguyên liệu đầu vào từ Trung Quốc chịu tác động mạnh nhất do thiếu nguyên liệu đầu vào, gián đoạn chuỗi cung ứng do nguồn thay thế hạn chế. Là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, khi sức mua của nền kinh tế Trung Quốc giảm, đóng cửa tạm đường biên do dịch bệnh, kinh tế Việt Nam chịu tổn thương lớn hơn so với các nền kinh tế khác có quy mô tương đương trong khu vực.
Do nhiều ngành sản xuất của Việt Nam phụ thuộc vào nguyên vật liệu nhập từ Trung Quốc nên dù nhiều nhà máy Trung Quốc mở cửa hoạt động trở lại từ ngày 10/2, nhưng nhân công không quay lại đầy đủ vì trở ngại giao thông và lo ngại lây dịch Covid-19. Do vậy, hoạt động sản xuất ở Trung Quốc vẫn đình trệ. Việc kiểm dịch hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc cũng chặt chẽ hơn. Điều này khiến nhiều ngành của Việt Nam vẫn tiếp tục bị thiếu hụt nguồn nguyên liệu cho sản xuất.
Hầu hết các lĩnh vực sản xuất của Việt Nam đều phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc nên dịch Covid 19 đã trực tiếp làm suy yếu hoạt động sản xuất kinh doanh của Việt Nam
Hai là, thuế thu sụt giảm do ảnh hưởng dịch Covid-19: Hoạt động bất động sản và đầu tư cá nhân sụt giảm gây tác động đến tình hình kinh tế và sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp, các nguồn thu giảm và mức tăng trưởng thấp. Thuế thu nhập doanh nghiệp tuy tăng 1,25% (2/2020) so với cùng kỳ nhưng đây là mức tăng trưởng thấp nhất trong vòng 3 năm (2016-2019). Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt cũng giảm. Mức giảm chủ yếu ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các mặt hàng như bia, thuốc lá, ôtô. Thuế thu nhập cá nhân tuy tăng 7,92% nhưng cũng có mức tăng trưởng thấp nhất do tác động ảnh hưởng dịch Covid-19.
Thuế giá trị gia tăng giảm 1,46% so với cùng kỳ. Thuế của khu vực doanh nghiệp nhà nước trung ương giảm 10,8% và khu vực nhà nước địa phương giảm 6,06%, khu vực ngoài quốc doanh giảm 3,13% so với cùng kỳ. Thuế tiêu thụ đặc biệt cũng giảm 6,02% so với cùng kỳ. Mức giảm chủ yếu ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các mặt hàng như bia, thuốc lá, ôtô. Thuế thu nhập cá nhân tuy tăng 7,92% so với cùng kỳ nhưng là mức tăng thấp nhất trong 3 năm (2016-2019). Nguyên nhân là do sụt giảm của hoạt động chuyển nhượng bất động sản và hoạt động đầu tư tư nhân.
Ba là, hoạt động đầu tư bị gián đoạn, chậm trễ: Không chỉ hoạt động sản xuất - kinh doanh bị đình trệ, mà nhiều kế hoạch tìm kiếm các cơ hội đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài tới Việt Nam đã bị hủy bỏ.
Trung Quốc hiện là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 7 tại Việt Nam với 2.875 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 16,3 tỷ USD, chiếm 4,4% tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam. Trong 17 ngành Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam, nhiều nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm khoảng 54% tổng số dự án; sản xuất điện - khí nước - điều hòa 26%). Nhiều dự án, doanh nghiệp do Trung Quốc làm chủ thầu hoặc chủ đầu tư sử dụng số lượng lớn chuyên gia và lao động Trung Quốc. Những lao động này đang bị hạn chế trở lại Việt Nam do dịch Covid-19 đã tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án, doanh nghiệp ở Việt Nam, cũng như đời sống của người lao động trong các dự án, doanh nghiệp liên quan.
Không chỉ thu hút FDI gặp khó khăn do thiếu nguyên liệu, nhân lực từ Trung Quốc, mà những người Trung Quốc làm việc trong các dự án FDI ở Việt Nam và các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Trung Quốc và các nước khác cũng bị tác động tiêu cực. Do ảnh hưởng của dịch bệnh, các hoạt động tìm hiểu cơ hội đầu tư của các nhà đầu tư tiềm năng của Trung Quốc nói riêng và các nước khác nói chung cũng bị trì hoãn, bao gồm các hoạt động tìm hiểu cơ hội đầu tư, các hội thảo, các diễn đàn doanh nghiệp, diễn đàn xúc tiến đầu tư... Nhu cầu tiêu dùng, đặc biệt đối với các mặt hàng không thiết yếu sẽ giảm mạnh, làm cho sản xuất bị đình trệ, hàng tồn kho lớn. Các nhà đầu tư mới sẽ do dự chưa đưa ra các quyết định đầu tư. Đối với các dự án đã đầu tư, các nhà đầu tư sẽ hoãn lại việc tăng vốn. Thậm chí, các doanh nghiệp FDI lớn, như Samsung, LG, Formosa, Apple, Toyota, Honda… cũng gặp khó khăn về nguồn cung nguyên liệu và nhân lực đầu vào nhập từ Trung Quốc.
Bốn là, thị trường chứng khoán Việt Nam giảm mạnh nhất khu vực, hoạt động tài chính - tiền tệ cũng bị suy giảm: Dịch Covid-19 bùng phát khiến nhiều thị trường chứng khoán thế giới “lao dốc” mạnh, trong đó thị trường chứng khoán Việt Nam giảm mạnh nhất khu vực Châu Á. Thậm chí giảm mạnh hơn cả các chỉ số chứng khoán của Trung Quốc - nơi “ổ dịch” Covid-19 khởi nguồn. VN-Index giảm hơn 5,78%, thậm chí có thời điểm thủng đáy 900 điểm so với mức giảm của thị trường chứng khoán Thai SET Index (Thái Lan) giảm hơn 2,66%; Kuala Lumpur Composite Index (Malaysia) giảm hơn 2%; Hang Seng Index (Hồng Kông) giảm hơn 1,8%; STI Index (Singapore) giảm hơn 1,6%¹. Trong khi tỷ giá USD/VND tiếp tục tăng. Sở dĩ thị trường chứng khoán Việt Nam giảm mạnh là do kinh tế Việt Nam phụ thuộc khá lớn vào Trung Quốc và tăng trưởng của thị trường chứng khoán kém bền vững.
Do tăng trưởng của thị trường chứng khoán Việt Nam chủ yếu dựa vào các cổ phiếu vốn hóa lớn, nên khi các cổ phiếu này “lao dốc” dưới tác động của dịch Covid-19 và những bất ổn của ngành, thì thị trường chứng khoán cũng suy giảm theo.
Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, Covid-19 tác động đến ngành Ngân hàng ở những khía cạnh sau: Một là, làm giảm nhu cầu tiêu dùng, giảm giao dịch ngoại thương, hoạt động sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp và hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực tài chính giảm; Hai là, cầu tín dụng giảm do nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp, hộ gia đình thấp hơn, đặc biệt là trong quý I và quý II/2020; Ba là, tiềm ẩn nợ xấu tăng, khi các doanh nghiệp, hộ gia đình chịu tác động tiêu cực từ dịch bệnh, dẫn đến hoạt động sản xuất - kinh doanh gặp khó khăn; Bốn là, nhu cầu giao dịch qua ngân hàng số, thanh toán không dùng tiền mặt tăng do khách hàng ngại tiếp xúc, tập trung đông người. Trong kịch bản tích cực, dịch vụ tài chính - ngân hàng - bảo hiểm giảm nhẹ 1% (Quí I+II/2020). Trong kịch bản tiêu cực, dịch vụ tài chính ngân hàng giảm 1,5%.
Năm là, hoạt động của ngành du lịch khó khăn: Ngành du lịch có vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam chiếm 8% GDP (2019), dự báo đạt tỷ trọng 10% GDP (2025). Ngành du lịch chịu tác động tiêu cực của dịch Covid 19, cả du lịch quốc tế và du lịch nội địa. Thiệt hại nặng nề nhất là ngành hàng không, khách sạn, lữ hành, nhà hàng do sụt giảm mạnh lượng du khách quốc tế và khách Trung Quốc tới Việt Nam. Theo Bộ KHĐT, Trung Quốc luôn đứng đầu trong tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam, chiếm tỷ trọng cao nhất so với các thị trường khách lớn khác như Nhật Bản, Mỹ, Đài Loan, trung bình khoảng 30% trong cơ cấu khách quốc tế đến Việt Nam.
Ngành giao thông vận tải, trong đó, vận tải hàng không chịu ảnh hưởng nhiều nhất, bởi khách quốc tế sử dụng hàng không của Việt Nam chiếm gần 80%. Khách Trung Quốc đến Việt Nam bằng đường hàng không chiếm 70% (2019). Các dịch vụ vận tải đường bộ, đường sắt… cũng chịu tác động tiêu cực khi hoạt động thương mại và du lịch sụt giảm, khách đi lễ hội giảm. Các dịch vụ hỗ trợ vận tải cũng sẽ giảm theo, như dịch vụ quản lý bay, dịch vụ cảng hàng không sẽ bị ảnh hưởng.
Tác động của ngành du lịch là đa chiều. Nếu du lịch phát triển mạnh thì có thể kéo theo rất nhiều ngành nghề khác đi lên. Ngược lại, du lịch “hắt hơi” thì các lĩnh vực khác “sổ mũi” theo. Tất cả những thiệt hại này khó có thể đo đếm và chắc chắn vượt hơn nhiều con số 7 tỉ USD như Tổng cục Du lịch dự báo. Thiệt hại ban đầu của việc dừng các đường bay đến Trung Quốc là hơn 10.000 tỉ đồng². Nếu ngành du lịch phục hồi tháng 7/2020, tổng thiệt hại tài chính do Covid-19 gây ra cho ngành hàng không lên tới 196 triệu USD. Khi thông thương đường sắt và hàng không với Trung Quốc bị giảm khiến Việt Nam không thể nhận được đúng thời gian giao nhận nguyên vật liệu, sản phẩm từ Trung Quốc, ảnh hưởng đến thời hạn giao hàng cho bên thứ ba.
2. Giải pháp ứng phó
Để ứng phó kịp thời trước những tác động, ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid 19 tới các hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại và đầu tư, Chính phủ Việt Nam đã triển khai nhiều giải pháp tích cực và đa dạng cả ngắn hạn và trung hạn nhằm giảm thiểu được những tác động bất lợi đối với sản xuất, kinh doanh và để tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Những giải pháp được tập trung chủ yếu bao gồm:
Thứ nhất, tổ chức lại sản xuất, cơ cấu lại thị trường để bù đắp giảm sút kinh tế do dịch bệnh: Trước thực trạng nhiều ngành sản xuất bị gián đoạn, đình trệ, Bộ Công thương áp dụng phương án nhập khẩu nguyên vật liệu từ các thị trường khác để hỗ trợ sản xuất trong nước, hạn chế thấp nhất việc lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc dễ dẫn đến bị động khi xảy ra tình huống bất khả kháng.
Covid 19 vừa là thách thức vừa là cơ hội để các doanh nghiệp làm mới mình bằng việc tái cơ cấu lại thị trường, đa dạng hóa, mở rộng thị trường quốc tế, tận dụng tốt cơ hội của các hiệp định thương mại tự do Việt Nam đã ký; đẩy mạnh khai thác và phát triển thị trường nội địa, nâng cao sức tiêu dùng trong nước. Lập phương án kịp thời nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất; thúc đẩy sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng; kiểm soát tốt thị trường, giá cả, nhất là mặt hàng thiết yếu, không để xảy ra tình trạng đầu cơ, găm hàng tăng giá. Tăng cường phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, gian lận xuất xứ hàng hóa; xử lý nghiêm vi phạm.
Khi xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc gặp khó khăn do đòi hỏi cao từ phía Trung Quốc và do dịch bệnh, cần có giải pháp thay đổi phương thức sản xuất kinh doanh, chuyển hướng xuất khẩu. Covid-19 buộc Việt Nam phải nâng cao tiêu chuẩn chất lượng của các hàng hóa nông sản là cơ hội cho việc đi tìm kiếm các thị trường khó tính hơn. Covid-19 tạo cơ hội để Việt Nam không bị phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Đồng thời đẩy mạnh khai thác và phát triển thị trường nội địa, nâng cao sức tiêu dùng trong nước.
Thứ hai, miễn giảm thuế, phí cho các doanh nghiệp: Áp dụng gói chính sách tín dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, nông dân chịu ảnh hưởng của dịch. Hỗ trợ thanh khoản, duy trì việc cho vay, miễn giảm lãi suất cho vay, khoanh nợ, giãn nợ, nới lỏng các điều khoản trả nợ, đẩy nhanh quá trình và thời gian xem xét các đơn xin vay và giải ngân các khoản vay, miễn lãi quá hạn các khoản vay… Các ngân hàng thương mại tiếp tục giảm lãi suất cho vay, hạ chi phí logistics và không tăng giá các loại dịch vụ thiết yếu cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng trực tiếp từ dịch Covid 19.
Miễn giảm các khoản đóng góp bảo hiểm y tế và xã hội. Chính sách miễn giảm thuế phí được áp dụng cho đến khi dịch bệnh chấm dứt, thị trường hồi phục. Có chính sách miễn, giảm thuế, giãn tiến độ nộp tiền thuê đất sau khi dịch được kiểm soát; giảm giá thuê đất, mặt bằng cho các doanh nghiệp logistics, doanh nghiệp bán lẻ để kịp thời hỗ trợ các dịch vụ hậu cần, bảo quản hàng hóa, thúc đẩy và tăng cầu nội địa, cầu tiêu dùng trong thời gian chịu ảnh hưởng của dịch.
Thứ ba, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo thuận lợi và hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Nhằm bảo đảm tín dụng phục vụ nhu cầu vay vốn cho hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh; áp dụng chính sách tín dụng phù hợp để hỗ trợ kịp thời cho các đối tượng chịu ảnh hưởng của dịch; rà soát tình hình sử dụng lao động của các doanh nghiệp để khắc phục kịp thời tình trạng thiếu hụt lao động tạm thời. Thay đổi hình thức đầu tư phù hợp nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, điều chỉnh hình thức đầu tư từ hình thức đối tác công tư sang đầu tư công.
Chủ động quảng bá, mời gọi các tập đoàn đa quốc gia, các công ty và thương hiệu lớn đầu tư vào Việt Nam, các khu vực có thế mạnh về công nghệ, vốn, kỹ năng quản lý như: Mỹ, EU, Nhật Bản để tăng cường thu hút đầu tư. Tập trung ưu tiên kêu gọi đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghệ cao, có tính chất mũi nhọn và khả năng bứt phá, tạo ra nhiều giá trị gia tăng như: công nghệ mới, dược phẩm, dịch vụ tài chính - ngân hàng, du lịch, nông nghiệp sạch và chế biến thực phẩm.
Thứ tư, mở rộng tìm kiếm nguồn cung từ các thị trường mới để tìm kiếm những nguồn cung vật liệu mới cũng như đầu ra cho nông phẩm. Để khắc phục thiếu hụt nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, cần hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm nguồn cung thay thế thông qua việc tăng cường liên kết, tận dụng tối đa các thị trường mới mở ra từ các hiệp định thương mại tự do (FTA). Về lâu dài, đẩy mạnh hơn nữa phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Các doanh nghiệp dệt may chuyển hướng nhập khẩu nguyên vật liệu từ Hàn Quốc, Ấn Độ, Bangladesh và Brazil để tránh phụ thuộc vào nhập khẩu nhiều từ Trung Quốc. Ấn Độ đang tăng khối lượng nhập khẩu trái cây Việt Nam (nhãn, vải, mãng cầu, thanh long). Hiệp định thương mại EVFTA được thông qua ngày 12/02, là cơ hội để Việt Nam tăng trao đổi mậu dịch với EU, tránh phụ thuộc vào Trung Quốc.
Thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh góp phần hoàn thành các mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường khả năng thích ứng tốt hơn với các biến động sẽ góp phần giảm thiểu các tác động, ảnh hưởng, bù đắp giảm sút kinh tế do dịch bệnh.
Thứ năm, lập kế hoạch tiếp thị và quảng bá tích cực ngành du lịch: Một trong những giải pháp quan trọng nhất là lập kế hoạch tiếp thị và quảng bá tích cực ngành du lịch, kích cầu ngành du lịch. Quảng bá là cách nhanh nhất để lan tỏa đến khách du lịch quốc tế, thu hút lượng lớn khách du lịch toàn cầu trong thời gian ngắn. Kích cầu thông qua giảm giá dịch vụ, tặng quà… Thực hiện chiến lược xúc tiến quảng bá phù hợp để phục hồi, thu hút khách du lịch đến với Việt Nam, khẳng định Việt Nam là nơi an toàn cho bạn bè quốc tế tham quan và trải nghiệm.
Áp dụng dịch vụ miễn visa du lịch, kéo dài thời hạn visa, giảm lệ phí visa. Tiếp tục mở rộng tiếp thị tới các thị trường tiềm năng. Để hỗ trợ vực dậy ngành du lịch, xem xét miễn thị thực visa 30 ngày cho công dân Úc, Newzealand, Châu Âu và Bắc Mỹ - Những quốc gia chưa được hưởng quyễn lợi miễn trừ này. Việc mở văn phòng xúc tiến du lịch nước ngoài tại Anh (18/2/2020) chắc chắn sẽ là yếu tố thúc đẩy phát triển cho ngành du lịch Việt Nam.
Tóm lại, áp dụng linh hoạt đồng bộ các giải pháp sẽ tạo dư địa cho phát triển, tăng trưởng vẫn còn khá lớn. Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA), đa dạng hóa các thị trường thu hút khách du lịch, thị trường hàng không, thị trường của các chuỗi cung ứng… sẽ giúp cầu tiêu dùng trong nước tăng lên. Việc tìm kiếm và đẩy mạnh kim ngạch từ các thị trường xuất khẩu mới dựa trên các thỏa thuận thương mại (FTA) sẽ giúp xuất khẩu có mức tăng trưởng cao.
¹ Ngọc Anh (2020), Chứng khoán Việt giảm mạnh nhất khu vực vì dịch cúm COVID-19; https://enternews.vn/chung-khoan-viet-giam-manh-nhat-khu-vuc-vi-dich-cum-covid-19-166562.html
² Theo đánh giá của Cục trưởng Cục Hàng không Việt Nam Đinh Việt Thắng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Tác động của dịch Covid-19 đối với kinh tế Châu Á. Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN ngày 26/2/2020.
Nguyên Đức (2020), Vốn FDI kỳ vọng sẽ chảy mạnh vào Việt Nam, https://baodautu.vn/von-fdi-ky-vong-se-chay-manh-vao-viet-nam-sau-dai-dich-covid-19-d116111.html
Ngọc Anh (2020), Chứng khoán Việt giảm mạnh nhất khu vực vì dịch cúm COVID-19; https://enternews.vn/chung-khoan-viet-giam-manh-nhat-khu-vuc-vi-dich-cum-covid-19-166562.html.
Tác động của Covid 19 đối với các nền kinh tế ASEAN+3. Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN ngày 18/2/2020.
Tác động đến chuỗi sản xuất toàn cầu của Covid 19. Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN ngày 20/2/2020.
PGS., TS. Phạm Thị Thanh Bình
(TCNH Số 6/2020)