Ảnh hưởng của dịch bệnh covid-19 và một số giải pháp tháo gỡ khó khăn của ngành ngân hàng
29/04/2020 2.759 lượt xem
Trong những ngày gần đây, diễn biến dịch bệnh COVID-19 càng trở nên phức tạp, đặc biệt là ở ngoài Trung Quốc khi xuất hiện những ổ dịch mới tại Italia, Hàn Quốc, Đức… khiến tâm lý lo ngại dịch bệnh đang bao trùm toàn cầu.
 


NHNN tiếp tục chỉ đạo quyết liệt các TCTD triển khai các giải pháp tín dụng 
nhằm hỗ trợ khách hàng vay tháo gỡ khó khăn, giảm thiểu thiệt hại do dịch bệnh COVID-19

1. Tóm tắt các diễn biến của dịch bệnh COVID-19
 
Khởi nguồn từ Trung Quốc vào cuối năm 2019, dịch COVID-19 đã lây lan nhanh chóng và tính đến sáng ngày 30/3/2020, toàn thế giới đã có hơn 721.903 trường hợp dương tính với COVID-19 ở 200 quốc gia và hơn 33.466 trường hợp tử vong. Trong những ngày gần đây, diễn biến dịch bệnh COVID-19 càng trở nên phức tạp, đặc biệt là ở ngoài Trung Quốc khi xuất hiện những ổ dịch mới tại Italia, Hàn Quốc, Đức… khiến tâm lý lo ngại dịch bệnh đang bao trùm toàn cầu. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã nâng mức cảnh báo dịch COVID-19 lên mức “rất cao” là mức cao nhất trong thang đo của mình. Riêng tại Việt Nam, tình hình dịch bệnh được kiểm soát khá tốt trong giai đoạn 1 (từ ngày 17/1-05/3/2020) với toàn bộ 16/16 trường hợp nhiễm bệnh tại 4 tỉnh thành phố được điều trị thành công (trường hợp mắc mới cuối cùng vào ngày 09/02/2020). Từ ngày 06/03/2020, Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn 2 của cuộc chiến phòng, chống dịch COVID-19 khi ca bệnh thứ 17 xuất hiện và dự báo công tác phòng, chống dịch trong giai đoạn này sẽ khó khăn hơn rất nhiều giai đoạn đầu khi dịch bệnh đã lây lan nhanh chóng ra hơn 100 quốc gia, vùng lãnh thổ. Tính đến sáng ngày 30/3/2020, cả nước ghi nhận 194 ca nhiễm trong đó 25 trường hợp nhiễm bệnh đã được bình phục.
2. Tác động của dịch bệnh COVID-19 tới kinh tế thế giới
 
Dù đón nhận thông tin tích cực từ việc ký kết thỏa thuận thương mại Mỹ - Trung giai đoạn 1 nhưng sự bùng phát và lây lan của dịch bệnh COVID-19 đã trực tiếp đe dọa tới những nỗ lực hồi phục kinh tế của Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung trong năm 2020. Ngoài những thiệt hại về con người, dịch bệnh cũng gây ra những tổn thất kinh tế không hề nhỏ. Thế giới đã thiệt hại 40 tỷ USD khi dịch SARS bùng phát từ Trung Quốc năm 2002 - 2003 và 17 năm sau, khi kinh tế Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng, chiếm 17% GDP toàn cầu (gấp hơn 4 lần năm 2002) và là một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu khiến kinh tế Trung Quốc và toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn.
 
Ngày 05/3/2020, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2020 có thể xuống dưới 2,9% do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Nhiều tổ chức quốc tế khác cũng hạ dự báo tăng trưởng của nhiều quốc gia so với trước thời điểm dịch bệnh COVID-19 bùng phát. Trên thực tế, hoạt động sản xuất đã bị đình trệ do tác động của các biện pháp hạn chế lây nhiễm cộng đồng và lực cầu yếu đi. Chỉ số PMI lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực dịch vụ của Trung Quốc đều giảm mạnh xuống dưới mức 50 - cho thấy sự thu hẹp, lần lượt là 40,3 và 29,6 (tháng 1/2020: đạt 51,1 và 54,1). Dù một số nhà máy đã hoạt động trở lại, nhưng chỉ đạt 30 - 50% công suất thông thường, dự báo tăng trưởng GDP quý I của Trung Quốc giảm khoảng 2 điểm phần trăm so với dự báo trước đó. Hàng loạt chỉ số PMI sản xuất của các quốc gia trong khu vực đều giảm như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Philippines, Indonesia, Thái Lan. Không chỉ các hoạt động sản xuất bị ảnh hưởng, các hoạt động dịch vụ và các thị trường tài chính, hàng hóa thế giới cũng chịu thiệt hại không ít. Ngành du lịch và vận tải bị ảnh hưởng khi nhiều địa điểm du lịch và các hoạt động văn hóa, lễ hội phải đóng cửa để tránh nguy cơ lây lan. Tại châu Âu, việc đóng cửa trường học và cơ quan hành chính đã bắt đầu được thực hiện. Ngân hàng HSBC dự kiến nếu các hoạt động như giáo dục, hành chính công, giao thông, nhà hàng, lưu trú, du lịch giảm một nửa trong khoảng 10 ngày làm việc sau đó phục hồi bình thường thì tăng trưởng GDP quý I của khu vực đồng EUR giảm 1 điểm phần trăm (Ý và Pháp suy thoái) và giảm 0,2 điểm phần trăm cả năm 2020. Thị trường chứng khoán (TTCK) Mỹ giảm điểm mạnh trong 7 phiên liên tiếp cuối tháng 2 - chuỗi giảm mạnh nhất kể từ sau khủng hoảng tài chính thế giới 2008, chứng khoán châu Á giảm trên diện rộng so với cuối năm 2019, lợi tức trái phiếu Chính phủ Mỹ chạm đáy lịch sử, giá vàng tăng cao khi nhu cầu tìm tài sản an toàn tăng trong khi giá dầu giảm mạnh do lo ngại nhu cầu thế giới ở mức thấp.
 
Mặc dù đến nay, chưa có số liệu chính thức về thiệt hại của COVID-19 đối với kinh tế các nước hay kinh tế thế giới, nhưng với tác động ban đầu, nhiều quốc gia đã có những biện pháp bước đầu để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Chính phủ Singapore đưa ra 02 gói kích thích kinh tế với tổng quy mô 5,6 tỷ SGD (gấp 24 lần gói kích cầu thời dịch SARS). Ngân hàng Trung ương (NHTW) Trung Quốc đẩy mạnh nới lỏng tiền tệ như hạ dự trữ bắt buộc 0,5% kể từ 01/01/2020, hạ lãi suất thị trường mở, hạ lãi suất cho vay cơ bản (Loan Prime Rate), bơm thanh khoản ra thị trường thông qua hoạt động tái cấp vốn. Nhiều NHTW các nước mới nổi và đang phát triển hạ lãi suất điều hành như: Nga, Argentina, Brazil, Philippines, Indonesia, Thái Lan… Các quốc gia khác cũng đang theo dõi sát diễn biến mới nhất của COVID-19 để có những phản ứng chính sách phù hợp, kịp thời nhằm hạn chế tác động tiêu cực và hỗ trợ duy trì tăng trưởng kinh tế.
 
Đặc biệt, ngày 03/3/2020, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) bất ngờ hạ 0,5% lãi suất điều hành (Fed Fund) xuống mức 1 - 1,25%. Tiếp đó, ngày 15/3, Fed tuyên bố hạ lãi suất về mức gần bằng 0% và sẽ mua 700 tỉ USD trái phiếu Chính phủ nhằm ổn định kinh tế Mỹ vốn đang hứng chịu những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19.
 
Ngay sau động thái này, một số NHTW khác thực hiện giảm lãi suất điều hành, trong đó đáng chú ý là NHTW Australia, NHTW Canada với mức giảm lần lượt là 0,25% và 0,5%. Cũng trong ngày 03/3/2020, tại Hội nghị thượng đỉnh G7, các Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc NHTW các quốc gia nhất trí sẽ có những biện pháp để hỗ trợ các quốc gia bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19. Mặc dù chưa có một biện pháp cụ thể nào được công bố nhưng không loại trừ khả năng các NHTW Anh, châu Âu, Nhật Bản sẽ thực hiện các biện pháp nới lỏng bổ sung.
 
 


 
3. Tác động của dịch bệnh COVID-19 tới kinh tế Việt Nam và hoạt động của hệ thống ngân hàng
 
Với đặc thù là nước có độ mở kinh tế cao (tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên 200%GDP), sự giảm tốc của kinh tế thế giới, đặc biệt là Trung Quốc - đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam - sẽ khiến tăng trưởng kinh tế trong nước gặp những khó khăn nhất định. Số liệu 2 tháng đầu năm cho thấy: (i) Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng chậm lại ở mức 6,2% (cùng kỳ tăng 9,2%), PMI tháng 2/2020 đạt 49,9 - mức thấp nhất từ tháng 12/2015; (ii) Lưu chuyển hành khách và hàng hóa tăng lần lượt 3,8% và 4,3% (cùng kỳ tăng 10,2% và 6,4%), khách quốc tế tăng 4,8% - thấp nhất 5 năm qua; (iii) Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ loại trừ giá tăng 5,4% - thấp nhất từ năm 2018 (cùng kỳ 2019 tăng 9,3%); (iv) Thương mại quốc tế giảm khi xuất khẩu tăng 2,4% (cùng kỳ 2019: tăng 4,2%), nhập khẩu tăng 2,4% (cùng kỳ 2019 tăng 5,8%), nhập siêu 176 triệu USD; (v) Số doanh nghiệp đăng ký mới tăng 9,1% về lượng và giảm 11,1% về vốn đăng ký (cùng kỳ 2019: vốn đăng ký mới tăng 25,4%), số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 17,1% (cùng kỳ 2019 tăng 48,2%); số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tăng 19,5% (cùng kỳ 2019 tăng 20,8%)...
 
Ngoài những tác động chung trong ngắn hạn, dịch bệnh COVID-19 cũng tiềm tàng nhiều rủi ro đối với sự tăng trưởng của một số lĩnh vực, cụ thể như sau: 
 
- Đối với hoạt động xuất khẩu: Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu sang Trung Quốc sẽ phải đối mặt với các biện pháp hạn chế, kiểm dịch và nguy cơ giảm chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng tới giá trị xuất khẩu của các mặt hàng này. Ngoài ra, hoạt động sản xuất và xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo cũng sẽ bị ảnh hưởng do các nhà máy của Trung Quốc chưa hoạt động trở lại hoặc hoạt động dưới công suất, đặc biệt là trong tháng 3 và quý II. 
 
- Đối với hoạt động sản xuất công nghiệp chế biến chế tạo: Do phụ thuộc rất lớn vào nguồn nguyên phụ liệu (dệt may, da - giày,…), vật tư, linh kiện, máy móc, thiết bị đầu vào nhập khẩu để phục vụ sản xuất tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, đặc biệt là nguồn nhập khẩu từ Trung Quốc (nước xuất khẩu lớn nhất vào Việt Nam), nên các biện pháp thắt chặt biên giới kiểm soát dịch bệnh sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới nguồn cung này. Nếu những khó khăn trên không sớm được tháo gỡ, có khả năng nhiều doanh nghiệp sẽ phải tạm ngưng hoạt động sản xuất một phần hoặc toàn bộ. Việc này sẽ phát sinh chi phí cho doanh nghiệp trong quá trình tạm ngừng hoạt động như: chi phí vay ngân hàng, duy tu bảo trì máy móc, trả lương ngừng việc cho người lao động, chi phí vận hành trở lại,…; đặc biệt là đối với các doanh nghiệp cần vận hành liên tục dây chuyền sản xuất như ngành giấy, xi măng, điện tử (như Samsung Việt Nam), thép (các doanh nghiệp sử dụng công nghệ lò cao),… 
 
- Đối với hoạt động của các doanh nghiệp FDI: Các doanh nghiệp FDI đến từ Trung Quốc (nhất là, doanh nghiệp dệt may, da giày…) thường sử dụng lượng lớn lao động và chuyên gia là người Trung Quốc. Việc hạn chế xuất nhập cảnh giữa 2 nước trong thời điểm dịch bệnh đã và sẽ dẫn tới tình trạng thiếu nhân công, ảnh hưởng trực tiếp tới guồng sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp sản xuất phụ trợ trong nước cũng sẽ bị ảnh hưởng do phụ thuộc một phần vào sự phát triển của doanh nghiệp FDI. 
 
- Đối với các hoạt động thương mại, dịch vụ trong nước: Tâm lý lo ngại do dịch bệnh khiến người dân hạn chế di chuyển, du lịch, tham gia hoạt động vui chơi, lễ hội, mua sắm,… Qua đó, doanh thu từ nhóm du lịch lữ hành (chiếm khoảng 1% tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ) sẽ bị ảnh hưởng do lượng khách quốc tế và nội địa giảm mạnh, kéo theo doanh thu từ dịch vụ lưu trú, ăn uống (chiếm khoảng hơn 10% tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ) cũng sẽ sụt giảm. 
 
- TTCK trong nước biến động mạnh khi tâm lý nhà đầu tư bị ảnh hưởng, khối ngoại liên tiếp bán ròng do chịu tác động trực tiếp từ những phiên giảm mạnh của TTCK Mỹ và châu Á. Đến hết tháng 02/2020, chỉ số VN-Index giảm 8,3% so với cuối năm 2019.
 
Có thể nói, không chỉ các doanh nghiệp mà sức khỏe của hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) cũng chịu tác động tiêu cực. Khả năng trả nợ của doanh nghiệp bị ảnh hưởng do sản xuất và kinh doanh giảm sút, sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến dòng tiền, làm giảm phần doanh thu và lợi nhuận. Ngoài ra, nhu cầu vay mới, sử dụng các dịch vụ tài chính khác của doanh nghiệp cũng sẽ giảm xuống khi quy mô sản xuất bị ảnh hưởng.
 
4. Một số giải pháp tháo gỡ khó khăn của ngành Ngân hàng
 
Dịch bệnh COVID-19 đã tác động tiêu cực tới hoạt động sản xuất kinh tế trong nước, ảnh hưởng đến khả năng đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô năm 2020. Đây có thể coi là một cú sốc cung đối với nền kinh tế trong ngắn hạn khi ảnh hưởng tới nguồn nhân công, nguyên phụ liệu sản xuất, trực tiếp làm giảm công suất và tổng cung của nền kinh tế. Trong khi đó, đối tượng mà chính sách tiền tệ (CSTT) được thực hiện bởi NHTW hướng đến lại là các biến số ở phía bên cầu của nền kinh tế như tiêu dùng và đầu tư. Do đó, để làm giảm các tác động tiêu cực này, không thể phụ thuộc hoàn toàn vào CSTT mà cần có một hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô đồng bộ, trong đó, vai trò của chính sách tài khóa để góp phần hỗ trợ nền kinh tế vượt qua những khó khăn trong giai đoạn này là cực kỳ quan trọng. Về phía ngành Ngân hàng, NHNN tiếp tục bám sát diễn biến và tác động của dịch bệnh lên kinh tế vĩ mô, tiền tệ để điều hành linh hoạt, thận trọng các công cụ CSTT, sẵn sàng điều chỉnh trạng thái CSTT nếu cần, hài hòa trong thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. Trước mắt, NHNN đã và đang thực hiện các giải pháp nhằm hỗ trợ khách hàng vay, tháo gỡ khó khăn, giảm thiểu thiệt hại do dịch bệnh COVID-19. Một số giải pháp cụ thể:
 
- Tiếp tục điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường trong nước và quốc tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý: Hiện tại và dự kiến trong thời gian tới, thanh khoản hệ thống TCTD trong nước vẫn dồi dào, đảm bảo cung ứng đủ vốn cho nền kinh tế. Do đó, NHNN sẽ tiếp tục bám sát diễn biến và tác động của dịch bệnh lên tăng trưởng, lạm phát, tín dụng căn cứ trên thông tin từ các bộ, ngành và cơ quan thống kê, điều hành linh hoạt, thận trọng các công cụ CSTT. 
 
- Đồng hành cùng hệ thống TCTD nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19: Với tinh thần không chủ quan với dịch, NHNN tiếp tục chỉ đạo quyết liệt các TCTD triển khai các giải pháp tín dụng nhằm hỗ trợ khách hàng vay tháo gỡ khó khăn, giảm thiểu thiệt hại do dịch bệnh COVID-19. NHNN ban hành Thông tư 01/2020/TT-NHNN hướng dẫn về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay, giữ nguyên nhóm nợ...; chỉ đạo các TCTD phân tích, đánh giá, dự báo những thiệt hại, khó khăn do tác động của dịch để chủ động có biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, khách hàng vay vốn như: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ, miễn/giảm lãi vay theo hợp đồng tín dụng đã ký kết và xem xét cho vay mới đối với khách hàng để khôi phục, duy trì sản xuất, kinh doanh; tích cực giảm lãi suất đối với các khoản vay mới thuộc các ngành, lĩnh vực bị ảnh hưởng do dịch COVID-19; đồng thời, yêu cầu các TCTD không được tăng lãi suất và nghiêm túc thực hiện quy định của NHNN về trần lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên...;¹ giảm mức thu dịch vụ thông tin tín dụng để giúp các TCTD giảm chi phí, hạ lãi suất, qua đó gián tiếp nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của người dân và doanh nghiệp; miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt nhằm giảm thanh toán bằng tiền mặt... Nhiều TCTD đã xây dựng kịch bản hành động hỗ trợ khách hàng và triển khai các chương trình cho vay với lãi suất ưu đãi để hỗ trợ các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19.
 
- Đẩy mạnh hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt để hạn chế sự lây nhiễm dịch bệnh: NHNN sẽ tiếp tục triển khai các chương trình miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán điện tử nhằm hỗ trợ trực tiếp cho người sử dụng dịch vụ, nhất là phí thanh toán trực tuyến đối với các dịch vụ hành chính công; khẩn trương phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định cá biệt về việc thí điểm dùng tài khoản viễn thông để thanh toán cho các dịch vụ có giá trị nhỏ (dịch vụ Mobile - Money); đề xuất xây dựng Khuôn khổ thể chế quản lý thử nghiệm có kiểm soát đối với hoạt động công nghệ tài chính (fintech) để thúc đẩy ứng dụng công nghệ, đổi mới, sáng tạo trong hoạt động ngân hàng…

 
¹ Thể hiện tại Văn bản số 541/NHNN-TD ngày 04/02/2020; Văn bản số 35/TB-NHNN ngày 07/2/2020; Thông tư 01/2020/TT-NHNN hướng dẫn các TCTD triển thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 14/2/2020 liên quan đến việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay, giữ nguyên nhóm nợ cho các khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.
 
Tài liệu tham khảo:
 
1. Các trang thông tin điện tử (website): www.imf.org; www.worldbank.org;www.reuters.com; www.bloomberg.com.
2. Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 03/01/2020 của Ngân hàng Nhà nước về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2020.
3. Công văn số 541/NHNN-TD ngày 04/02/2020 của Ngân hàng Nhà nước về việc triển khai các giải pháp hỗ trợ khắc phục thiệt hại do ảnh hưởng của dịch COVID-19.
4. Thông báo số 35/TB-NHNN ngày 7/2/2020 của Ngân hàng Nhà nước về kết luận Hội nghị tăng cường triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.
5. Thông tư 01/2020/TT-NHNN hướng dẫn các TCTD triển thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 14/2/2020 liên quan đến việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay, giữ nguyên nhóm nợ cho các khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.


ThS. Phạm Thanh Hà 

(TCNH Số 7/2020)
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Khủng hoảng ngân hàng và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Khủng hoảng ngân hàng và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
26/09/2023 191 lượt xem
Việc các cuộc khủng hoảng ngân hàng xảy ra liên tiếp gần đây trên thế giới đã dấy lên mối lo ngại về một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu như những gì từng xảy ra hơn một thập kỉ trước. Đứng trước nguy cơ những cuộc khủng hoảng có thể xảy ra do các bất ổn về chính trị và xã hội trên toàn cầu, Việt Nam cần chuẩn bị những gì để tránh khỏi khủng hoảng hệ thống ngân hàng hoặc để sẵn sàng ứng phó nếu khủng hoảng hệ thống ngân hàng xảy ra?
Kinh nghiệm quản lí rủi ro khí hậu trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trên thế giới
Kinh nghiệm quản lí rủi ro khí hậu trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trên thế giới
22/09/2023 414 lượt xem
Bài viết giới thiệu về loại rủi ro mới xuất hiện và ngày càng tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh ngân hàng, đó là rủi ro khí hậu.
Ứng dụng cơ sở sữ liệu dân cư trong đánh giá điểm khả tín khách hàng cá nhân tại các tổ chức tín dụng Việt Nam
Ứng dụng cơ sở sữ liệu dân cư trong đánh giá điểm khả tín khách hàng cá nhân tại các tổ chức tín dụng Việt Nam
20/09/2023 544 lượt xem
Ứng dụng cơ sở dữ liệu dân cư (CSDLDC) trong đánh giá điểm khả tín khách hàng, đặc biệt là khách hàng cá nhân được đánh giá là giải pháp mang lại nhiều lợi ích cho ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế. Bài viết sử dụng phương pháp phân tích văn bản, tổng quan tài liệu để đưa ra đánh giá về ứng dụng CSDLDC trong đánh giá điểm khả tín khách hàng cá nhân tại các tổ chức tín dụng (TCTD).
Các nhân tố ảnh hưởng tới sự trung thành với ngân hàng của khách hàng cá nhân gửi tiền tiết kiệm tại BIDV Chi nhánh tỉnh Trà Vinh
Các nhân tố ảnh hưởng tới sự trung thành với ngân hàng của khách hàng cá nhân gửi tiền tiết kiệm tại BIDV Chi nhánh tỉnh Trà Vinh
19/09/2023 625 lượt xem
Bài viết nhằm mục tiêu phát hiện mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến sự trung thành với ngân hàng của khách hàng cá nhân gửi tiền tiết kiệm. Thống kê ứng dụng và hồi quy đa biến là những phương pháp được sử dụng để phân tích mức độ ảnh hưởng của yếu tố, từ số liệu khảo sát cụ thể 290 khách hàng cá nhân gửi tiền tiết kiệm tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh tỉnh Trà Vinh (BIDV Trà Vinh).
Nỗ lực giải ngân đầu tư công năm 2023
Nỗ lực giải ngân đầu tư công năm 2023
15/09/2023 681 lượt xem
Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng hành của Quốc hội, sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng với nỗ lực, quyết tâm của các cấp, các ngành, giải ngân vốn đầu tư công năm 2023 đã có những chuyển biến tích cực.
Triển vọng thu hút FDI sau chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden
Triển vọng thu hút FDI sau chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden
14/09/2023 1.525 lượt xem
Theo Tổng cục Thống kê, tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đăng kí vào Việt Nam tính đến ngày 20/8/2023 bao gồm: Vốn đăng kí cấp mới, vốn đăng kí điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 18,15 tỉ USD, tăng 8,2% so với cùng kì năm trước.
Quản lí rủi ro toàn diện trong ngân hàng dựa trên kiến trúc dữ liệu lớn
Quản lí rủi ro toàn diện trong ngân hàng dựa trên kiến trúc dữ liệu lớn
14/09/2023 820 lượt xem
Trong bối cảnh hiện nay, rủi ro trong ngân hàng đến từ nhiều kênh và hệ thống khác nhau, vì thế các ngân hàng cần phải chuyển đổi từ mô hình quản lí rủi ro tín dụng đơn giản sang mô hình quản lí rủi ro toàn diện. Một số công nghệ mới cung cấp các giải pháp sáng tạo và hiệu quả cho quản lí dữ liệu, phù hợp để áp dụng trong các tình huống quản lí rủi ro yêu cầu dữ liệu chất lượng cao và phân tích dữ liệu phức tạp.
Xu hướng Gamification Marketing trong ngành tài chính, ngân hàng ở Việt Nam
Xu hướng Gamification Marketing trong ngành tài chính, ngân hàng ở Việt Nam
12/09/2023 968 lượt xem
Bài viết tổng quan một số lí thuyết có liên quan nhằm làm rõ khái niệm trò chơi hóa (gamification) và tầm quan trọng của việc ứng dụng gamification vào hoạt động marketing của các doanh nghiệp trong ngành tài chính, ngân hàng tại Việt Nam.
Xu hướng ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong sự phát triển của ngành Ngân hàng
Xu hướng ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong sự phát triển của ngành Ngân hàng
11/09/2023 1.082 lượt xem
Bài nghiên cứu trình bày các xu hướng ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong hoạt động ngân hàng, bao gồm Chatbot, tự động hóa quy trình bằng robot (RPA) và giao dịch định lượng. Từ đó, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ứng dụng AI cho quá trình chuyển đổi số trong sự phát triển của hoạt động ngân hàng. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu trường hợp và phân tích dữ liệu.
Một số nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng thẻ tín dụng của khách hàng cá nhân tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh An Giang
Một số nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng thẻ tín dụng của khách hàng cá nhân tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh An Giang
03/09/2023 1.619 lượt xem
Nghiên cứu được thực hiện nhằm kiểm định, đánh giá và đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng thẻ tín dụng của khách hàng cá nhân tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh An Giang.
Cơ hội và thách thức đối với kinh tế Việt Nam những tháng cuối năm 2023
Cơ hội và thách thức đối với kinh tế Việt Nam những tháng cuối năm 2023
21/08/2023 1.960 lượt xem
Bất chấp các khó khăn, thách thức từ kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam nhìn chung vẫn khá tích cực; kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát tốt.
Phát triển tài chính trong bối cảnh tăng trưởng thích ứng với biến đổi khí hậu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Phát triển tài chính trong bối cảnh tăng trưởng thích ứng với biến đổi khí hậu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
17/08/2023 5.894 lượt xem
Bài viết tìm hiểu mối liên hệ giữa phát triển tài chính trong bối cảnh tăng trưởng thích ứng với biến đổi khí hậu. Bài viết đưa ra một số cơ sở lí thuyết liên quan đến phát triển kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế thích ứng với biến đổi khí hậu cũng như mối liên hệ giữa phát triển tài chính trong bối cảnh tăng trưởng thích ứng với khí hậu; đồng thời, đề xuất các cơ hội để tăng cường phát triển tài chính hướng tới sự phát triển tương thích với biến đổi khí hậu, bao gồm các cơ chế tài chính sáng tạo như trái phiếu xanh, quỹ đầu tư xanh, đầu tư tác động và tài chính kết hợp.
Sử dụng ma trận Tows dựa trên việc kết hợp mô hình Pestel và mô hình quản trị ưu việt nhằm đề xuất một số giải pháp cho các ngân hàng thương mại trong thời gian tới
Sử dụng ma trận Tows dựa trên việc kết hợp mô hình Pestel và mô hình quản trị ưu việt nhằm đề xuất một số giải pháp cho các ngân hàng thương mại trong thời gian tới
15/08/2023 2.385 lượt xem
Kinh tế thế giới nói chung, kinh tế Việt Nam nói riêng dự báo còn nhiều khó khăn trong năm 2023 và thời gian tới do ảnh hưởng của xung đột tại Ukraine, cùng với xu hướng thắt chặt tiền tệ của các ngân hàng trung ương nhằm ứng phó với lạm phát tăng cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ngân hàng trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng với các rủi ro khó đoán định.
Tín hiệu mới và giải pháp khơi thông điểm nghẽn đầu tư công năm 2023
Tín hiệu mới và giải pháp khơi thông điểm nghẽn đầu tư công năm 2023
10/08/2023 2.378 lượt xem
Theo Bộ Tài chính, tổng kế hoạch vốn đầu tư công đã giao năm 2023 là hơn 804.420 tỉ đồng (tăng 23% so với năm 2022), trong đó, hơn 752.877 tỉ đồng vốn giao trong năm 2023 và còn lại là vốn kéo dài các năm trước chuyển sang (không bao gồm 12.887,2 tỉ đồng chưa giao).
Nhầm lẫn áp dụng pháp luật về tính lãi suất tiền gửi và điều kiện chuyển nhóm nợ trong cấp tín dụng tại ngân hàng thương mại Việt Nam
Nhầm lẫn áp dụng pháp luật về tính lãi suất tiền gửi và điều kiện chuyển nhóm nợ trong cấp tín dụng tại ngân hàng thương mại Việt Nam
08/08/2023 3.497 lượt xem
Việc áp dụng pháp luật về tính lãi suất tiền gửi và thực hiện chuyển nhóm nợ trong cấp tín dụng tại các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam có thể được thực hiện theo hướng nhầm lẫn so với quy định hiện hành của pháp luật.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

Vàng SJC 5c

68.050

68.770

Vàng nhẫn 9999

56.650

57.600

Vàng nữ trang 9999

56.500

57.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,200 24,570 25,105 26,483 28,868 30,098 159.15 168.46
BIDV 24,240 24,540 25,281 26,469 29,007 30,070 160.4 168.73
VietinBank 24,137 24,557 25,354 26,489 29,226 30,236 160.3 168.25
Agribank 24,200 24,550 25,358 26,066 29,122 29,955 161.42 165.41
Eximbank 24,150 24,540 25,385 26,091 29,179 29,991 161.18 165.66
ACB 24,190 24,540 25,423 26,061 29,339 29,955 160.81 166.01
Sacombank 24,180 24,535 25,495 26,160 29,402 29,911 161.08 167.62
Techcombank 24,211 24,548 25,142 26,464 28,831 30,120 156.91 169.16
LPBank 24,190 24,750 25,283 26,610 29,286 30,211 159.12 170.63
DongA Bank 24,250 24,550 25,470 26,070 29,280 30,020 159.4 166.1
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
BIDV
0,10
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Cake by VPBank
0,40
-
-
-
4,75
4,75
4,75
7,0
7,10
7,3
6,00
ACB
0,05
0,50
0,50
0,50
3,40
3,50
3,60
5,10
5,30
5,30
5,40
Sacombank
-
-
-
-
3,50
3,60
3,70
5,30
5,60
6,00
6,30
Techcombank
0,10
-
-
-
3,50
3,50
3,70
4,90
4,95
5,50
5,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
4,35
4,35
4,35
5,50
5,50
6,30
6,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,50
4,50
4,50
6,20
6,30
6,55
6,75
Agribank
0,20
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,00
4,00
4,00
5,00
5,30
5,50
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?