Tác động của sự bất định tới khả năng thanh toán của hệ thống ngân hàng Việt Nam
20/02/2023 10:42 6.798 lượt xem
Tóm tắt: Nghiên cứu này xem xét tác động của sự bất định trong ngành Ngân hàng đối với rủi ro mất khả năng thanh toán (rủi ro vỡ nợ) của 30 ngân hàng tại Việt Nam giai đoạn 2007 - 2021. Sử dụng thước đo về độ bất định vi mô dựa trên sự phân tán theo mặt cắt của các cú sốc cấp độ ngân hàng, kết quả chỉ ra rằng mức độ bất định cao hơn trong ngân hàng có thể gia tăng rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng, thông qua chỉ số Z-score. Vì bằng chứng được thu thập từ tập dữ liệu đại diện tốt cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, phát hiện này chứng minh tầm quan trọng của sự ổn định trong ngành Ngân hàng trong việc đạt được mục tiêu duy trì tính an toàn và lành mạnh của từng thành viên tham gia thị trường. 
 
Từ khóa: Bất định, ngân hàng, rủi ro vỡ nợ,Việt Nam. 
 
IMPACT OF UNCERTAINTY ON INSOLVENCY RISK IN THE VIETNAM BANKING INDUSTRY 
 
Abstract: This study examines the impact of uncertainty in the banking industry on the insolvency risk of 30 banks in Vietnam during 2007 - 2021. Using a measure of micro-uncertainty based on the cross-sectional dispersion of bank-level shocks, the results indicate that a higher degree of uncertainty can increase the risk of insolvency, through the Z-score index. As the evidence collected from the dataset is sound representative of the Vietnamese banking system, this finding demonstrates the importance of stability in the banking industry in achieving the goal of maintaining the safety and soundness of the banking system.
 
Keywords: Uncertainty, commercial bank, insolvency risk, Vietnam.
 
1. Giới thiệu
 
Ngày càng có nhiều nghiên cứu đề cập đến những tác động của sự bất định đối với các hoạt động kinh tế như sản xuất, đầu tư, tiêu dùng và thương mại quốc tế. Các kết quả thường cho thấy ảnh hưởng của sự bất định kinh tế làm giảm động cơ đầu tư của các doanh nghiệp, trì hoãn các quyết định của họ, tăng tiết kiệm dự phòng của các hộ gia đình và giảm khối lượng thương mại quốc tế, tất cả đều cho thấy sự bất ổn kinh tế là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến suy thoái. Tuy nhiên, trái ngược với tài liệu đa dạng về tác động của sự bất định đối với nền kinh tế thực, liệu sự bất định có ảnh hưởng như thế nào đến rủi ro mất khả năng thanh toán của các trung gian tài chính, cụ thể là các ngân hàng, vẫn là một câu hỏi cần được khám phá thêm.
 
Trong nghiên cứu này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu xem liệu sự hiện diện của bất định ngân hàng lớn hơn có dẫn đến rủi ro mất khả năng thanh toán tại ngân hàng cao hơn hay không. Sự bất định là có liên quan đến rủi ro nhưng lại khác với rủi ro. Knight (1921) lập luận rằng, rủi ro là tình huống mà khả năng xảy ra các sự kiện có thể được biểu thị bằng phân bố xác suất khách quan và sự bất định được định nghĩa là việc mọi người không có khả năng dự báo khả năng xảy ra các sự kiện dựa trên phân phối xác suất khách quan được ước tính trên dữ liệu quá khứ.
 
Tác giả tiến hành phân tích bằng cách sử dụng mẫu là các ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong giai đoạn 2007 - 2021. Việt Nam cung cấp một cơ sở thuận lợi để điều tra mối liên hệ giữa sự bất định và khả năng sinh lời của ngân hàng. Việt Nam là một ví dụ điển hình của các nền kinh tế mới nổi, thường có đặc điểm là thị trường vốn chưa phát triển. Các ngân hàng luôn đóng vai trò chi phối trong hệ thống tài chính, cho thấy rằng sự an toàn và lành mạnh của ngân hàng là một chỉ số kinh tế quan trọng. Là một nền kinh tế mới nổi, độ mở lớn, đồng thời Việt Nam theo đuổi nhiều cải cách chính sách kinh tế. Điều này có thể làm cho ảnh hưởng của một cú sốc bất định trở nên rõ ràng hơn. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã từng bước áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong quản lý rủi ro và cấu trúc vốn. Điều này làm cho mức độ bất định của hệ thống ngân hàng có nhiều biến động.
 
Nội dung phân tích kỳ vọng đóng góp vào các tài liệu hiện có bằng cách khảo sát thực nghiệm mối quan hệ giữa sự bất định và rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Kết quả phân tích cho thấy, sự bất định như một động lực gia tăng rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Cụ thể, có bằng chứng gợi ý về mối liên hệ cùng chiều giữa sự bất định và rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng, đo lường bởi nghịch đảo của chỉ số Z-score. Kết quả này là rất vững dựa trên một loạt các chỉ số thay thế về rủi ro tín dụng ngân hàng cũng như các kỹ thuật kinh tế lượng khác nhau.
 
2. Cơ chế tác động và tổng quan nghiên cứu
 
Phần lớn các tài liệu trước đây liên quan đến sự bất định tập trung vào tác động của nó đối với các hoạt động kinh tế thực, thường dựa trên khuôn khổ đầu tư không thể đảo ngược (Bernanke, 1983). Sản lượng giảm thường là do đầu tư và việc làm của các công ty bị sụt giảm cho đến khi sự không chắc chắn biến mất. Một số công trình gần đây mở rộng các tài liệu trước đó bằng cách coi mâu thuẫn tài chính như một cơ chế then chốt truyền tải và thậm chí khuếch đại tác động của sự bất định đối với các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, những điều này hầu như không giải quyết được liệu sự bất ổn kinh tế có gây ra bất kỳ ảnh hưởng nào đến tính rủi ro của các tổ chức tài chính, đặc biệt là các ngân hàng hay không (Wu và cộng sự, 2020).
 
Tác động của sự bất định kinh tế đối với rủi ro của các ngân hàng là không rõ ràng về mặt lý thuyết, do sự tranh luận của các quan điểm đối lập nhau. Một mặt, lý thuyết “quyền chọn thực” được phát triển bởi Pindyck (1988) ngụ ý rằng, sự an toàn tài chính của các ngân hàng có thể được củng cố trong thời kỳ gia tăng bất ổn. Tương tự như các doanh nghiệp sản xuất, các ngân hàng cũng phải đối mặt với các vấn đề về đầu tư không thể đảo ngược (cho vay) và do đó, có thể áp dụng chiến lược “chờ và xem” khi sự không chắc chắn gia tăng. Khi giá trị tùy chọn của việc chờ đợi tăng lên, các ngân hàng có thể thấy rằng tỷ lệ đưa ra quyết định tốt hơn, đầy đủ thông tin hơn sẽ tăng lên cho đến khi sự không chắc chắn giảm đi, do đó, giảm khả năng đưa ra quyết định sai do thông tin không đầy đủ và rủi ro của ngân hàng khi đó dự kiến sẽ được cải thiện. So với lý thuyết “quyền chọn thực” ngụ ý độ an toàn ngân hàng cao hơn trong bối cảnh bất định lớn hơn, một số hoạt động gắn liền với sự lạc quan quá mức phổ biến trong thời kỳ ít biến động khiến các ngân hàng tăng cường cấp tín dụng và mắc nợ quá mức, từ đó dẫn đến rủi ro mất khả năng thanh toán. Với các lập luận ở trên, rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng có thể tương quan tiêu cực với mức độ bất định của nền kinh tế.
 
Mặt khác, có các lực đẩy liên quan đến sự bất định có khả năng gây ra rủi ro mất khả năng thanh toán cao hơn cho các ngân hàng. Trước hết, tác động suy thoái của sự bất định đối với tổng cầu trực tiếp làm tăng xác suất vỡ nợ của người đi vay, điều này có thể được chuyển thành sự suy giảm chất lượng tài sản của các ngân hàng và sau đó là rủi ro mất khả năng thanh toán.
Ngoài ra, sự bất định có thể khuyến khích các ngân hàng chấp nhận rủi ro cao hơn thông qua tác động của nó lên lãi suất. Tiết kiệm dự phòng trong bối cảnh bất định làm giảm lãi suất phi rủi ro, điều này có thể gây áp lực giảm lên lãi suất cho vay mà các ngân hàng có thể tính cho người vay của họ. Khi các doanh nghiệp giảm đầu tư và sử dụng ít lao động hơn trong thời kỳ có nhiều bất ổn, nhu cầu tín dụng giảm xuống cũng có xu hướng làm giảm lãi suất cho vay của ngân hàng. Trong khi đó, khả năng các ngân hàng phải chịu những cú sốc bất lợi lớn trong những thời điểm bất định càng cao khiến các nhà tài trợ yêu cầu một khoản bù tài trợ (funding premium) cao hơn từ các ngân hàng, làm tăng chi phí tài trợ của họ (Valencia, 2017). Hai lực tác động này cùng nhau thu hẹp chênh lệch lãi suất của các ngân hàng và do đó, làm xói mòn nguồn lợi nhuận chính của họ. Tuy nhiên, mục tiêu lợi nhuận mà các cổ đông yêu cầu có thể không thay đổi ngay lập tức khi lợi nhuận của các ngân hàng giảm, có thể là do sự điều chỉnh kỳ vọng của cổ đông bị chậm hơn, do đó khiến các ngân hàng phân bổ tài sản của mình vào các dự án “rủi ro cao - lợi nhuận cao” (Dell’Ariccia và cộng sự, 2014). Việc các ngân hàng được khuyến khích “tìm kiếm lợi nhuận” trong bối cảnh kinh tế bất định phù hợp với lập luận rằng các ngân hàng tăng nắm giữ các tài sản rủi ro khi đối mặt với môi trường kém sinh lợi.
 
Tóm lại, vì không có cơ chế rõ ràng về tác động tăng rủi ro của sự bất định sẽ nhiều hơn tác động giảm rủi ro, liệu rủi ro ngân hàng mất khả năng thanh toán thay đổi như thế nào với sự bất định vẫn là một câu hỏi thực nghiệm.
 
Ngoài ra, một hướng nghiên cứu khác khám phá mối liên hệ giữa sự bất định của nền kinh tế và hành vi cho vay của các ngân hàng. Buch và cộng sự (2015) tìm thấy bằng chứng quan trọng cho thấy sự bất định gia tăng dẫn đến giảm tỷ trọng các khoản cho vay trong danh mục đầu tư của các ngân hàng. Valencia (2017) đưa ra kết luận tương tự rằng các ngân hàng hạn chế ký hợp đồng cung cấp tín dụng khi đối mặt với nhiều sự bất định hơn, đặc biệt là đối với những ngân hàng có hoạt động đòn bẩy cao hơn. Nhìn chung, các nghiên cứu theo hướng này phân tích phản ứng của việc cho vay của ngân hàng đối với các loại hình bất định cụ thể, chẳng hạn như sự bất định về chính trị, sự thiếu ổn định trong các quy định về chính sách kinh tế, trong khi không đánh giá rõ ràng tác động của sự bất định đến rủi ro thanh toán trong ngành Ngân hàng.
 
3. Phương pháp nghiên cứu
 
3.1. Mô hình và dữ liệu nghiên cứu
 
Nghiên cứu xem xét tác động của sự bất định đến rủi ro ngân hàng mất khả năng thanh toán bằng cách ước lượng mô hình thực nghiệm như sau:
 
RuiRoi,t = α0+ α1× RuiRoi,t-1+ α2× Uncertaintyt-1+ α3× Kiemsoatnoitaii,t-1 + α4 × Kiemsoatvimot-1 + εi,t   (1)
 
Trong đó i và t tương ứng là các ngân hàng và các năm. RuiRoi,t là biến phụ thuộc, xác định bằng thang đo rủi ro mất khả năng thanh toán (rủi ro vỡ nợ). Mô hình bảng động được sử dụng khi mà rủi ro ngân hàng luôn tồn tại và được thúc đẩy bởi hành vi chấp nhận rủi ro của năm trước. Uncertaintyt-1 là phép đo về sự bất định của ngân hàng, được nắm bắt bằng sự phân tán của các cú sốc ngân hàng. Kiemsoatnoitaiii,t-1 chứa các biến cấp ngân hàng kiểm soát quy mô ngân hàng (logarit tự nhiên của tổng tài sản ngân hàng), khả năng thanh khoản (tỷ lệ tài sản lưu động trên tổng tài sản) và mô hình kinh doanh (tỷ lệ giữa thu nhập ngoài lãi trên tổng thu nhập hoạt động). Kiemsoatnoitaiii,t-1 là một tập hợp các phép đo kiểm soát kinh tế vĩ mô, bao gồm tăng trưởng kinh tế (tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội) và chính sách tiền tệ (lãi suất cho vay ngắn hạn). Các biện pháp kiểm soát này là những yếu tố chính có thể giải thích rủi ro của các ngân hàng, phù hợp với các tài liệu về ngân hàng. εi,t là thành phần sai số. Để giảm bớt các vấn đề về quan hệ nhân quả ngược, nghiên cứu lấy tất cả các biến độc lập với độ trễ một năm. Bảng 1 trình bày thống kê mô tả các biến.

Bảng 1: Thống kê mô tả


Nguồn: Tổng hợp của tác giả
 
Để hồi quy mô hình kinh tế đề xuất, tác giả sử dụng công cụ ước lượng moment tổng quát (GMM) hệ thống như được đề xuất bởi Blundell và Bond (1998) để đạt được kết quả hồi quy hiệu quả. Tác giả giới hạn số lượng công cụ được tạo ra theo quy trình của Roodman (2009) để tránh vấn đề “quá nhiều biến công cụ”. Một số kiểm định cần thiết để xác minh tính nhất quán của công cụ ước tính GMM, gồm kiểm định AR(1) và AR(2) cho mối tương quan nối tiếp bậc một và bậc hai trong các sai số sai phân và kiểm định Hansen báo cáo tính năng xác định quá mức cho hiệu lực chung của các công cụ được sử dụng.
 
Để thực hiện các phân tích, nghiên cứu này sử dụng dữ liệu của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2007 - 2021, thu thập thông tin từ các báo cáo tài chính được công bố trên trang web của 30 ngân hàng. Tác giả cũng thu thập dữ liệu cho biến chính kinh tế vĩ mô từ Cơ quan thống kê tài chính quốc tế (IFS) của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). (Bảng 1)
 
3.2. Xây dựng biến rủi ro vỡ nợ
 
Tác giả đo lường rủi ro mất khả năng thanh toán (insolvency risk) của ngân hàng bằng cách sử dụng chỉ số Z-score. Chỉ số Z-score đo lường khả năng thanh toán khi xuất hiện tình trạng mà các khoản lỗ (lợi nhuận âm) vượt quá vốn chủ sở hữu. Cách tính chỉ số này như sau:
 
 
Trong đó ROA và SD(ROA) là tỷ suất lợi nhuận ròng trên tài sản bình quân và độ lệch chuẩn của tỷ lệ lợi nhuận này, và CAP là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản. Độ lệch chuẩn của ROA trong toàn thời gian nghiên cứu sẽ được sử dụng. Chỉ số này càng cao thì rủi ro ngân hàng mất khả năng thanh toán càng thấp.
 
3.3. Xây dựng biến bất định ngân hàng
 
Trong khi nhiều công trình nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào các thước đo độ bất định tổng hợp, chẳng hạn như sự bất định về chính sách kinh tế, sự bất định về tài chính hoặc sự bất định về tiền tệ, thì trong nghiên cứu này tác giả đề cập đến một thước đo bất định vi mô dựa trên quan điểm cụ thể của lĩnh vực ngân hàng theo đề xuất của Buch và cộng sự (2015). Việc sử dụng thước đo bất định vi mô này được thúc đẩy bởi thực tế rằng sự bất định tổng hợp có thể làm tăng đáng kể mức độ không chắc chắn trong ngành Ngân hàng và các ngân hàng phản ứng bằng cách điều chỉnh hành vi của họ do hậu quả của sự không chắc chắn cao hơn. Đây cũng là tinh thần chung cốt lõi mà tác giả muốn truyền tải khi khảo sát về bất định trong lĩnh vực ngân hàng Việt Nam và những ảnh hưởng của nó. Việc đo lường độ bất định vi mô thông qua dữ liệu cấp ngân hàng có thể thể hiện một thông điệp bổ sung về mức độ không chắc chắn tách biệt của hệ thống ngân hàng, từ đó những phát hiện và hàm ý thu được có thể cụ thể và đầy đủ thông tin.
 
Quy trình của Buch và cộng sự (2015) gồm hai bước. Trong bước 1, tiến hành xác định các cú sốc theo năm của các ngân hàng với từng biến bằng phương trình như sau:
 
log(Xi,t) – log(Xi,t-1) = Δlog(Xi,t) = αi + βt + εi,t    (3)
 
Trong đó, Δlog(Xi,t) biểu thị tăng trưởng tài sản, tăng trưởng nguồn vốn ngắn hạn, hoặc tỷ lệ lợi nhuận tại ngân hàng i trong năm t; αi là các hiệu ứng cố định của ngân hàng và βt là các hiệu ứng cố định theo thời gian. Các phần dư εi,t chỉ ra các cú sốc cần thu thập để tạo ra sự phân tán theo mặt cắt ngang của các cú sốc. 
 
Trong bước 2, dựa vào độ lệch chuẩn của phần dư để tính toán mức độ bất định của ngành Ngân hàng trong năm t:
 
Uncertaintyt = SD(εi,t)      (4)
 
Lợi thế chính của việc sử dụng dữ liệu cấp ngân hàng hằng năm là những dữ liệu này có sẵn cho nhiều ngân hàng và không chỉ cho các ngân hàng niêm yết. Ngay cả khi dữ liệu bảng cân đối kế toán tần suất cao hơn có sẵn, Buch và cộng sự (2015) không mong đợi các biện pháp cắt ngang sẽ thay đổi nhiều hơn do dữ liệu bảng cân đối kế toán di chuyển chậm hơn dữ liệu thị trường chứng khoán và nắm bắt những thay đổi trong mô hình kinh doanh dài hạn của các ngân hàng.
 
4. Kết quả phân tích quan hệ giữa bất định ngân hàng và rủi ro mất khả năng thanh toán
 
Bảng 2 trình bày kết quả về quan hệ giữa bất định ngân hàng và rủi ro vỡ nợ thông qua chỉ số Z-score. Có thể thấy rằng, các hệ số ước lượng về bất định ngân hàng (cụ thể trong hồi quy bất định ngân hàng theo lợi nhuận) là âm và có ý nghĩa thống kê, cho thấy mối liên hệ tiêu cực giữa sự bất định ngân hàng và chỉ số Z-score về sự ổn định của ngân hàng. Khi chỉ số Z-score cao hơn cho thấy rủi ro mất khả năng thanh toán đối với các ngân hàng thấp hơn, các ước lượng hệ số âm được hiểu là sự suy giảm tính ổn định của ngân hàng, hay nói cách khác là sự gia tăng rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng với sự gia tăng của bất định.
 
Ngoài ra, các thành phần phân rã của chỉ số Z-score cũng sẽ được xem xét, bao gồm thành phần vốn của Z-score [CAP/SD(ROA)] - trong đó CAP là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và SD(ROA) là độ lệch chuẩn của ROA, và thành phần lợi nhuận của Z-score [ROA/SD(ROA)] - trong đó ROA là tỷ suất lợi nhuận ròng trên tổng tài sản bình quân và SD(ROA) là độ lệch chuẩn của ROA.
 
Tiến hành thay thế chỉ số Z-score bằng các biến thành phần làm biến phụ thuộc trong hồi quy và báo cáo kết quả ước lượng trong các Bảng 3 và Bảng 4, có thể thấy rằng đối với cả hai thành phần của chỉ số Z-score, hệ số hồi quy của biến bất định là âm và có ý nghĩa thống kê. Kết quả này cho thấy khả năng sinh lời và bộ đệm vốn giảm sút với sự bất định tăng cao, có thể là do chênh lệch lãi suất của các ngân hàng bị thu hẹp. Một mặt, nhu cầu tín dụng thấp hơn của các công ty khi họ tạm dừng đầu tư và thuê mướn gây áp lực giảm lãi suất cho vay của các ngân hàng. Mặt khác, khả năng gặp bất lợi tăng trong những thời điểm không chắc chắn có thể làm tăng nhu cầu của các nhà cấp vốn đối với phần bù tài trợ cao hơn từ ngân hàng. Hậu quả của việc lợi nhuận của các ngân hàng bị xói mòn trong bối cảnh sự bất định cao hơn phù hợp với phỏng đoán rằng các ngân hàng có thể có động cơ lớn hơn để áp dụng chiến lược “tìm kiếm lợi nhuận” và do đó, phân bổ cho vay của họ vào các dự án rủi ro hơn. (Bảng 2, 3, 4)
 
Bảng 2: Bất định ngân hàng và rủi ro vỡ nợ thông qua chỉ số Z-score

Ghi chú: Các kết quả trình bày trong bảng thu được thông qua ước lượng GMM hệ thống hai bước trên mô hình bảng động. Sai số chuẩn được trình bày trong ngoặc đơn. Số lượng công cụ được kiểm soát nhằm không vượt quá số nhóm. Các kiểm định thống kê được trình bày với giá trị p. Ký hiệu thể hiện mức ý nghĩa thống kê: 
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1. Nguồn: Tính toán và ước lượng của tác giả
 
Bảng 3: Bất định ngân hàng và rủi ro vỡ nợ thông qua thành phần vốn của Z-score


Ghi chú: Các kết quả trình bày trong bảng thu được thông qua ước lượng GMM hệ thống hai bước trên mô hình bảng động. Sai số chuẩn được trình bày trong ngoặc đơn. Số lượng công cụ được kiểm soát nhằm không vượt quá số nhóm. Các kiểm định thống kê được trình bày với giá trị p. Ký hiệu thể hiện mức ý nghĩa thống kê: 
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1. Nguồn: Tính toán và ước lượng của tác giả

Bảng 4: Bất định ngân hàng và rủi ro vỡ nợ thông qua thành phần lợi nhuận của Z-score

Ghi chú: Các kết quả trình bày trong bảng thu được thông qua ước lượng GMM 
hệ thống hai bước trên mô hình bảng động. Sai số chuẩn được trình bày trong ngoặc đơn. Số lượng công cụ được kiểm soát nhằm không vượt quá số nhóm. Các kiểm định thống kê được trình bày với giá trị p. Ký hiệu thể hiện mức ý nghĩa thống kê: *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1. Nguồn: Tính toán và ước lượng của tác giả
 
Phát hiện của nghiên cứu này chỉ ra rằng, trong thời điểm bất định cao hơn, rủi ro ngân hàng có xu hướng gia tăng. Rất có khả năng tác động suy thoái của sự bất định đối với tổng cầu trực tiếp làm tăng xác suất vỡ nợ của người đi vay, điều này có thể được chuyển thành sự suy giảm chất lượng tài sản của các ngân hàng và qua đó, gia tăng rủi ro mất khả năng thanh toán. Kết quả này mở rộng các tài liệu hiện có bằng cách khám phá sự phân tán của các cú sốc đến các biến ngân hàng trọng yếu bằng việc sử dụng dữ liệu cấp độ ngân hàng để xác định sự bất định trong lĩnh vực ngân hàng. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng đặc biệt xác nhận những kết quả của Dang và Nguyen (2022) trong bối cảnh các phân tích hiện tại khai thác rủi ro mất khả năng thanh toán và có kiểm soát giai đoạn hệ thống ngân hàng Việt Nam chịu cú sốc lớn từ đại dịch Covid-19.
 
5. Kết luận
 
Sự bất định về kinh tế có những hậu quả tiêu cực đáng kể đối với hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế. Mặc dù có rất nhiều tài liệu về ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế thực, liệu sự bất ổn kinh tế có ảnh hưởng đến rủi ro mất khả năng thanh toán của các ngân hàng hay không vẫn chưa được khám phá nhiều. 
 
Sử dụng dữ liệu bảng cấp độ ngân hàng của 30 ngân hàng thương mại tại Việt Nam giai đoạn 2007 - 2021, nghiên cứu tìm thấy bằng chứng nhất quán và vững cho mối liên hệ tích cực giữa sự bất định ngân hàng và các chỉ số về rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng, điều này ngụ ý rằng rủi ro ngân hàng mất khả năng thanh toán có xu hướng gia tăng khi ngành Ngân hàng đối mặt sự bất định cao hơn. 
 
Kết quả của nghiên cứu này mang ý nghĩa chính sách quan trọng. Sự minh bạch và rõ ràng hơn về thông tin và chính sách kinh tế, tài chính, ngân hàng, đặc biệt là ở nền kinh tế mới nổi vốn vẫn có nhiều khiếm khuyết về thông tin chính sách quan trọng, có thể là điều cần thiết để giảm thiểu rủi ro vỡ nợ do sự bất định gây ra trong thị trường ngân hàng. Vì tính rủi ro nhiều hơn do sự bất định gây ra cho các ngân hàng, các cơ quan quản lý cần phải kiểm soát hành vi chấp nhận rủi ro của ngân hàng để làm suy yếu những hậu quả bất lợi của sự bất định đối với sự an toàn của ngân hàng.
 
Tài liệu tham khảo:
 
1. Bernanke, B.S. (1983). Irreversibility, uncertainty, and cyclical investment. The quarterly journal of economics, 98(1), 85-106.
2. Blundell, R., & Bond, S. (1998). Initial conditions and moment restrictions in dynamic panel data models. Journal of Econometrics, 87(1), 115-143.
3. Buch, C.M., Buchholz, M., & Tonzer, 
L. (2015). Uncertainty, bank lending, and bank-level heterogeneity. IMF Economic Review, 63(4), 
919-954.
4. Dang, V.D., & Nguyen, H.C. (2022c). Credit risk amid banking uncertainty in Vietnam. Bulletin of Monetary Economics and Banking, 25(1), 73-96.
5. Dell’Ariccia, G., Laeven, L., & Marquez, R. (2014). Real interest rates, leverage, and bank risk-taking. Journal of Economic Theory, 149(1), 65-99.
6. Knight, F.H. (1921). Risk, uncertainty and profit. Houghton Mifflin, Boston.
7. Pindyck, R.S. (1988). Irreversible investment, capacity choice, and the value of the firm. American Economic Review, 78(5), 969–985.
8. Roodman, D. (2009). How to do xtabond2: An introduction to difference and system GMM in Stata. Stata Journal, 9(1), 86-136.
9. Valencia, F. (2017). Aggregate uncertainty and the supply of credit. Journal of Banking and Finance, 81, 150-165.
10. Wu, J., Yao, Y., Chen, M., & Jeon, B.N. (2020). Economic uncertainty and bank risk: Evidence from emerging economies. Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, 68.

PGS., TS. Đặng Văn Dân 
Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh

 

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, hỗ trợ vốn tín dụng cho nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh
Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, hỗ trợ vốn tín dụng cho nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh
25/10/2024 09:25 508 lượt xem
Ở Việt Nam, đầu tư vốn, hỗ trợ tín dụng cho nông nghiệp, nông dân được triển khai theo nhiều hình thức và có sự chuyển đổi theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường.
Nhân tố ảnh hưởng đến động lực làm việc của cán bộ, viên chức và người lao động tại các ngân hàng có vốn sở hữu nhà nước
Nhân tố ảnh hưởng đến động lực làm việc của cán bộ, viên chức và người lao động tại các ngân hàng có vốn sở hữu nhà nước
03/10/2024 09:34 1.043 lượt xem
Nguồn nhân lực xã hội là tài sản quan trọng nhất của mỗi quốc gia, quyết định sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khẳng định vị thế dân tộc trên trường quốc tế.
Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản tại ngân hàng thương mại Việt Nam
Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản tại ngân hàng thương mại Việt Nam
02/10/2024 08:46 1.417 lượt xem
Các ngân hàng thương mại hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và có nhiều rủi ro, trong đó có rủi ro thanh khoản. Rủi ro thanh khoản là khả năng ngân hàng không đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, chi trả đối với khách hàng, ảnh hưởng đến danh tiếng và lợi nhuận của ngân hàng...
Đào tạo cá nhân hóa tại ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số
Đào tạo cá nhân hóa tại ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số
14/08/2024 15:59 676 lượt xem
Phát triển nguồn nhân lực luôn là một trong các nhiệm vụ hàng đầu của NHTM; trong đó, đào tạo cá nhân hóa được xem là giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại các NHTM trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
Mối quan hệ giữa quy định vốn theo Basel III với một số giải pháp chính và khuyến nghị
Mối quan hệ giữa quy định vốn theo Basel III với một số giải pháp chính và khuyến nghị
06/08/2024 08:47 878 lượt xem
Bài viết tập trung nghiên cứu khảo sát định lượng 115 tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam, phân tích hồi quy đa biến mối quan hệ giữa mức độ thực hiện các quy định vốn Basel III với một số giải pháp chính (liên quan đến tăng vốn và hệ thống) bằng phần mềm SPSS, AMOS
Nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản lý tài chính của sinh viên trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản lý tài chính của sinh viên trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
12/07/2024 08:35 4.697 lượt xem
Quản lý tài chính cá nhân là một trong những yếu tố quan trọng để xác định phúc lợi tài chính của mỗi cá nhân (Xiao và cộng sự, 2009). Theo đó, quản lý tài chính cá nhân liên quan đến việc áp dụng các hoạt động khác nhau để lập kế hoạch, quản lý và kiểm soát chi tiêu của một người.
Giải pháp hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư cá nhân hướng đến phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp bền vững tại Việt Nam
Giải pháp hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư cá nhân hướng đến phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp bền vững tại Việt Nam
05/07/2024 19:37 1.575 lượt xem
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu và trong nước có nhiều biến động, việc huy động vốn thông qua thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn nhưng cũng không kém phần rủi ro đối với nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam.
Cải thiện bất bình đẳng thu nhập thông qua phát triển tài chính và kiểm soát tham nhũng địa phương tại một số tỉnh, thành Việt Nam
Cải thiện bất bình đẳng thu nhập thông qua phát triển tài chính và kiểm soát tham nhũng địa phương tại một số tỉnh, thành Việt Nam
26/06/2024 10:21 2.427 lượt xem
Nghiên cứu đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm cải thiện bất bình đẳng thu nhập thông qua phát triển tài chính và kiểm soát tham nhũng địa phương trong tương lai cho các tỉnh, thành nói riêng và Việt Nam nói chung.
Tác động của phát triển thị trường vốn đến tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN và hàm ý chính sách cho Việt Nam
Tác động của phát triển thị trường vốn đến tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN và hàm ý chính sách cho Việt Nam
14/06/2024 08:30 1.402 lượt xem
Thị trường vốn đóng một vai trò thiết yếu trong nền kinh tế quốc gia nói chung và tăng trưởng kinh tế nói riêng. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá thực nghiệm tác động của phát triển thị trường vốn đến tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN trong giai đoạn 2013 - 2023.
Bàn về quy định chuyển nhóm nợ và tài sản có rủi ro trong tính toán tỷ lệ an toàn vốn và vốn kinh tế đối với ngân hàng thương mại
Bàn về quy định chuyển nhóm nợ và tài sản có rủi ro trong tính toán tỷ lệ an toàn vốn và vốn kinh tế đối với ngân hàng thương mại
04/06/2024 08:54 2.071 lượt xem
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích luật viết và phương pháp so sánh trong luật học để làm rõ một số bất cập của quy định về chuyển nhóm nợ, tài sản có rủi ro trong tính toán tỷ lệ an toàn vốn và vốn kinh tế trong đánh giá mức đủ vốn tại các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Tác động của nghiên cứu - phát triển, môi trường - xã hội - quản trị đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Tác động của nghiên cứu - phát triển, môi trường - xã hội - quản trị đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng
15/05/2024 07:56 5.105 lượt xem
Với sự phát triển không ngừng của công nghệ số đang bùng nổ trong kỉ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) được xem là chiến lược quan trọng với doanh nghiệp (trong đó có ngân hàng) để duy trì tính cạnh tranh, R&D cho phép các doanh nghiệp tạo ra sản phẩm mới mà đối thủ khó có thể sao chép được, bên cạnh đó, quy trình tạo ra sản phẩm mới, cũng như công năng của sản phẩm mang lại đáp ứng các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường sẽ hỗ trợ doanh nghiệp trong tiến trình phát triển bền vững.
Thực thi bộ tiêu chuẩn ESG trong hoạt động của ngân hàng thương mại: Tổng quan lí luận và hàm ý cho Việt Nam
Thực thi bộ tiêu chuẩn ESG trong hoạt động của ngân hàng thương mại: Tổng quan lí luận và hàm ý cho Việt Nam
07/05/2024 08:10 1.715 lượt xem
Mục tiêu của bài nghiên cứu này là đề xuất các hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy quá trình thực thi bộ tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (Environmental, Social và Governance - ESG) trong hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam.
Lập kế hoạch kiểm toán nội bộ tại ngân hàng thương mại theo định hướng rủi ro bằng mô hình định lượng
Lập kế hoạch kiểm toán nội bộ tại ngân hàng thương mại theo định hướng rủi ro bằng mô hình định lượng
02/05/2024 09:10 1.670 lượt xem
Nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính để xác định yếu tố tác động chính gây ra các rủi ro trọng yếu trong ngân hàng thương mại (NHTM) (đo bằng lỗi) dẫn đến tổn thất trong kinh doanh (mức độ thiệt hại quy ra bằng tiền). Nghiên cứu sử dụng mô hình tối ưu hóa tuyến tính theo dữ liệu nội bộ phát sinh tại từng đơn vị để lập kế hoạch kiểm toán theo định hướng rủi ro.
Mối quan hệ giữa sự phát triển của thị trường ngoại tệ và hoạt động kinh tế đối ngoại - Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam
Mối quan hệ giữa sự phát triển của thị trường ngoại tệ và hoạt động kinh tế đối ngoại - Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam
26/04/2024 08:20 9.172 lượt xem
Việc quản lý và phát triển thị trường ngoại tệ Việt Nam vừa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, vừa phù hợp với xu hướng phát triển và hội nhập của nền kinh tế hiện nay nhằm mục tiêu xây dựng một thị trường ngoại tệ hoạt động hiệu quả, an toàn, hỗ trợ tích cực cho sự phát triển ngành Ngân hàng nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Phân loại trong xử lí nợ xấu tại các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Phân loại trong xử lí nợ xấu tại các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
01/04/2024 11:21 1.669 lượt xem
Nghiên cứu phân biệt ba nhóm doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán, gồm: Doanh nghiệp không có nợ xấu, doanh nghiệp có nợ xấu còn hoạt động và doanh nghiệp có nợ xấu dừng hoạt động.
Giá vàngXem chi tiết

Giá vàng - Xem theo ngày

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

83,700

86,200

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

83,700

86,200

Vàng SJC 5c

83,700

86,220

Vàng nhẫn 9999

83,700

85,600

Vàng nữ trang 9999

83,600

85,200


Ngoại tệXem chi tiết
Tỷ giá - Xem theo ngày 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,150 25,502 26,092 27,523 31,263 32,592 158.81 168.04
BIDV 25,190 25,502 26,295 27,448 31,648 32,522 160.63 167.55
VietinBank 25,198 25,502 26,307 27,507 31,676 32,686 160.27 168.02
Agribank 25,200 25,502 26,225 27,408 31,448 32,511 160.54 168.04
Eximbank 25,160 25,502 26,287 27,168 31,543 32,559 161.12 166.54
ACB 25,170 25,502 26,309 27,212 31,642 32,598 160.68 167.03
Sacombank 25,180 25,502 26,294 27,267 31,555 32,708 160.81 167.32
Techcombank 25,184 25,502 26,134 27,486 31,274 32,605 157.32 169.76
LPBank 25,190 25,502 26,591 27,484 31,928 32,590 162.28 169.38
DongA Bank 25,230 25,500 26,300 27,150 31,600 32,550 159.20 166.40
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,50
2,70
3,50
3,70
4,40
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,80
2,90
3,20
4,20
4,30
4,90
5,00
Techcombank
0,05
-
-
-
3,10
3,10
3,30
4,40
4,40
4,80
4,80
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,20
4,20
4,20
5,30
5,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,90
3,90
4,10
5,55
5,70
5,80
6,10
Agribank
0,20
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
Eximbank
0,10
0,50
0,50
0,50
3,10
3,30
3,40
4,70
4,30
5,00
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?