Tóm tắt: Nghiên cứu phân tích tác động của cấu trúc thị trường tập trung đến khả năng mở rộng cho vay của ngân hàng thương mại (NHTM). Cho tới nay, hướng nghiên cứu về mối quan hệ giữa thị trường tập trung và hoạt động cho vay trong thị trường ngân hàng Việt Nam chưa được nghiên cứu nhiều. Để ước lượng các mô hình trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng kĩ thuật dữ liệu bảng động vì cho vay của ngân hàng có thể bị ảnh hưởng bởi các giá trị trong quá khứ của nó. Mô hình dữ liệu bảng động được ước tính bằng cách sử dụng phương pháp GMM (Generalized Method of Moments) hai bước hệ thống để tạo ra các ước lượng hiệu quả. Mẫu nghiên cứu được sử dụng là dữ liệu từ năm 2007 đến năm 2021 của 30 NHTM. Kết quả thực nghiệm cho thấy, khi mức độ tập trung cao hơn, sức mạnh thị trường tăng lên, sẽ làm gia tăng mức độ tăng trưởng cho vay của ngân hàng. Do đó, nhóm tác giả cho rằng, nên khuyến khích việc sáp nhập và mua lại các ngân hàng vừa và nhỏ để hiện thực hóa một hệ thống ngân hàng hợp nhất hơn.
Từ khóa: Cho vay, ngân hàng, thị trường tập trung, Việt Nam.
LENDING ACTIVITIES OF VIETNAMESE BANKS
UNDER THE INFLUENCE OF MARKET CONCENTRATION
Abstract: The study analyzes the impact of market concentration on the bank’s ability to expand lending. Research on the relationship between market concentration and lending activities in the Vietnamese banking market has not been conducted thus far. We use dynamic panel data techniques to estimate the models in this study because bank lending can be affected by its past values. The dynamic panel data model is estimated using the systematic two-step GMM to generate consistent estimates. The study uses data from 2007 to 2021 from 30 banks as a research sample. The empirical results show that when the concentration is higher, the market power increases, increasing bank loan growth. Therefore, mergers and acquisitions of small and medium-sized banks should be encouraged to have a more consolidated banking system.
Keywords: Lending, banking, market concentration, Vietnam.
1. Giới thiệu
Hoạt động cho vay là mảng kinh doanh chính của ngân hàng và theo đó, tăng trưởng cho vay ngân hàng là cơ sở để các ngân hàng vận hành và phát triển.
Có nhiều sự quan tâm đến việc tìm hiểu điều gì giải thích sự khác biệt trong khả năng cung ứng tín dụng. Theo đó, một yếu tố quyết định chính đáng và quan trọng của những điều kiện này là mức độ cạnh tranh cơ bản ở một thị trường nhất định. Một mặt, khi sự cạnh tranh trên thị trường tiền gửi giảm, có thể nói, sức mạnh thị trường của ngân hàng trên thị trường tiền gửi tăng lên. Và điều này sẽ kéo theo lãi suất huy động giảm, đồng nghĩa với việc giá vốn giảm, lợi nhuận của ngân hàng tăng lên, động cơ giảm lãi suất đầu ra của ngân hàng tăng lên. Mặt khác, khi cạnh tranh trên thị trường cho vay ngân hàng giảm, sức mạnh thị trường của các ngân hàng trên thị trường cho vay tăng lên, có nghĩa là chi phí tài chính mà người đi vay phải đối mặt sẽ tăng lên (Boyd và De Nicoló, 2005). Như vậy, sức mạnh thị trường có thể cho phép ngân hàng định giá các khoản vay cao hơn, làm thay đổi khả năng tiếp cận tín dụng. Việc xác định liệu cấu trúc thị trường, môi trường cạnh tranh cao và tập trung thấp có liên quan đến việc tăng khả năng cung ứng nguồn tài chính vẫn là một câu hỏi thực nghiệm cần giải đáp.
Hầu hết các nghiên cứu liên quan đến thị trường ngân hàng Việt Nam là về hiệu quả cạnh tranh của ngân hàng, giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, mối quan hệ cạnh tranh - rủi ro, mối quan hệ cạnh tranh - lợi nhuận, hay tương quan cạnh tranh - sự mất khả năng thanh toán. Trong khi đó, chưa có nghiên cứu nào về mối quan hệ giữa tập trung thị trường và hoạt động cho vay trên thị trường ngân hàng Việt Nam thông qua khảo sát thực nghiệm tác động của tập trung thị trường và tăng trưởng cho vay.
2. Cơ sở lí luận và các tài liệu nghiên cứu có liên quan
Cấu trúc thị trường ảnh hưởng đến cạnh tranh và tính tập trung thị trường của các ngân hàng, từ đó, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Mức độ cạnh tranh ngân hàng và mối liên hệ của nó với sự tập trung thị trường là trái ngược nhau. Nếu chúng ta chấp nhận một số đề xuất lí thuyết phổ biến, thì một thị trường tập trung hơn có nghĩa là mức độ cạnh tranh thấp hơn do các ngân hàng thực thi quyền lực thị trường.
Khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng của các ngành sản xuất của nền kinh tế quốc gia. Về vấn đề này, một số lập luận đã được nhấn mạnh trong các nghiên cứu hiện có. Nhóm đầu tiên cho rằng, khả năng cung cấp tín dụng được tăng cường trong môi trường ngân hàng ít cạnh tranh hơn (Petersen và Rajan, 1995). Nhóm này nhấn mạnh, các ngân hàng với sức mạnh thị trường tạo ra những mối quan hệ thể hiện ở việc sẵn sàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ. Về bản chất, một hệ thống ngân hàng ít cạnh tranh hơn sẽ thúc đẩy tích lũy vốn bằng cách chuyển các nguồn lực kinh tế để hỗ trợ hoạt động kinh doanh. Các tác giả khác theo dõi sự đóng góp của hệ thống ngân hàng dựa trên tích lũy vốn để tạo ra một môi trường ngân hàng cạnh tranh hơn. Họ nhấn mạnh rằng, trong một thị trường hiệu quả khuyến khích các ngân hàng ra vào tự do, các khoản tín dụng được chuyển đến các lĩnh vực sản xuất với chi phí rẻ hơn.
Một số tài liệu cũng lập luận rằng, môi trường ngân hàng dưới sự kiểm soát của chỉ một số ít ngân hàng có nhiều khả năng thúc đẩy khả năng cung cấp tín dụng và tích lũy vốn (Amidu và Wolfe, 2013). Thị trường ngân hàng tập trung thúc đẩy hành vi cạnh tranh có tác động làm giảm lãi suất, do đó, hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất tiếp cận tài chính với giá rẻ hơn. Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh trên thị trường ngân hàng cũng có thể gây ra hành vi thông đồng giữa các ngân hàng có sức mạnh thị trường có định hướng cạnh tranh tương tự (Claessens và Laeven, 2004).
Lý thuyết cũng đã liên kết mối quan hệ giữa sức mạnh thị trường của ngân hàng và nguồn cung tín dụng với khả năng tiếp cận dễ dàng của các ngân hàng đối với các nguồn vốn thay thế (Boyd và De Nicoló, 2005). Các đặc điểm của từng ngân hàng như quy mô, vốn hóa và tính thanh khoản có liên quan đến việc xác định khả năng tiếp cận thị trường tài chính của họ. Cấu trúc của ngành Ngân hàng cũng có thể ảnh hưởng đến các lựa chọn tài trợ. Các ngân hàng có sức mạnh thị trường cao có khả năng tiếp cận tương đối dễ dàng với các nguồn tài trợ thay thế như chứng chỉ tiền gửi và các khoản vay liên ngân hàng. Kết quả là, các ngân hàng như vậy có thể sẽ giảm bớt khoản cho vay của họ bởi vì họ có khả năng phòng ngừa tốt hơn trước sự sụt giảm tạm thời về tỉ suất lợi nhuận hoặc các khoản lỗ cho vay so với các ngân hàng gặp khó khăn hơn trong việc huy động vốn từ các nguồn khác.
Khi các ngân hàng tích lũy được sức mạnh thị trường, họ trở nên liều lĩnh hơn trong cho vay khi chấp nhận người vay có rủi ro cao để tăng thị phần và tài sản của họ. Bằng cách tính lãi suất cho vay cao hơn, các ngân hàng này làm trầm trọng thêm rủi ro đạo đức (Stiglitz và Weiss, 1981). Những người đi vay có độ an toàn cao hơn không được khuyến khích vay trong khi những người khác bị lôi kéo vào các dự án rủi ro hơn. Các khoản nợ xấu sẽ tăng lên tương ứng, làm tăng thêm rủi ro tài chính tổng thể của ngân hàng và do đó, làm giảm uy tín của họ trên thị trường liên ngân hàng. Dựa trên lí thuyết chuyển đổi rủi ro này (Boyd và De Nicoló, 2005), việc tiếp cận tài chính của ngân hàng trở nên khó khăn hơn và do đó, gây ra rủi ro cấp vốn cao hơn. Thay vào đó, các ngân hàng có thể tự bảo hiểm trước những cú sốc ngoại sinh bằng cách tăng lượng nắm giữ tài sản thanh khoản của mình, tức là giảm cho vay.
Nhìn chung, từ lâu, việc tìm hiểu điều gì giải thích sự khác biệt trong khả năng tiếp cận tín dụng ở các quốc gia thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Một yếu tố quyết định sự hợp lí, quan trọng của những điều kiện này là cấu trúc trên thị trường ngân hàng. Một mặt, có thể xảy ra trường hợp các bên trung gian cần một số quyền lực thị trường để thu hồi chi phí thu thập thông tin trong môi trường thông tin bất cân xứng, do đó, cần có sự cạnh tranh hạn chế để phục vụ các cá nhân và doanh nghiệp. Mặt khác, quyền lực thị trường có thể cho phép các bên trung gian định giá các khoản vay cao hơn. Việc xác định liệu cấu trúc trên thị trường ngân hàng có liên quan đến việc tăng khả năng tiếp cận tài chính hay không vẫn là một câu hỏi thực nghiệm.
Mặc dù có nhiều tranh luận về tác động của cấu trúc thị trường ngân hàng đối với khả năng tiếp cận tài chính, chỉ có một số ít nghiên cứu thực nghiệm liên quan khám phá các tác động này. Wang và cộng sự (2020) xem xét sức mạnh thị trường ngân hàng ảnh hưởng như thế nào đến chi phí khoản vay của các doanh nghiệp nhỏ và vừa bằng cách sử dụng dữ liệu từ 17 quốc gia châu Âu. Các tác giả cho rằng, sức mạnh thị trường của ngân hàng làm giảm chi phí nợ cho các doanh nghiệp. Tác động thuận lợi như vậy sẽ mạnh hơn đối với các doanh nghiệp kém minh bạch về thông tin và ở các nền kinh tế có độ sâu thông tin tín dụng cũng như mức độ công bố thông tin kinh doanh ít hơn. Tuy nhiên, các tác giả chỉ mới dừng lại ở việc khảo sát giá cả tín dụng mà chưa tập trung vào quy mô tín dụng. Tương tự, Canon và cộng sự (2022) nghiên cứu mối quan hệ giữa các thang đo cạnh tranh ở cấp độ ngân hàng và chi phí tín dụng cho các doanh nghiệp phi tài chính ở Mexico trong giai đoạn 2009 - 2016. Hai chỉ số cạnh tranh được xây dựng, gồm chỉ số Lerner và chỉ số Boone. Kết quả nghiên cứu của họ chỉ ra rằng, các chi phí khoản vay được cung cấp bởi các ngân hàng có sức mạnh thị trường cao hơn (chỉ số Lerner) là đắt hơn đáng kể, cụ thể cao hơn 11% so với lãi suất trung bình. Ngoài ra, sự chênh lệch giá đó tập trung vào các khoản cho vay dành cho các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và các doanh nghiệp ở miền Trung và miền Nam của Mexico.
Beck và cộng sự (2004) ghi nhận tác động tiêu cực của sức mạnh thị trường ngân hàng đối với khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng của các doanh nghiệp ở 74 quốc gia phát triển và đang phát triển khi các ngân hàng áp đặt các ràng buộc tài chính cao hơn đối với các doanh nghiệp. Ngược lại, Carletti và Leonello (2019) chỉ ra rằng, các ngân hàng có sức mạnh thị trường thấp hơn có động cơ đầu tư nhiều hơn vào dự trữ thanh khoản và ít cho vay hơn, vì các khoản vay không mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng và chi phí cơ hội của việc nắm giữ dự trữ thấp.
Tóm lại, các nghiên cứu hiện có đã đưa ra bằng chứng rất hạn chế về tác động của cấu trúc thị trường ngân hàng đối với hoạt động cho vay và cho thấy những khoảng trống nghiên cứu cần được bổ sung.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Mô hình tăng trưởng cho vay
Nghiên cứu tiến hành hồi quy biến đại diện hoạt động cho vay của ngân hàng trên các thước đo cấu trúc thị trường ngân hàng, kiểm soát các yếu tố liên quan ở cả cấp độ ngân hàng và nền kinh tế:
CHOVAYi,t= α0 + α1 × CHOVAYi,t-1 + α2 × TTTTi,t + α3 × KSi,t-1 + εi,t
Trong đó i và t lần lượt là ngân hàng và năm. Biến phụ thuộc CHOVAYi,t đo lường sự thay đổi hằng năm của tổng cho vay khách hàng của ngân hàng so với mức tổng cho vay khách hàng trong năm trước. TTTTi,t là các biến tập trung thị trường. KSi,t- bao gồm các biến kiểm soát và εi,t là sai số của mô hình. Theo đó, tập hợp các biến kiểm soát đặc điểm của ngân hàng bao gồm hệ số vốn chủ sở hữu, quy mô ngân hàng, hệ số tài sản có tính thanh khoản cao và tỉ lệ huy động tiền gửi.
Nghiên cứu sử dụng biến số cấp vĩ mô là chỉ số Herfindal-Hirschman (HHI) để kiểm tra tác động của sự tập trung thị trường ngân hàng, với HHI là tổng bình phương giá trị thị phần của mỗi ngân hàng (tổng tài sản) trên thị trường ngân hàng với giá trị từ 0 đến 1
cho thấy, thị trường ngân hàng từ tập trung ít nhất đến tập trung cao nhất. Nghiên cứu cũng áp dụng tỉ lệ tập trung (3 và 5) được sử dụng rộng rãi để kiểm tra tính vững, được định nghĩa là tổng tài sản của ba hoặc năm ngân hàng lớn nhất trong thị trường ngân hàng dưới dạng một phần của tổng tài sản ngành Ngân hàng.
Công cụ ước lượng GMM hệ thống có giải pháp thay thế một bước và hai bước. Đối với GMM hệ thống, Lee và Hsieh (2013) nhấn mạnh rằng, công cụ ước lượng GMM hai bước thường hiệu quả hơn công cụ ước lượng GMM một bước vì nó mạnh hơn đối với bộ công cụ yếu. Hơn nữa, Windmeijer (2005) trình bày ước lượng phương sai đã hiệu chỉnh cho công cụ ước lượng hai bước, qua đó, cho phép suy luận chính xác hơn so với công cụ ước tính một bước do sai số chuẩn và sai lệch thấp hơn. Vì tất cả những lí do đã đề cập, nghiên cứu sử dụng công cụ ước lượng GMM hệ thống hai bước để tiến hành phân tích (Arellano và Bover, 1995; Blundell và Bond, 1998).
Tính nhất quán của công cụ ước lượng GMM chỉ được đảm bảo nếu không có mối tương quan chuỗi trong các sai số và nếu các biến công cụ là hợp lệ. Tính hợp lệ của các công cụ được kiểm tra thông qua phép thử Hansen. Hansen giúp kiểm định giả thuyết rằng các công cụ có là hợp lệ và do đó, chúng không tương quan với sai số. Để kiểm tra tự tương quan, kiểm định Arellano-Bond cho tự tương quan được sử dụng. Sự hiện diện của tự tương quan bậc nhất (AR(1)), không có nghĩa là các ước lượng không nhất quán. Sự hiện diện của tương quan bậc hai (AR(2)), sẽ làm cho công cụ ước lượng GMM không nhất quán và đây là phép thử quan trọng. Vì lí do này, kết quả kiểm định AR(2) không bác bỏ giả thuyết Ho (Null hypothesis) để đảm bảo tính nhất quán của công cụ ước lượng GMM.
3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cho vay Hệ số vốn
Các ngân hàng dự kiến sẽ được vốn hóa đầy đủ. Điều này ngụ ý rằng họ phải có đủ tài sản có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt để đáp ứng các nghĩa vụ ngắn hạn và dài hạn. Vốn hóa ngân hàng có mối quan hệ tích cực với hành vi cho vay của các NHTM, vì khi đảm bảo nguồn vốn thì các ngân hàng sẽ có nền tảng để phát triển kinh doanh (Carlson và cộng sự, 2013). Hệ số vốn chủ sở hữu được đo lường bằng tỉ lệ tổng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản.
Quy mô ngân hàng
Quy mô ngân hàng là cơ sở đo lường cho tổng nguồn lực sẵn có của ngân hàng để cho vay. Kashyap và Stein (2000) lập luận rằng, quy mô ngân hàng được đo bằng tổng tài sản là một trong những yếu tố chính quyết định hoạt động kinh doanh và cho vay của NHTM. Các ngân hàng lớn có lợi thế trong việc cung cấp nhiều loại dịch vụ tài chính cho khách hàng của họ vì họ có khả năng huy động nhiều tiền hơn. Do đó, có thể có một mối quan hệ tích cực giữa giá trị của quy mô ngân hàng và mức cho vay của ngân hàng vì cơ sở tài sản của ngân hàng càng lớn thì bảng cân đối kế toán của ngân hàng có thể đáp ứng càng nhiều khoản vay. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng các ngân hàng nhỏ có lợi thế trong một số thị trường kinh doanh nhờ vào cơ cấu tổ chức của họ (Udell, 1989). Quy mô ngân hàng được đo lường bằng logarit tự nhiên của tổng tài sản.
Tài sản thanh khoản cao
Lí thuyết cho thấy các ngân hàng kém thanh khoản sẽ cắt giảm tín dụng nhiều hơn vì họ có thể gặp nhiều khó khăn hơn trong việc bù lỗ khi cho vay. Tuy nhiên, mức độ thanh khoản cao cũng có thể cho phép ngân hàng rút tiền từ quỹ thanh khoản của chính mình thay vì dựa vào thị trường (Ratnovski, 2009). Hệ số tài sản có tính thanh khoản cao được đo lường bằng tỉ trọng tiền mặt và chứng khoán so với tổng tài sản.
Huy động tiền gửi
Hoạt động cho vay chỉ có thể thực hiện được nếu các ngân hàng có thể huy động đủ tiền từ khách hàng của họ. Vì các NHTM phụ thuộc vào tiền của người gửi tiền như một nguồn vốn chính, điều đó có nghĩa là có một số mối quan hệ giữa khả năng huy động tiền gửi của ngân hàng và lượng tín dụng cấp cho khách hàng. Khi tổng tiền gửi tăng thì tổng tiền cam kết cho vay và tiền cho vay tăng theo tỉ lệ thuận (Acharya và Naqvi, 2012). Sự gia tăng tiền gửi của một ngân hàng có thể cải thiện khả năng cho khách hàng vay nhiều hơn. Cho vay và tiền gửi tương quan đồng biến vì tăng trưởng tiền gửi nhanh hơn báo hiệu nhu cầu cho vay ngày càng tăng. Tỉ lệ huy động tiền gửi được tính theo tỉ lệ trên danh mục nguồn vốn.
3.3. Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2021 làm giai đoạn mẫu. Giá trị ngoại lai và giá trị quan sát bị thiếu có thể có ảnh hưởng không mong muốn đến ước lượng hồi quy. Do đó, trước khi chạy mô hình hồi quy, thống kê đơn biến hiển thị tóm tắt về giá trị cực đại, cực tiểu và giá trị thiếu được tính toán. Kết quả cho thấy, không có giá trị nào bị thiếu có khả năng làm giảm chất lượng của bảng dữ liệu, nhưng dữ liệu cho một số biến có giá trị tiêu cực. Do đó, để giảm độ lệch tiềm ẩn do các ngoại lai gây ra, nghiên cứu thông qua việc thay thế các giá trị trên cùng và dưới cùng bằng giá trị ở phân vị thứ 5 và 95 tương ứng, đối với các biến cấp độ ngân hàng. Bảng 1 trình bày các chỉ số thống kê mô tả.
Bảng 1: Các chỉ số thống kê mô tả
Nguồn: Phân tích của các tác giả
4. Kết quả và thảo luận
4.1. Kết quả
Để ước tính các mô hình, nghiên cứu sử dụng các kĩ thuật dữ liệu bảng động vì cho vay của ngân hàng có thể bị ảnh hưởng bởi các giá trị trong quá khứ của nó. Mô hình dữ liệu bảng động được ước tính bằng cách sử dụng GMM hai bước hệ thống để tạo ra các ước tính hiệu quả hơn so với sử dụng GMM một bước. Phù hợp với kì vọng, phép thử Hansen để kiểm tra tính hợp lệ của bộ công cụ chỉ ra rằng, không thể bác bỏ giả thuyết rằng các hạn chế xác định quá mức là hợp lệ ở mức 5%, cho thấy các công cụ là phù hợp. Nghiên cứu cũng thực hiện kiểm định Arellano-Bond để phát hiện tự tương quan bậc nhất và tự tương quan bậc hai trong phần dư. Kết quả cho thấy rằng, như kì vọng, thống kê bậc một có ý nghĩa thống kê ở mức 10% hoặc cao hơn, trong khi thống kê bậc hai không có ý nghĩa thống kê. Do không có tự tương quan bậc hai trong tất cả các thông số kĩ thuật của GMM, vì vậy, hợp lí khi đề xuất rằng các công cụ ước tính là nhất quán.
Bảng 2 trình bày kết quả thực nghiệm về tác động của tập trung đến tăng trưởng cho vay. Như kết quả hồi quy cho thấy, nghiên cứu thu được hệ số dương và có ý nghĩa đối với biến CR5. Kết quả này chỉ ra rằng, trong những năm khảo sát, tồn tại tác động cùng chiều của tập trung thị trường đối với số lượng các khoản vay được cấp bởi những ngân hàng trung bình. Tác động tích cực này của tập trung thị trường ngân hàng cũng có ý nghĩa kinh tế. Cụ thể, sự gia tăng 1% trong CR5 sẽ làm tăng tỉ lệ tăng trưởng hằng năm các khoản cho vay của ngân hàng lên 308,683%. Kết quả này là phù hợp khi mà độ lệch chuẩn của biến CR5 là 0,052 và trung bình của tăng trưởng cho vay là 27,579%. Các kết quả hồi quy là rất vững, khi sử dụng biến thay thế là tổng thị phần 3 ngân hàng lớn nhất hay biến CR3.
Tiếp theo, khi giá trị của thang đo HHI càng cao cho thấy mức độ tập trung của ngân hàng càng cao, hệ số dương trên thang đo ngụ ý mối quan hệ tích cực giữa mức độ tập trung của ngân hàng và thước đo tăng trưởng cho vay ngân hàng. Kết quả này cho thấy, mức độ tập trung của ngân hàng làm tăng tốc độ tăng trưởng cho vay. Tác động này của tập trung thị trường ngân hàng cũng đảm bảo ý nghĩa kinh tế.
Về các biến kiểm soát, quy mô ngân hàng cho thấy các hệ số tác động âm và có ý nghĩa thống kê trong tất cả các ước tính, nghĩa là quy mô của ngân hàng có quan hệ ngược chiều với tăng trưởng cho vay. Kết quả này cho thấy, ngân hàng có quy mô nhỏ hơn lại có tăng trưởng cho vay nhiều hơn, qua đó không xác nhận quan điểm rằng, quy mô ngân hàng đo lường cơ sở cho tổng nguồn lực sẵn có của ngân hàng để cho vay (Kashyap và Stein, 2000). Các ngân hàng nhỏ có lợi thế trong một số thị trường kinh doanh nhờ vào cơ cấu tổ chức của họ (Udell, 1989).
Ngoài ra, trong bối cảnh các ngân hàng có vốn hóa tốt, mà khẩu vị rủi ro thấp hơn, họ có xu hướng thể hiện hành vi thận trọng hơn trong các quyết định đầu tư, từ đó, vốn chủ sở hữu ngân hàng sẽ ảnh hưởng ngược chiều đến việc mở rộng cho vay. Vốn ngân hàng được xem như nhân tố xác định động cơ quản lí, nghĩa là bộ đệm vốn lớn có thể khiến ngân hàng thực hiện các chiến lược kinh doanh thận trọng bằng cách giảm các hành vi có rủi ro, điển hình như cho vay (VanHoose, 2007). (Bảng 2)
Bảng 2: Kết quả thực nghiệm về tác động của tập trung đến cho vay
Nguồn: Phân tích của các tác giả
4.2. Thảo luận
Kết quả hồi quy phân tích mối quan hệ giữa cấu trúc thị trường và tăng trưởng cho vay là rất vững và nhất quán, cho thấy thị trường càng tập trung và ngân hàng có sức mạnh thị trường càng cao thì tăng trưởng cho vay càng lớn hơn. Kết quả này phù hợp với lập luận về mối quan hệ cùng chiều giữa sức mạnh thị trường của ngân hàng và cung cấp tín dụng với việc ngân hàng dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn thay thế. Nếu các ngân hàng có sức mạnh thị trường cao hơn có khả năng tiếp cận thị trường tài chính nhiều hơn và trong điều kiện tốt hơn, họ có thể phòng ngừa tổn thất trong hoạt động cho vay thông qua việc sử dụng tiền từ các nguồn khác. Do đó, họ sẽ không cần phải giảm lượng tín dụng cho vay, mà trái lại, có thể tăng cho vay.
Hơn nữa, kết quả có thể gợi ý rằng sức mạnh thị trường lớn hơn của các ngân hàng có liên quan đến nhiều động cơ hơn để cung cấp vốn không chỉ cho những khách hàng hiện tại mà còn cho những người vay mới vì các điều kiện tín dụng có lợi. Giả sử vì lí do nào đó, ngân hàng không đảm bảo khả năng cho vay cho khách hàng của họ, thì một số khách hàng của ngân hàng đó buộc phải vay từ các ngân hàng mới để giữ khoản đầu tư của họ. Vì họ cần nhanh chóng tìm một người cho vay mới, các ngân hàng có thể yêu cầu mức lãi suất cao hơn trong hoạt động cho vay. Do đó, bất chấp sự bất cân xứng thông tin cao, các thực thể có mức độ quyền lực thị trường cao hơn sẽ sẵn sàng cung cấp vốn cho những người đi vay thông qua mối quan hệ mới này.
Đầu tư của ngân hàng và tính thanh khoản đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm từ lâu. Các ngân hàng có thể đủ khả năng nắm giữ tài sản thanh khoản ít hơn khi họ đã cải thiện khả năng tiếp cận với cả thị trường vốn bán lẻ và bán buôn. Trong đó, phải kể đến chi phí cơ hội do nắm giữ tài sản lưu động có năng suất thấp gây ra, khi mà những chi phí như vậy tăng nhiều hơn trong các thị trường ngân hàng cạnh tranh và do đó, các ngân hàng đầu tư nhiều hơn vào các tài sản rủi ro. Theo đó, các ngân hàng chi phối trên thị trường tập trung nắm giữ ít tài sản có tính thanh khoản cao hơn và do đó, các ngân hàng đầu tư nhiều hơn vào các tài sản có rủi ro nhưng sinh lời cao, như các khoản cho vay.
5. Kết luận và hàm ý chính sách
Bài viết này sử dụng mô hình kinh tế lượng dạng bảng động để khám phá tác động của tập trung ngân hàng đối với khía cạnh tăng trưởng cho vay. Các biến kiểm soát phù hợp được sử dụng. Độ trễ của các biến giải thích được sử dụng linh hoạt để giảm thiểu nội sinh, dựa trên kì vọng là cấu trúc thị trường không phát huy ảnh hưởng tức thì lên ngân hàng. Kết quả của nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, tác động chung của tập trung thị trường là rất quan trọng đối với hoạt động cho vay của ngân hàng. Mức độ tập trung thị trường càng cao, sức mạnh thị trường của ngân hàng tăng lên, được quan sát là có tác động tích cực và làm gia tăng tăng trưởng cho vay của ngân hàng.
Những phát hiện của nghiên cứu chỉ ra rằng, tập trung nhiều hơn dẫn đến cải thiện khả năng cho vay. Do đó, nên khuyến khích việc sáp nhập và mua lại các ngân hàng vừa và nhỏ để hiện thực hóa một hệ thống tài chính hợp nhất hơn. Việc sáp nhập các ngân hàng cần được xem xét vì nó có khả năng đem lại hiệu ứng tích cực đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng khác trong hệ thống. Các cơ quan quản lí nhà nước cần xây dựng một khung khổ pháp lí chung đối với hoạt động sáp nhập nhằm đảm bảo hiệu quả của việc sáp nhập ngân hàng.
Tài liệu tham khảo:
1. Acharya, V., & Naqvi, H. (2012). The seeds of a crisis: A theory of bank liquidity and risk taking over the business cycle. Journal of Financial Economics, 106(2), pages 349-366.
2. Amidu, M., & Wolfe, S. (2013). Does bank competition and diversification lead to greater stability? Evidence from emerging markets. Review of Development Finance, 3(3), pages 152-166.
3. Arellano, M., & Bover, O. (1995). Another look at the instrumental variable estimation of error-components models. Journal of Econometrics, 68(1), pages 29-51.
4. Beck, T., Demirguc-Kunt, A., & Maksimovic, V. (2004). Bank competition and access to finance: International evidence. Journal of Money, Credit, and Banking, 36(3b), pages 627-648.
5. Blundell, R., & Bond, S. (1998). Initial conditions and moment restrictions in dynamic panel data models. Journal of Econometrics, 87(1), pages
115-143.
6. Boyd, J. H., & De Nicoló, G. (2005). The theory of bank risk taking and competition revisited. Journal of Finance, 60(3), pages 1329-1343.
7. Cañón, C., Cortés, E., & Guerrero, R. (2022). Bank competition and the price of credit: Evidence using Mexican loan-level data. International Review of Economics & Finance, 79, pages 56-74.
8. Carletti, E., & Leonello, A. (2019). Credit market competition and liquidity crises. Review of Finance, 23(5), pages 855-892.
9. Carlson, M., Shan, H., & Warusawitharana, M. (2013). Capital ratios and bank lending: A matched bank approach. Journal of Financial Intermediation, 22(4), pages 663-687.
10. Claessens, S., & Laeven, L. (2004). What drives bank competition? Some international evidence. Journal of Money, Credit, and Banking, 36(3b), pages 563-583.
11. Kashyap, A. K., & Stein, J. C. (2000). What do a million observations on banks say about the transmission of monetary policy? American Economic Review, 90(3), pages 407-428.
12. Lee, C. C., & Hsieh, M. F. (2013). The impact of bank capital on profitability and risk in Asian banking. Journal of International Money and Finance, 32(1), pages 251-281.
13. Petersen, M. A., & Rajan, R. G. (1995). The effect of credit market competition on lending relationships. Quarterly Journal of Economics, 110(2), pages 407-443.
14. Ratnovski, L. (2009). Bank liquidity regulation and the lender of last resort. Journal of Financial Intermediation, 18(4), pages 541-558.
15. Stiglitz, J. E., & Weiss, A. (1981). Credit rationing in markets with imperfect information. The American Economic Review, 71(3), pages 393-410.
16. Udell, G. F. (1989). Loan quality, commercial loan review and loan officer contracting. Journal of Banking and Finance, 13(3), pages 367-382.
17. VanHoose, D. (2007). Theories of bank behavior under capital regulation. Journal of Banking and Finance, 31(12), pages 3680-3697.
18. Wang, X., Han, L., & Huang, X. (2020). Bank competition, concentration and EU SME cost of debt. International Review of Financial Analysis, 71.
19. Windmeijer, F. (2005). A finite sample correction for the variance of linear efficient two-step GMM estimators. Journal of Econometrics, 126(1), pages 25-51.
Dương Thị Mai Phương (Trường Đại học Sài Gòn)